Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III và xây dựng lộ trình áp dụng Basel III tại Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
Chương 1. Hiệp ước Basel và nội dung Hiệp ước Basel III 3
1.1 Hiệp ước Basel là gì? 3
1.2Nội dung chính của Hiệp ước Basel III 5
1.3So sánh Basel III và Basel II 7
1.4 Thế giới hoãn thực hiện Hiệp ước Basel III 8
Chương 2. Đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam 10
2.1 Thực tiễn áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam 10
2.2 Đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam 18
Chương 3. Xây dựng lộ trình áp dụng Hiệp ước Basel III tại Việt Nam 22
3.1 Lộ trình áp dụng của ngành ngân hàng thế giới 22
3.2 Xây dựng lộ trình áp dụng Hiệp ước Basel III tại Việt Nam 23
KẾT LUẬN 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
MỞ ĐẦU
Ngân hàng là trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế do vậy công chúng và
thị trường có sự nhạy cảm với bất kỳ khó khăn nào nảy sinh từ những hạn chế nhỏ trong
ngân hàng. Do vậy, quản trị ngân hàng ảnh hưởng rất lớn tới bản thân các ngân hàng nói
riêng và hệ thống tài chính quốc tế nói chung, và do vậy cần phải có sự hướng dẫn nhằm
giám sát hoạt động của các ngân hàng theo đúng chuẩn.
Hiệp ước Basel đến nay đã qua 3 lần sửa đổi, bổ sung với mục đích củng cố và đảm
bảo cho hoạt động an toàn của ngành ngân hàng, tạo một cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong
hệ thống. Tuy hiệp ước Basel không mang tính pháp lí bắt buộc nhưng những tiêu chuẩn
của Basel đang trở thành định hướng cho hệ thống ngân hàng toàn cầu.
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của WTO, vấn đề quản trị doanh nghiệp đã được đặt ra như
một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị
doanh nghiệp tốt đồng nghĩa với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng


trưởng Các ngân hàng thương mại với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền”, có độ rủi
ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với
một nước đang phát triển như Việt Nam, khi ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ
quan trọng đối với doanh nghiệp. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không chỉ gây
tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây
chuyền cho các đơn vị khác và ngược lại. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng
cao, khả năng hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp sẽ càng lớn.
Từ sau khi gia nhập WTO đến nay, ngành ngân hàng Việt Nam đã bộ lộ không ít
điểm yếu kém, cần thiết phải sang lọc và cải cách lại hệ thống nhằm nâng cao sức mạnh
cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy sớm đáp ứng các tiêu chuẩn theo thông lệ
quốc tế là cần thiết.
Mục tiêu của tiểu luận này là đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III và xây
dựng lộ trình áp dụng Basel III tại Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương 1. Hiệp ước Basel và nội dung Hiệp ước Basel III
1.1 Hiệp ước Basel là gì?
Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới phát triển mạnh
và có những dấu hiệu cho thấy sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng
thời, quy định về vốn điều lệ giữa các ngân hàng thương mại ở các nước khác nhau, nên dẫn
đến sự cạnh tranh không lành mạnh trong cùng một thị trường, đây là điều cấm kị trong cơ
chế hội nhập. Vì vậy lãnh đạo ngân hàng của các nước phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm
ra giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh nhưng đảm bảo công bằng và an toàn
cho người gửi tiền, đó là một rong những lý do quan trọng cho sự ra đời của Hiệp ước
Basel. Hiệp ước Basel Capital Accord đầu tiên được kí kết vào năm 1988 bởi một nhóm đại
diện ngân hàng trung ương của 10 quốc gia.
Mục đích của Hiêp ước Basel:
_ Làm hài hòa các tiêu chuẩn về vốn của các ngân hàng quốc tế nhằm tăng cường sự ổn
định của hệ thống ngân hàng quốc tế và xóa bỏ việc cạnh tranh không công bằng giữa các
ngân hàng quốc tế.
_ Đảm bảo việc phân bổ nguồn vốn nhạy hơn đối với rủi ro.

