Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG (TRỤ CỘT 2) TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.68 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

BÀI TIỂU LUẬN
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
(TRỤ CỘT 2) TẠI VIỆT NAM
GVHD : Nguyễn Thị Hai Hằng
Lớp : K09404A
Nhóm : 34
Thành viên nhóm:
1/ Nguyễn Thị Minh Trâm K094040622
2/ Lương Minh Tuấn K094040630
3/ Phạm Lan Hương K095011513
TP.HCM, Năm 2013

MỤC LỤC

O 47
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TCTD Tổ chức tín dụng
NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
KLTT Kỷ luật thị trường
BHTG Bảo hiểm tiền gửi
TTNH Thanh tra ngân hàng




  !
PHẦN MỞ ĐẦU

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 diễn ra vừa qua, đã kéo nền kinh tế thế giới vốn
đang hoạt động một cách trơn tru nay lại bị ảnh hưởng một cách nặng nề và dư âm của nó
vẫn còn kéo dài cho đến ngày hôm nay, với những nét cơ bản gồm “tăng trưởng chậm,
không cân bằng, và luôn bất ổn”. Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu (giai đoạn 2007-2009) đối với ngành ngân hàng là rất nghiêm trọng. Hàng
loạt ngân hàng bị phá sản hoặc phải sáp nhập vào các ngân hàng khác. Chỉ trong vòng 6
tháng trong năm 2008, 3 tên tuổi lớn trong ngành ngân hàng Mỹ (Bear Stearns, Lehman
Brothers và Merrill Lynch) đã lần lượt biến mất thông qua sự sáp nhập hoặc phá sản. Theo
thống kê của tờ báo Washington Post, số lượng ngân hàng bị phá sản trong năm 2010 đã lên
đến đỉnh điểm là 157 ngân hàng, nhiều hơn 17 ngân hàng so với năm 2009.
Tình trạng này là kết quả của cuộc khủng hoảng thị trường cho vay thế chấp “dưới
chuẩn” của thị trường tài chính Mỹ. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008 xuất phát từ những lỏng lẻo trong việc cấp tín dụng cũng như quản lý rủi ro tín dụng
tại các ngân hàng. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn đối với mỗi hệ thống giám sát tài chính
cho mỗi quốc gia.
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá
- hiện đại hoá là rất lớn, không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho
nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền. Điều này chứng tỏ rằng hệ thống
ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và đang trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa mạnh mẽ này, kinh doanh ngân hàng được xem là
một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam
kết quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam phải chủ động
nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức thành cơ
hội, biến những khó khăn thành lợi thế.


"
  !
Để hệ thống NHTM Việt Nam tham gia tốt hơn vào sân chơi chung quốc tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cần phải tuân thủ theo một số điều ước quốc
tế, để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các ngân hàng Việt Nam với các
ngân hàng nước ngoài của các quốc gia khác trên thế giới.
Một trong những điều ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt quan tâm
chính là hiệp ước quốc tế về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng – còn được biết thông
dụng với tên gọi Hiệp ước Basel. Ra đời từ cách đây hơn 20 năm, hiệp ước này được rất
nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng làm chuẩn mực để đánh giá và giám sát hoạt động của
hệ thống ngân hàng nước mình.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng hiệp ước Basel này trong công tác giám sát và quản trị
ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn
giản trong Hiệp ước Basel I để vận dụng và việc tiếp cận với Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức
tạp và chi phí khá cao và Basel III thì càng chưa được áp dụng rộng rãi vào hệ thống Việt
Nam ta.
Tuy nhiên trong tương lai, các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân hàng có
hoạt động quốc tế, sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực Basel để hoàn thiện chính hệ thống quản
trị rủi ro ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì thế mà bài tiểu luận “Đánh giá
mức độ đáp ứng các quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng (trụ cột 2) ở Việt Nam”
được chọn. Đây chỉ là một trụ cột trong Hiệp ước Basel nhưng việc nghiên cứu về bài tiểu
luận trên giúp cho ta hiểu được một phần nào đó về những quy định thanh tra, giám sát ngân
hàng ở Việt Nam đang được thực hiện ra sao, mức độ như thế nào, Từ đó, tìm được điểm
mạnh và điểm yếu mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tồn tại nhằm giúp việc áp dụng
Hiệp ước Basel một cách tốt và phù hợp hơn và cũng là cho hệ thống được hoạt động một
cách trơn tru cũng như phát triển kinh tế ngày một tăng trưởng.