_ Tách biệt rủi ro vận hành với rủi ro tín dụng, và lượng hoá cả hai.
_ Cố gắng gắn kết nguồn vốn kinh tế và nguồn vốn bắt buộc để giảm bớt hoạt động kinh
doanh chứng khoán bắt buộc.
Lịch sử ngắn gọn của Hiệp ước vốn Basel:
_ Năm 1974, BCBS được thành lập từ nhóm G10 Ngân hàng Trung ương.
_ Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992.
_ Năm 1996, được sửa đổi bổ sung thêm rủi ro thị trường (có hiệu lực từ 1997).
_ Tháng 6/1999, đề xuất một khung mới .
– Chương trình tư vấn lần thứ nhất (FirstConsultative Package – CP1).
_ Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
_ Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3).
_ Quý 4/2003, phiên bản hoàn thiện của Hiệp ước Basel mới.
_ Tháng 1/2007, Hiệp ước vốn Basel mới (Basel II) có hiệu lực.
_ Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi.
Sau gần 1 năm Ngân hàng Lehman Brothes sụp đổ, tháng 6-2009, Tổng thống
Barack Obama đề nghị một chương trình cải tổ toàn diện đối với hệ thống tài chính Hoa Kỳ.
Tháng 7-2010, đạo luật Dodd-Frank được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nhằm lành mạnh hóa
hệ thống tài chính đất nước. Trong thời gian này, nước Anh vốn là trung tâm tài chính lớn
nhất thế giới, đưa ra chương trình cải cách lĩnh vực tài chính. Khu vực đồng tiền chung châu
Âu (Eurozone) cũng tiến hành các biện pháp tương tự trong việc cải cách ngành tài chính.
Riêng đối với ngành ngân hàng - nhóm ngành quan trọng trong lĩnh vực tài chính và cũng là
“tội đồ” của cuộc khủng hoảng 2008 - Hiệp ước Basel III ra đời nhằm khắc phục những yếu
kém mà Hiệp ước Basel II còn khiếm khuyết.
Trong khi Basel II chỉ quan tâm đến vấn đề an toàn vốn (hay vốn dựa vào rủi ro -
Risk-based capital), Basel III tập trung vào 2 vấn đề: gia tăng tiêu chuẩn về an toàn vốn và
đưa ra các tiêu chuẩn về thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại. Như vậy, điểm
khác biệt quan trọng giữa 2 hiệp ước là Basel III chú ý nhiều hơn đối với vấn đề thanh
khoản của hệ thống ngân hàng.
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cho thấy chính việc không chú trọng vấn đề thanh
khoản, đã khiến nhiều ngân hàng phải phá sản. Với Basel III, để có được sự ổn định trong

hệ thống tài chính, phải đáp ứng các quy định về tính thanh khoản và an toàn vốn. An toàn
vốn tạo nên tấm đệm vốn để sống sót trong dài hạn, còn thanh khoản là để sống sót trong
ngắn hạn. Một hệ thống tài chính vững mạnh không thể thiếu 1 trong 2 yếu tố này.
Bản dự thảo đã được công bố từ năm 2010 và theo lộ trình sẽ có bắt đầu có hiệu lực
từ 1/1/2015. Basel III có 2 tỷ số về tính thanh khoản. Đó là tỷ lệ khả năng chi trả dự kiến
thực hiện vào tháng 1-2015 và tỷ số tài trợ ổn định dự kiến áp dụng vào tháng 1-2018.
Trong đó, tỷ lệ khả năng chi trả được xây dựng để yêu cầu một ngân hàng duy trì lượng tài
sản có tính thanh khoản cao, có khả năng chuyển đổi ra tiền mặt đáp ứng nhu cầu trong 30
ngày trong tình huống kiệt quệ thanh khoản của hệ thống tài chính. Tỷ số tài trợ ổn định
được dùng để yêu cầu các ngân hàng duy trì việc tài trợ cho các tài sản trung và dài hạn
cũng như hoạt động của ngân hàng trong 1 năm.
Các tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel III được đánh giá là mạnh mẽ, quyết liệt hơn
trong việc đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn chung
của nền kinh tế toàn cầu hiện tại, đặc biệt là khủng hoàng nợ công ở châu Âu vẫn chưa được
giải quyết triệt để, hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel III sẽ là thử thách lớn của hệ
thống ngân hàng toàn cầu.
1.2Nội dung chính của Hiệp ước Basel III
Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ lực
ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, Ủy ban Basel về Giám sát
Ngân hàng đã phát triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy
định nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên. Như vậy, mục tiêu gói cải cách
của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân
hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn
gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế.
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất
lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ
tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối
thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp

xảy ra khủng hoảng. Cụ thể, Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ
rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính toán tài
sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 ).
Tóm tắt các thay đổi:
Thứ nhất, chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được
nâng lên. Trong đó, chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi
nhuận giữ lại. Hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn được giữ ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn
vốn cấp I phải đạt 6% trên 8% đó. Đáng chú ý là trong 6% vốn cấp I đó phải có 4.5% là
vốn của các cổ đông thông thường. Thời hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày
1/1/2015, với một lộ trình rõ ràng và chi tiết hơn. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ
tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Ngoài ra, các công cụ vốn cấp 2 sẽ được
cân đối hài hòa và vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ.
Thứ hai, mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường: Tăng cường
các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh, các nghiệp vụ bảo
đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao dịch tài chính. Đồng thời, nâng
cao vốn dự phòng cho các rủi ro, giảm các chu kỳ và cung cấp các ưu đãi bổ sung để di
chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân
hàng (trung tâm thanh toán bù trừ). Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng
đối ứng.
Thứ ba, Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi
ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy nhằm
đạt được các mục tiêu. Một là, xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân
hàng. Hai là, đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng
cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng thể.
Thứ tư, Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm
vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm chu kỳ và
thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ").
Thứ năm, Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối
thiểu cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo
trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là Tỷ lệ

dự phòng bình ổn. Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc
các biện pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan
trọng được thành lập có hệ thống. Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-
9,5% (4,5%- 2,5% (bảo tồn vùng đệm), + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ
thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và 10,5-13 cho tổng số vốn.
1.3So sánh Basel III và Basel II
Những điểm khác biệt mấu chốt của Basel III và Basel II được tóm tắt trong bảng 1.3-1.
BASEL II BASEL III
- Tỷ lệ vốn cấp 1: 4%
- Tỷ lệ vốn cốt lõi trong
vốn cấp 1 = 2%
- Tỷ lệ vốn cấp 1: 6%
- Tỷ lệ vốn cốt lõi trong vốn cấp 1 (Vốn cổ phần thường) = 4,5%
Note: Tỷ lệ vốn cốt lõi trong vốn cấp 1 (vốn cổ phần chung sau
khi khấu trừ)
trước năm 2013 = 2%,
01/01/2013 = 3,5%
01/01/2014 = 4%
01/01/2015 = 4,5%
CAR >= 8% CAR >= 8%
Mức vốn tốt: CAR > 10%
Mức vốn thích hợp: CAR > 8%
Thiếu vốn: CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Vốn bảo tồn vùng đệm:
không có bộ đệm.
Vốn bảo tồn vùng đệm = 2,5%
Ghi chú:
Bảo tồn vốn đệm trước năm 2016 = 0%

01/01/2016 = 0,625%
01/01/2017 = 1,25%
01/01/2018 = 1,875%
01/01/2019 = 2,5%
Mục đích của bộ đệm bảo tồn vốn là để đảm bảo rằng các ngân
hàng duy trì một bộ đệm vốn để hấp thụ các thiệt hại trong giai
đoạn căng thẳng tài chính và kinh tế toàn cầu
Vốn đệm ngược chu kỳ:
không có.
Vốn đệm ngược chu kỳ = 2,5%
Note:
vốn đệm ngược chu kỳ trước năm 2016 = 0%
01/01/2016 = 0,625%
01/01/2017 = 1,25%
01/01/2018 = 1,875%
01/01/2019 = 2,5%.
Mục đích của bộ đệm vốn ngược chu kỳ là để đảm bảo rằng các
ngân hàng duy trì một bộ đệm vốn để có đủ khả năng tài chính
đối đầu với các sự kiện ngược chu kỳ kinh tế
Vốn cho các ngân hàng
quan trọng trong hệ
thống: không có
Vốn cho các ngân hàng quan trọng trong hệ thống: có
Tổng Tỷ lệ điều tiết vốn = [Tỷ lệ vốn cấp 1] + [Bảo tồn vốn đệm] + [Vốn đệm ngược chu
kỳ] + [Vốn cho các ngân hàng quan trọng có hệ thống]
Bảng 1.3-1. Những điểm khác biệt mấu chốt của Basel III và Basel II
1.4 Thế giới hoãn thực hiện Hiệp ước Basel III
Những quy định tăng vốn khắt khe của hiệp ước Basel III trong hoàn cảnh nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay và tiến trình phục hồi nền kinh tế, các ngân hàng, kể cả
các ngân hàng hàng đầu của Mỹ và châu Âu vẫn chưa thể đáp ứng ngay được.

Theo Ủy ban Basel, nghiên cứu chọn mẫu được thực hiện trên 209 ngân hàng cho
thấy đến cuối năm 2011, các ngân hàng còn thiếu tới 1.800 tỷ euro (tương đương 2.300 tỷ
USD) để tuân thủ đúng với các điều kiện trong qui định về tỷ lệ LCR phiên bản năm 2010.
Châu Âu và Mỹ đã nhiều lần trì hoãn thực thi các qui định này.
Trước những khó khăn đó, Các thống đốc NHTW trên toàn thế giới đã đồng ý
“xuống nước” và hoãn lại kế hoạch nâng các tiêu chuẩn về vốn đối với hệ thống ngân hàng.
Theo thỏa thuận vừa được thông qua tại hội nghị các thống đốc NHTW diễn ra tại
Basel ngày 6/1/2013, các ngân hàng sẽ được phép sử dụng nhiều loại tài sản (trong đó bao
gồm một số loại chứng khoán và các khoản nợ thế chấp đã được chứng khoán hóa có mức
xếp hạng tín dụng cao) để đáp ứng tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản (LCR). Các ngân
hàng có thể sử dụng nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp hơn (bao gồm cả một số loại chứng
khoán có mức xếp hạng tín dụng thấp hơn). Các ngân hàng cũng có thêm 4 năm nữa để tuân
thủ đầy đủ các qui định này. Đến năm 2015, các ngân hàng sẽ chỉ phải đáp ứng 60% các qui
định về LCR.
Các ngân hàng toàn cầu sẽ có thêm 3 năm nữa để bắt đầu tuân thủ quy định về tăng
vốn dự phòng khủng hoảng (Basel III). Động thái này diễn ra sau khi có nhiều cảnh báo cho
rằng kế hoạch trên sẽ bóp nghẹt hoạt động cho vay và đe dọa đến đà phục hồi của các nền
kinh tế. Khi quy định bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/2015, các ngân hàng phải đáp ứng
60% vốn dự phòng theo quy định, vốn dự phòng này sẽ tăng thêm 10% mỗi năm cho đến
2019.
Chương 2. Đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam
2.1 Thực tiễn áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam
Thông tư 13/2010/TT-Ngân hàng Nhà nước và Hệ số CAR
Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn
vào mức tính toán cho toàn hệ thống, hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam đã đảm
bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu 9% theo Thông tư số 03/2010/TT-Ngân hàng Nhà
nước. Đầu tiên, có những tín hiệu tốt khi hầu hết các Ngân hàng Thương mại đều đạt CAR
trên 9%, mặc dù AGR chỉ đạt được 8% nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng vì nếu so
với tiêu chuẩn của cả Basel I, II và III thì AGR cũng thỏa mãn quy định.
Hình 2.1-1: Hệ số CAR của các Ngân hàng Thương mại tại 31/12/2010