#
  !

CHƯƠNG 1
BASEL TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO NGÂN HÀNG
$%$% Những vấn đề chung về rủi ro và quản trị rủi ro NHTM
1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động NHTM
Rủi ro là những điều không chắc chắn của những kết quả trong tương lai, hay là những
khả năng của kết quả bất ổn; là khả năng mà tại đó tỷ suất sinh lợi nhuận thực tế khác biệt
so với tỷ suất sinh lợi mong đợi.
Trong lịch sử về định giá các tài sản rủi ro, có thể kể đến các lý thuyết nổi tiếng như: lý
thuyết danh mục của Markowitz, mô hình định giá tài sản vốn CAPM (thể hiện mối quan hệ
giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng), mô hình kinh doanh chênh lệch giá APT.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có nghĩa là khả năng ngân hàng bị thua lỗ một phần
hoặc thậm chí là tất cả các khoản đầu tư ban đầu.
Trong hoạt động của các NHTM, thường phát sinh những rủi ro sau:
• Rủi ro tín dụng: là rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi khách hàng
không thực hiện thanh toán nợ cho dù là nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ
đến hạn.
• Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các ngân
hàng là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn.
• Rủi ro lãi suất: là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị
trường hoặc những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài
sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng.
• Rủi ro giá cả: là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một ngân hàng có thể
biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất
động sản đến cổ phiếu và trái phiếu,…
• Rủi ro tỷ giá: là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc
kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng khi tỷ giá biến động theo chiều bất lợi
cho ngân hàng. Rủi ro tỷ giá cũng phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ
hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho
ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
• Rủi ro pháp lý: rủi ro phát sinh do ngân hàng bị khởi kiện, hoặc khi nhà

nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu
tiên,… thì điều này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho ngân hàng.

&
  !
• Rủi ro uy tín: là rủi ro dư luận đánh giá xấu về ngân hàng, gây khó khăn
nghiêm trọng cho ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách
hàng rời bỏ ngân hàng.
1.1.2. Quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM
Quản trị rủi ro so với quản lý rủi ro là khác nhau về mặt ý nghĩa. Quản lý rủi ro là việc
sử dụng các công cụ, biện pháp, quy trình cần thiết nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra tổn
thất, vì vậy chỉ cần né tránh rủi ro thông qua lựa chọn khách hàng giao dịch hoặc chỉ lựa
chọn những danh mục đầu tư an toàn hơn. Trong khi quản trị rủi ro là việc sử dụng các biện
pháp để xác định và đo lường rủi ro, lựa chọn chấp nhận rủi ro, quản lý kiểm soát rủi ro để
nhằm đạt được mục tiêu hiệu quả và an toàn.
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là việc theo dõi quá trình sử dụng vốn của
ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát và hạn chế các loại rủi ro phát sinh cũng như
đưa ra giải pháp xử lý rủi ro hiệu quả nhất, đồng thời xác định tương quan hợp lý giữa vốn
tự có của ngân hàng với mức độ mạo hiểm trong sử dụng vốn của ngân hàng.
Quản trị rủi ro ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó bao gồm
9 nguyên tắc cơ bản sau:
 Nguyên tắc chấp nhận rủi ro.
 Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép.
 Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt.
 Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập.
 Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính.
 Nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
 Nguyên tắc hợp lý về thời gian.
 Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng.
 Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép.

Trước khi có thể đánh giá được mức độ đáp ứng các quy định về thanh tra, giám sát
(trụ cột 2) tại Việt Nam thì ta cần tìm hiểu sơ lược về quá trình hình thành và phát triển
cũng như nội dung của Hiệp ước Basel, nhằm từ đó cho ta cái nhìn tổng quan để đi vào
đánh giá chung tình hình đang diễn ra ở Việt Nam.
$%'% Hiệp ước quốc tế về quản trị rủi ro ngân hàng

(
  !
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các Ngân hàng
Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã tập hợp tại thành phố
Basel, Thụy Sĩ vào năm 1974 nhằm tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau một thời gian
hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các Hiệp ước yêu cầu về an toàn vốn như sau:
Năm 1988: ban hành Hiệp ước Basel I
Năm 1999: đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu.
Năm 2004: ban hành Hiệp ước Basel II
1.2.1.Hiệp ước Basel I (năm 1988)
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy
tên là Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I). Ban đầu, Basel I chỉ áp dụng trong hoạt động
của các ngân hàng quốc tế thuộc nhóm 10 nước phát triển. Sau này, Basel I đã trở thành
chuẩn mực toàn cầu và được áp dụng ở trên 120 quốc gia. Theo quy định của Basel I, các
ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio - CAR) đạt tối
thiểu 8% để bù đắp cho rủi ro, đây là biện pháp dự phòng bắt buộc nhằm đảm bảo rằng các
ngân hàng có khả năng khắc phục tổn thất mà không ảnh hưởng đến lợi ích của người gửi
tiền.
Mục đích của Basel I:
 Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế;
 Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Hệ số CAR được tính như sau:
Trong đó,

- Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định
nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn
an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
- Vốn cấp 1: lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh


  !
viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority
interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh
doanh (goodwill).
- Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung): Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng
đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ
vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính
và các tổ chức tài chính khác.
- Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
- Vốn tính theo rủi ro gia quyền:Basel I mới chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng, và tùy
theo mỗi loại tài sản sẽ được gắn cho một hệ số rủi ro.
RWA = Tài sản * Hệ số rủi ro
Theo Basel I, hệ số rủi ro của tài sản có rủi ro được chia thành 4 mức là 0%, 20%, 50%, và
100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản.
Nhìn chung, Basel I đã thể hiện một bước đột phá cơ bản liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn
trong hoạt động ngân hàng. Basel I phân loại tài sản có rủi ro và xác định hệ số rủi ro cho
từng loại tài sản, quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% tính trên tổng tài sản điều chỉnh
theo rủi ro.
 Những hạn chế của Basel I
Mặc dù Basel I đã giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn, đảm bảo khả năng chống đỡ
của ngân hàng với rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, qua quá trình dài áp dụng với xu thế phát triển
như vũ bão của hệ thống ngân hàng trên thế giới thì Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn

có khá nhiều điểm hạn chế.
 Thứ nhất, phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro chưa chi tiết
cho rủi ro theo đối tác (ví dụ khả năng tài chính của khách hàng) hoặc theo đặc điểm của
khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng
tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đang đối mặt với các loại rủi ro khác nhau, ở mức độ khác
nhau.

$
  !
 Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hoá hoạt động. Các lý thuyết về đầu tư
chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hoá danh mục đầu tư. Tuy nhiên, theo Basel I, quy
định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng
(ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn). Một khoản nợ
riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng
một giá trị (ví dụ không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản vay
$1).
 Thứ ba, Basel I chưa tính đến các rủi ro khác. Trong quy định vốn tối thiểu của mình,
Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng, chưa đề cập đến những rủi ro khác như
rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại hối; đề cập chưa đầy đủ về rủi ro thị trường.
 Thứ tư, một số các quy tắc do Basel I đưa ra không thể vận dụng trong trường hợp ngân
hàng sáp nhập hay tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng - chi nhánh. Xu thế phát
triển hiện nay là các ngân hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn
có khả năng cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng
không còn chỉ hoạt động trọng phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế, mở
rộng mạng lưới ngân hàng dưới hình thức hoạt động của ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy,
một số qui định trong Basel I đã không còn phù hợp khi áp dụng tại những ngân hàng này,
đòi hỏi phải có một sự cải tiến toàn diện trong việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về
quản trị rủi ro và giám sát hoạt động ngân hàng.
1.2.2. Bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng (năm 1999) (sau được bổ
sung thành Bộ 29 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng)

Nhóm chúng em đã tìm nhiều nguồn thông tin khác nhưng vẫn không thể tìm ra thêm
bốn nguyên tắc được thêm vào, vì thế nhóm chúng em xin chỉ tập trung nói về Bộ 25 nguyên
tắc và sẽ điều chỉnh trong thời gian sớm nhất nếu nhóm chúng em tìm được và nghiên cứu
kỹ nhằm đáp ứng đúng thông tin chân thật về bộ nguyên tắc mới được ban hành.
Tiếp theo sau Hiệp ước Basel I, để bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các
TCTD, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, từ
năm 1999, Uỷ ban Basel đã đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu.

$$
  !
Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu liên quan đến việc giám
sát ngân hàng, bao gồm:
 Nguyên tắc về điều kiện cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả
 Nguyên tắc về cấp phép và cơ cấu
 Nguyên tắc về quy định và yêu cầu thận trọng
 Nguyên tắc về giám sát nghiệp vụ ngân hàng
 Nguyên tắc về yêu cầu thông tin
 Nguyên tắc về quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát
 Nguyên tắc về ngân hàng xuyên biên giới
1.2.3. Hiệp ước Basel II
Nhằm khắc phục các hạn chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng thực hiện các
phương án quản lý rủi ro tiên tiến hơn, cho đến 2004 bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel II
đã chính thức được ban hành. Ngày hiệu lực của Hiệp ước Basel II là tháng 12/2006. Basel
II tạo một bước hoàn thiện hơn trong xác định tỷ lệ an toàn vốn nhằm khắc phục các hạn
chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng thực hiện các phương pháp quản lý rủi ro
tiên tiến hơn. Basel II đưa ra một loạt các phương án lựa chọn, cho phép quyền tự quyết rất
lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng. Basel II bao gồm một loạt các chuẩn mực giám sát
nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản lý rủi ro và được cấu trúc theo 3 trụ cột sau:
Hình 1.1.Cơ cấu của Hiệp ước Basel II