Hình 2.1-2: Hệ số CAR của các Ngân hàng Thương mại tại 31/12/2011
Hình 2.2-3: Hệ số CAR của các Ngân hàng Thương mại tại 31/12/2012
Dấu hiệu đáng quan tâm thứ hai là, nếu xét trên toàn hệ thống ngành Ngân hàng thì
CAR có xu hướng tăng lên, từ 11.92% vào thời điểm tháng 9/2011 đến 13.7% vào ngày
31/10/2012. Một trong những nguyên nhân là các Ngân hàng Thương mại CP đều cố gắng
thực hiện theo NĐ 141/2006/NĐ-CP về việc tăng vốn điều lệ trên 3000 tỷ đồng. Tính đến
31/10/2012, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ thấp hơn 3000 tỷ đồng.
Bảng 2.1-1: Tỷ lệ an toàn vốn của ngành Ngân hàng
Đơn vị tính: %
31/12/2010 31/12/2010 31/12/2010
CAR(%) 8.54% 9.4% 13.7%
Nguồn: tổng hợp từ Ngân hàng Nhà
nước
Tuy nhiên, với hai dấu hiệu trên, chúng ta vẫn chưa thể kết luận các Ngân hàng
Thương mại Việt Nam đã sẵn sang đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro bởi các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù là ngân hàng lớn nhất VN cả về vốn, tài sản lẫn đội ngũ nhân viên,
mạng lưới hoạt động, số lượng khách hàng, Agribank vẫn không thể đạt được quy định về
mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011. Mặc dù, sau đó, CAR của Agribank lên mức
9,5% vào tháng 3/2012 nhờ vốn Chính phủ, nhưng cũng chỉ mới cao hơn chút đỉnh so với
yêu cầu tối thiểu. Ngoài ra, chất lượng vốn vay suy giảm vẫn là một rủi ro lớn đối với vốn
của Agribank xét tới viễn cảnh yếu kém về chất lượng tài sản và khả năng sinh vốn nội tại
hạn chế của ngân hàng này. Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên phương diện rủi ro hệ
thống. Bởi lẽ, sự sụp đỗ của AGR sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, đối với khối Ngân hàng Thương mạiCP,các ngân hàng quy mô lớn đều có
xu thế đạt được yêu cầu mới của Ngân hàng Nhà nước về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các
Ngân hàng Thương mạiCP nhỏ thực sự gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm
đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời điểm 31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ
phần như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9%
theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, đến tháng

11/2011, vẫn còn 5 Ngân hàng Thương mại cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu
xem xét theo tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến
thời điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 Ngân hàng Thương mạiCP có vốn điều lệ dưới
3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một
số ngân hàng nhỏ của Việt Nam vẫn không thể đạt được các quy định đảm bảo mức vốn
pháp định. Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả đều thỏa mãn quy định của NĐ
41/2006/NĐ-CP, nhưng rõ ràng, đã có sự phân nhóm trong hệ thống ngân hàng. Điều này
tìm ẩn nhiều nguy cơ từ khối những ngân hàng nhỏ này, thậm chí ảnh hưởng đến cả hệ
thống.
Thứ ba, hơn thế, như khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an toàn vốn
ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ
thống Ngân hàng Thương mại. Ðối với khối Ngân hàng Thương mạiCP, xu hướng hệ số
đòn bẩy tài chính cao có thể nhận thấy khá rõ.
Thứ tư, trong giai đoạn này, thị trường bất động sản xuống dốc, nhiều khoản vay đến
hạn không trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ngân
hàng buộc phải chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tình hình thanh khoản bị suy
giảm). Tỷ lệ nợ xấu được Ngân hàng Nhà nước công bố cho toàn ngành Ngân hàng là
3,39%, tương đương với khoảng 20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chưa phản
ánh đúng thực chất RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ
cũng như công tác phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất cập. Nếu như các ngân
hàng phân loại nợ đúng theo chuẩn mực quốc tế và định giá chính xác giá trị tài sản bảo
đảm cho các khoản vay (53% là bất động sản) thì chi phí dự phòng rủi ro sẽ tăng lên, và vốn
tự có của hệ thống ngân hàng sẽ bị ăn mòn đáng kể.
Thứ năm, xét trên khía cạnh toàn hệ thống, chỉ tiêu an toàn vốn của toàn bộ Ngân
hàng Thương mại Việt Nam đạt trên mức 9%. Tuy nhiên, điều này chưa thể hiện được mức
đủ vốn của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Bởi lẽ, phần mẫu số theo quy định của Thông
tư 13/2010/TT-Ngân hàng Nhà nước mới chỉ xác định rủi ro tín dụng chứ chưa tính đến rủi
ro thị trường và rủi ro hoạt động (rủi ro tác nghiệp). Hơn thế, theo Basel III, mẫu số còn bao
gồm cả rủi ro do biến động kinh tế vĩ mô (rủi ro có tính chu kỳ) và rủi ro chéo trong trường
hợp ngân hàng hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính. Nếu xét tình huống Việt Nam thì

cả hai vấn đề rủi ro có tính chu kỳ và rủi ro chéo cần được tính tới. Ngoài ra, khi đánh giá
trong mối quan hệ với các Ngân hàng Thương mại trong khu vực, mức độ an toàn vốn của
các Ngân hàng Thương mại Việt Nam ở mức khá thấp.
Hình 2.1-4: Hệ số CAR của hệ thống các TCTD
tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới thời điểm 9/2011.
Tình hình hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng Việt Nam
_ Về kết quả hoạt động kinh doanh
Kết quả hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng lớn tại Việt nam thời gian qua
cho thấy các ngân này tăng trưởng khả quan, nguồn vốn dồi dào, thanh khoản được đảm
bảo. Tuy nhiên so sánh với một số nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á thì ngành
ngân hàng của chúng ta vẫn rất khiêm tốn về quy mô nguồn vốn và tài sản. Các chỉ tiêu về
tăng trưởng của chúng ta vẫn ấn tượng, hứa hẹn nhiều kì vọng trong tương lai.
_ Nợ xấu
Tổng nợ xấu của 8 Ngân hàng Thương mại niên yết tại thờ điểm 30/9/2011 lên tới
gần 15.018 tỷ đồng. Trong đó nợ nhóm 5 lên đến 8.293 tỷ đồng. Nợ xấu vẫn là vấn đề
nghiêm trọng, cản trở các Ngân hàng Thương mại áp dụng các chỉ tiêu về vốn và an toàn
hoạt động ngặt nghèo của Basel III.
Nguồn: PGSC, số liệu tính đến Q3.2011, giá ngày 25.11.2011.
Bảng 2.1-2 Tình hình hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng Việt Nam
Bảng 2.1-3 So sánh một số chỉ tiêu hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam với một số
nước
Hình 2.1-5 Tỉ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Thương mại tại 30/9/2011
Hình 2.1-6 Cơ cấu nợ của các Ngân hàng Thương mại tại 30/9/2011
Hình 2.1-7 Tình hình thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại tại 30/9/2011
_ Vấn đề thanh khoản
Các Ngân hàng Thương mại cho vay trung và dài hạn trong khi các khaorn tiền gửi
của khách hàng lại chỉ tập trung vào các kì hạn ngắn từ 1-3 tháng sẽ khiến các ngân hàng
gặp rủi ro về thanh khoản. Hơn nữa nợ xấu vẫn tiếp tục tăng nhanh qua các tháng, điều này
càng tăng thêm nguy cơ mất thành khoản ở một số Ngân hàng Thương mại.
2.2 Đánh giá khả năng áp dụng Hiệp ước Basel III của Việt Nam