BASEL II
)***+,-./.*
01234546*6*
Vốn cấp 1
$'
  !
Nguồn : International Convergence of Capital Measurement & Capital Standards
Rủi ro tín dụng là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân
hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay
đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là người cho vay phải chịu rủi ro
khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có
rủi ro tín dụng.
Rủi ro hoạt động là rủi ro tổn thất xảy ra do các hoạt động quản lý nội bộ, do con
người, do hệ thống, hoặc do các sự cố bên ngoài không phù hợp hoặc bị hỏng; bao gồm cả
rủi ro pháp lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và rủi ro thương hiệu.
Rủi ro thị trường là rủi ro tổn thất xảy ra trong bảng cân đối do giá cả biến động thất
thường. Rủi ro thị trường gắn liền với bốn loại rủi ro cơ bản đó là: rủi ro lãi suất (rủi ro do
lãi suất thay đổi); rủi ro trạng thái vốn (rủi ro do giá chứng khoán thay đổi); rủi ro tỷ giá (rủi
ro do giá các loại ngoại tệ thay đổi); rủi ro hàng hoá (rủi ro do giá hàng hóa thay đổi).
So sánh với Basel I, thì phạm vi áp dụng của Basel II rộng hơn bao gồm không chỉ các
ngân hàng quốc tế mà cả các công ty mẹ, Basel II thay đổi định nghĩa về tài sản điều chỉnh
theo rủi ro, và có nhiều phương pháp để lựa chọn hơn trong việc đánh giá rủi ro.
1.2.3.1.Hữu ích của Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng
Hiệp ước Basel II là một loạt các quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động ngân hàng đa
quốc gia. Ngày nay, dường như không một ngân hàng nào có thể tách rời mà không có mối
liên hệ với các ngân hàng trên thế giới. Do vậy, hiểu biết và áp dụng những quy định Basel
II sẽ là rất quan trọng đối với phát triển và hoạt động ổn định của các ngân hàng.

Ghi chú:
/72+8+9

:; 45
46
<.24=>5>,?2>52@
*+9A /BC
Vốn cấp 2
<.24=>5>,?2>52@
*+9A /BCC
D8+9**+,-
D8+99E*>F
D8+9GHI
$
  !
Basel II đưa ra nhiều quy định để các ngân hàng tránh khỏi những rủi ro về mặt dữ
liệu và thông tin ngân hàng có thể phát sinh từ khái niệm, quy tắc đến so sánh, kết hợp
những yếu tố quản lý như một chìa khoá để giảm thiểu rủi ro. Ứng dụng Basel II giúp các
ngân hàng quản trị rủi ro ngân hàng tốt hơn.
1.2.3.2.Trụ cột 2 của Basel II
Do bài tiểu luận của nhóm chỉ tập trung vào các quy định thanh tra, giám sát – tức trụ
cột 2 trong Hiệp ước Basel II, do đó nhóm chỉ trình bày trụ cột 2 của basel II.
• Trong trụ cột 2 của Basel II đề cập đến các nội dung sau:
Đưa ra các nguyên tắc chủ chốt của việc kiểm tra, giám sát, đề cập đến các vấn đề cụ
thể phải được quan tâm trong quá trình kiểm tra giám sát: rủi ro lãi suất trong sổ ngân hàng,
rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường. Các hướng khác của quá trình kiểm tra
giám sát: tính minh bạch giám sát, thông tin liên lạc và sự hợp tác tăng cường qua biên giới.
• Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc chủ chốt của công tác kiểm
tra, giám sát:
- Nguyên tắc 1: Các ngân hàng cần có một quy trình đánh giá mức độ vốn nội bộ theo
danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược duy trì mức vốn của họ. Trong nội dung
này, quản lý ngân hàng phải gánh trách nhiệm cơ bản ñối với việc khẳng định rằng ngân
hàng có vốn để đủ hỗ trợ các rủi ro xảy ra. Quá trình quản lý rủi ro ngân hàng bao gồm các