Hiện tại, các ngân hàng thương mại đang áp dụng các quy định về an toàn vốn theo
Thông Tư 13/2010/TT-Ngân hàng Nhà nước nên chúng ta sẽ xem xét những thuận lợi và
khó khăn trong việc ứng dụng Basel II tại Việt Nam.
2.2.1. Thuận lợi
Một trong những thuận lợi cơ bản của việc áp dụng các Hiệp ước vốn đối với ngân
hàng thương mại Việt Nam là việc Ngân hàng Nhà nước đã từng bước hoàn thiện các văn
bản luật theo hướng ngày càng tiếp cận các điều khoản của Basel. Cụ thể, hiện tại các ngân
hàng thương mại đang thực thi theo Thông tư 13/2010/TT-Ngân hàng Nhà nước, đây là văn
bản đã hoàn chỉnh hơn rất nhiều so với các văn bản trước. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã
quy định rất cụ thể cách phân loại vốn cấp 1, vốn cấp 2, cũng như cách tính vốn tự có. Hơn
thế nữa, Ngân hàng Nhà nước đang soạn thảo Dự thảo thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-
Ngân hàng Nhà nước, hứa hẹn tính hoàn chỉnh và cập nhật của văn bản pháp luật. Hơn thế
nữa, các ngân hàng thương mại cũng tích cực, chủ động ứng dụng Hiệp ước vốn và hệ
thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình. Đồng thời, cả Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng
thương mại cũng phối hợp với nhau để tìm ra phương pháp để nâng cao hiệu quả việc ứng
dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam.
2.2.2. Khó khăn
Một trong những khó khăn khi xem xét việc ứng dụng Hiệp ước Basel II vào công
tác quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đó chính là sự thiếu hụt nguồn
nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề chung đối với tất cả các ngân hàng thương mại và kể
cả đối với cơ quan giám sát ngân hàng thương mại như Ngân hàng Nhà nước. Thông qua
tìm hiểu những chuẩn mực Basel II, có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng được các
chuẩn mực này đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng và nhân
viên phụ trách phải có một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn kiến thức toán học
và kiến thức quản trị. Ngoài ra, các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ năng không
thể thiếu. Đây thực sự là những yêu cầu cao đối với các chuyên gia ngân hàng Việt Nam tại
thời điểm này. Mặc dù, nhân lực ngành nhân hàng không hề thiếu, thậm chí là dư thừa
nhưng để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe này thì số lượng có thể đáp ứng không là
bao nhiêu. Ngoài ra, cũng có nhiều chuyên gia giỏi đang đảm nhiệm những vị trí cấp cao
trong các ngân hàng thương mại, nhưng do không có điều kiện hoặc không đủ thời gian để

được đào tạo và tiếp cận những kiến thức mới này nên cũng chưa có khả năng vận dụng vào
công việc thực tế. Chí phí cho những khóa học với các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh
vực tài chính-ngân hàng thường rất cao, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của người đi
học.
Khó khăn thứ hai có thể kể đến là thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên
nghiệp. Bởi vì, theo Basel II, các ngân hàng thương mại phải dựa vào rất nhiều yếu tố để có
thể xác định hệ số rủi ro theo từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng
khác nhau, mà một trong những yếu tố này là kết quả xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức
xếp hạng độc lập. Hiện nay thực tế là mỗi ngân hàng đang từng bước xây dựng hệ thống xếp
hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, việc xếp hạng tín nhiệm
này chủ yếu phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít được
chia sẻ thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài. Từ đó dẫn đến tự ngân hàng nào ngân
hàng đó mới lo. Vì thế, kết quả đánh giá còn mang nặng yếu tố chủ quan, cảm giác hơn là
khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do thông tin
không đầy đủ. Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức được xem là chuyên nghiệp nhất hoạt động
trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn chưa được tổ chức quốc tế công nhận và vẫn
chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Một là, Trung
tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) vừa có chức năng thu thập và cung
cấp thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước, lại vừa thực hiện việc xếp loại tín dụng
doanh nghiệp (theo Quyết định số 473/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 28/4/2004). Hai là,
Công ty thông tin và xếp hạng doanh nghiệp (C&R), mới thành lập năm 2004, được tách ra
từ công ty Giải pháp Việt Nam, là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam cung cấp các
loại báo cáo tín nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức lớn trên thế giới như
Standard & Poor’s, Moody’s, …Ba là, Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRVC)
thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC, được ra đời vào ngày 4/6/2005. Tuy nhiên,
các đơn vị này vẫn chưa phải là tổ chức đánh giá tín nhiệm theo đúng nghĩa bởi lẽ hoạt động
chính vẫn chỉ cung cấp các thông tin có liên quan tới các doanh nghiệp mà chưa thực hiện
nghiệp vụ đánh giá tín nhiệm theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, để xây dựng được một hệ
thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được chấp nhận rộng rãi thì sẽ
phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn và hệ thống

xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm sử dụng từ các tổ chức khác nhau chứ chưa thể
xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam, mà sự vay mượn này cũng
sẽ ít nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng vào tính toán đối với các doanh nghiệp Việt
Nam.
Một khó khăn nữa, đó là vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo. Hiện nay, các
ngân hàng thương mại Việt Nam đang bối rối trong việc thực hiện theo các chuẩn mực kế
toán của Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Khi thực hiện báo cáo
theo hai chuẩn mực này hoặc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong nước và
ngoài nước đánh giá thì kết quả là rất khác biệt. Một ví dụ minh họa, là báo cáo cân đối kế
toán của ngân hàng thương mại CP Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi ngân hàng này thuê
tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s xếp hạng. Điều này, thực sự gâu khó khăn rất lớn cho
các ngân hàng ở Việt Nam trong việc áp dụng các tiêu chuẩn mà Basel II đưa ra.
Bảng 2.2-1: Một số chỉ tiêu của ngân hàng thương mại CP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và thế giới (IFRS)
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu của
BIDV
IFRS VAS
2007 2006 2007 2006
Tổng tài sản 200,260 158,064 203,539 161,160
Vốn tự có 7,888 4,181 11,266 7,341
Vốn tự có/
Tổng tài sản
3.94% 2.64% 5.53% 4.55%
Nguồn: Báo cáo thường niên của ngân hàng thương mại CP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
năm 2007
Ngoài ra, còn nhiều khó khăn khác ảnh hưởng đến việc ứng dụng Basel tại Việt Nam
như trình độ quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng còn yếu kém, chi phí ứng dụng Basel
là khá cao, chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, rào cản về ngôn ngữ (Ngôn ngữ trong
Basel hoàn toàn là tiếng Anh với những thuật ngữ chuyên ngành mới).

Bảng 2.2-2. Một số yếu tố vĩ mô và ngành cần lưu ý
Chương 3. Xây dựng lộ trình áp dụng Hiệp ước Basel III tại Việt Nam
3.1 Lộ trình áp dụng của ngành ngân hàng thế giới
2013
2014 2015 2016 2017 2018 2019
Tỉ lệ vốn chủ sở hữu tối
thiểu
3,5%
4,0%
4,5% 4,5%
4,5%
4,5%
4,5%
Vốn đệm dự phòng 0,63%
1,25%
1,88%
2,5%
Tỉ lệ vốn chủ sở hữu tối
thiểu cộng vốn đệm dự
phòng
3,5%
4,0%
4,5% 5,13%
5,76%
6,38%
7%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở
hữu các khoản vốn không
đủ tiêu chuẩn
20% 40% 60% 80%

100%
100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 4,5%
5,5%
6,0% 6,0%
6,0%
6,0%
6,0%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 8%
8% 8%
8%
8% 8% 8%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
cộng vốn đệm dự phòng bắt
buộc
8%
8% 8%
8,63 9,13 9,88
10,5
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và
cấp 2 các khoản vốn không
đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ
2013
Vốn dự phòng chống hiệu
ứng chu kì
Tùy theo điều kiện của quốc gia mức từ
0%-2.5%
3.2 Xây dựng lộ trình áp dụng Hiệp ước Basel III tại Việt Nam
Tại Việt Nam, văn bản đầu tiên có quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là Quyết

định 297/1999/QĐ-Ngân hàng Nhà nước5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng
Nhà nước) quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương
mại. Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định là 8% nhưng phương pháp
tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Đến năm 2005, Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước với tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu vẫn à 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Base I. Năm
2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13/TT-Ngân hàng Nhà nước thay thế
Quyết định 457/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và
phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II, chính thức có hiệu lực từ 01/10/2010.
Cũng theo thông tư số 13, các khoản tính vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuân không chia, thặng dư cổ
phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật trừ đi phần dung để mua cổ phiếu quỹ
(nếu có). Trong khi các khoản để tính vốn cấp 2 được xác định là 50% số dư có tài khoản
đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại
tài sản tài chính theo quy định của pháp luật, quỹ dự phòng tài chính, trái phiếu chuyển đổi
do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như kỳ hạn ban đầu tối thiểu
là 5 năm…), các công cụ nợ thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như có kỳ hạn ban đầu tối thiểu
trên 10 năm…).
Theo nhận định của TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính
Quốc gia, vốn cấp 2 của các ngân hàng Việt Nam hiện còn hạn chế, ví dụ vốn vay mượn dài
hạn để tính vào vốn tự có à hạn chế, mặt khác, việc đánh giá lại tài sản cố định của các ngân
hàng Việt Nam hàng năm để tính lại vốn tự có chưa thực hiện.
Tại Hội nghị Ổn định tài chính khu vực Đông Á tại Hà Nội cuối tháng 11 vừa qua,
các báo cáo cho thấy một số nước như Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan… đang tiếp
cận một cách tích cực chuẩn Basel III. Các nước này đáp ứng được khoảng 12 trong số 14
tiêu chí về vốn và thanh khoản, trong khi đó, Việt Nam và một số nước khác như Lào,
Campuchia… mới chỉ thực hiện một phần của Basel II. Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia Vũ Viết Ngoạn cho biết, Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của việc thực hiện Basel II
trong khi thế giới đã phấn đấu thực hiện Basel III, do đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải
tiếp cận chuẩn an toàn này theo cách của riêng mình mà không nhất thiết phải đi theo trình

tự Basel I, II, III.
Điều đó được thể hiện qua sự khác nhau giữa thông tư 13 và Basel III:
- Hệ số an toàn vốn CAR: Basel III là 8% (Bao gồm vốn cấp 1 và cốn cấp 2), trong khi
nghị định 457 quy đinh là 8%, và hiện tại thông tư 13 quy định tăng lên 9% (hầu như
toàn bộ đều là vốn cấp 1)
- Độ rủi ro của 2 khoản đầu tư BĐS và Chứng Khoán: Basel III là 150% , thông tư 13
là 250%.
- Quy định tỷ lệ cho vay trên tổng vốn huy động của Ngân hàng Thương mại: Basel III
không quy định. Thông tư 13 là 80% .
Nhìn vào đây nhiều ý kiến cho rằng Thông Tư 13 của Việt nam đã chạy trước quốc tế đặc
biệt trong tỷ lệ an toàn vốn. Hệ số Car của các ngân hàng Việt Nam cao hơn các yêu cầu của
Basel thì cần phải bàn thêm nhiều. Vì thực tế hệ số Car của các ngân hàng phương tây được
tính rất chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn nhiều so với các ngân hàng còn non trẻ của Việt Nam.
Và theo một số chuyên gia thì theo cách tính thông thường hệ số CAR của ngân hàng Việt
Nam là 12% thì chỉ tương đương với 8% của các ngân hàng phương Tây.
Để Việt Nam có thể bắt kịp lộ trình Basel III của quốc tế, cần lưu ý một số điểm sau đây:
• Đối với những vấn đề tồn tại từ trước
Sát hạch toàn diện hệ thống và đưa ra giải pháp phù hợp
Cần phải có một cuộc sát hạch quyết liệt và triệt để tất cả các ngân hàng thương mại để
đo lường sức khỏe của các ngân hàng yếu kém. Việc này cũng giống như Mỹ làm đợt sát
hạch (stress test) vào đầu năm 2009, khi hệ thống tài chính Mỹ lâm vào khủng hoảng. Tiếp
theo hải định lượng được chính xác sức khỏe của từng ngân hàng một, thì khi đó mới đưa ra
giải pháp chính xác cho từng trường hợp. Ngân hàng nào đáng cứu, ngân hàng nào buộc
phải sáp nhập, ngân hàng nào tự bơi được, ngân hàng nào có thể cho phá sản…
Thành lập thị trường mua bán nợ
Cải cách hệ thống ngân hàng thì phải đi song song với câu chuyện có thị trường mua bán
nợ. Nếu không mua bán được nợ thì các ngân hàng không có cách tự làm sạch các bản cân
đối tài sản (balance sheet) và tăng tính thanh khoản (liquidity).
Hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay trên nguyên tắc là được phép, tuy nhiên cơ
chế và thủ tục để thực hiện mua bán nợ còn hết sức lằng nhằng phức tạp. Vì vậy thị trường

mua bán nợ không khai thông được. Nhà nước cần giảm bớt các thủ tục đi và đưa ra các quy
chế mới thích hợp là cơ sở để khơi thông thị trường này.
Thị trường khơi thông rồi thì cần có hàng hóa để giao dịch. Hiện nay nhà nước cũng
chưa tạo đủ sức ép đối với các ngân hàng. Chính phủ đang thể hiện ra là sẽ cứu chứ không
để bất kỳ ngân hàng nào xụp. Vì vậy các ngân hàng cũng không có động cơ bán nợ. Nếu
ngân hàng để yên các khoản nợ xấu thì không bi mang tiếng là mất tài sản và khi sắp chết
thì nhà nước cứu. Nếu bán đi thì ngay lập tức ngân hàng phải hạch toán vào thành một
khoản lỗ và trở thành một việc tai tiếng. Vì vậy cơ chế này đang khuyến khích các ngân
hàng dấu các khoản nợ xấu thay vì tham gia vào thị trường mua bán nợ để cải thiện thanh
khoản. Sức ép từ phía nhà nước sẽ là cần thiết để tạo động cơ thích đáng cho các ngân hàng
tham gia bán nợ.
Sử dụng nhiều giải pháp đồng loạt đối với các ngân hàng yếu
Hiện nay nhà nước mới làm có một trường hợp là sáp nhập ba ngân hàng Đệ Nhất, Tín
Nghĩa và Sài gòn. Thị trường nhìn nhận việc sáp nhập này là một tín hiệu tích cực với lý do
chủ yếu là vì nó thể hiện sự quyết tâm trong hành động của nhà nước. Nếu tách riêng câu
chuyện sáp nhập này không thôi thì nó không có nhiều ý nghĩa lắm bởi vì gộp 3 cơ thể bệnh
tật vào một thì không làm nó mạnh khỏe trở lại. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nhiều khả
năng phải sử dụng đồng loạt cả 3 biện pháp:
+ Thứ nhất là khuyến khích các ngân hàng lớn và mạnh mua lại hoặc lấy lại các ngân hàng
nhỏ và yếu. Trong các trường hợp khẩn cấp đặc biệt, nhà nước cần phải quyết liệt chỉ định

×