nội dung sau: giám sát quản lý của ban giám đốc và cấp cao; đánh giá vốn chắc chắn; đánh
giá về rủi ro toàn diện, thanh tra và báo cáo; kiểm tra kiểm soát nội bộ.
- Nguyên tắc 2: Các tổ chức giám sát cần rà soát, kiểm tra và đánh giá lại quy trình
đánh giá về yêu cầu vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng của họ để
thanh tra và khẳng định sự tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Các tổ chức giám sát cần thực hiện
hành động giám sát phù hợp nếu các ngân hàng không hài lòng với kết quả của quy trình
này. Các tổ chức giám sát cần kiểm tra các nội dung sau: kiểm tra tính đầy đủ vốn của các
đánh giá rủi ro, đánh giá về tính đầy đủ vốn, đánh giá về môi trường kiểm soát, kiểm tra
giám sát về sự tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu, đáp ứng giám sát.

$
  !
- Nguyên tắc 3: Các tổ chức giám sát cần kỳ vọng các ngân hàng hoạt động trên các tỷ
lệ vốn yêu cầu tối thiểu và khuyến nghị ngân hàng cần duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu theo quy định.
- Nguyên tắc 4: Các tổ chức giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những giai đoạn đầu
tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu, và có thể yêu cầu sửa đổi ngay
lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
1.2.3.3.Những sửa đổi của Hiệp ước Basel II so Hiệp ước Basel I
Basel 2 vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách tính ở mẫu
số trong công thức tính tỉ lệ đủ vốn. Theo đó, mẫu số phải bao gồm cả ba loại rủi ro: rủi ro
tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động.
Hệ thống đo lường theo Basel 2 phức tạp hơn, nhiều phương pháp để lựa chọn hơn,
nhưng có khả năng đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn, và cho phép quyền tự quyết rất
lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng. Đối với rủi ro tín dụng, nếu Basel I đưa ra một
phương pháp chung thì Basel II lại đưa ra các lựa chọn. Cụ thể, 2 phương pháp được đề
xuất:
- Phương pháp chuẩn: Phương pháp tiếp cận này đo lường rủi ro tín dụng tương tự như
Basel I, nhưng ở mức độ nhạy cảm với rủi ro hơn vì sử dụng xếp hạng tài chính do các tổ
chức phân hạng độc lập cung cấp làm hệ số khi tính toán tài sản điều chỉnh theo rủi ro.

- Phương pháp đánh giá nội bộ: Phương pháp này chủ yếu dựa vào đánh giá nội bộ của
ngân hàng về hệ số rủi ro để xác định tỷ lệ vốn cần thiết. Tuy nhiên, vẫn dựa vào hướng dẫn
của Uỷ ban Basel để xác định rủi ro cho từng loại tài sản, bao gồm: Yếu tố cấu thành rủi ro,
Phương trình rủi ro, Mức yêu cầu vốn tối thiểu. Basel II phân định các mức rủi ro trên cơ sở
xếp hạng, do đó các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu vào kết quả xếp hạng và đánh giá
độ tín nhiệm của các tổ chức độc lập như Moody, S&P.
Xét về phạm vi áp dụng nói chung của Basel II rộng hơn so với Basle I, bao gồm không chỉ
các ngân hàng quốc tế mà cả các công ty mẹ, hay thay đổi định nghĩa về tài sản có rủi ro.
BASEL I BASEL II
Mức vốn an toàn tối thiểu là 8%, mẫu số Mức vốn an toàn tối thiểu là 8%, mẫu số gồm:

$"
  !
gồm rủi ro tín dụng rủi ro tín dụng, thị trường, hoạt động
Chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng Basel II bổ sung thêm rủi ro hoạt động, quy trình
giám sát và các quy tắc thị trường
Có một phương pháp duy nhất áp dụng cho
tất cả các trường hợp
Linh động hơn, có nhiều phương pháp để lựa
chọn, hướng đến việc quản trị rủi ro tốt hơn
Hệ thống đo lường đơn giản hơn Hệ thống đo lường theo Basel II phức tạp hơn
Basel I chỉ có thể vận dụng ở ngân hàng
theo kiểu đơn thuần túy
Phạm vi áp dụng của Basel II sẽ rộng hơn bao
gồm các ngân hàng quốc tế và các công ty mẹ
Dựa trên cấu trúc theo diện trải rộng Nhạy cảm hơn với rủi ro
Bảng 1.1. Điểm khác nhau căn bản của Basel II so với Basel I
1.2.4. Hiệp ước Basel III
Basel III có những điểm mới cơ bản hơn so với Basel II:
 Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn. Trước hết, Basel III sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn

của các ngân hàng một cách đáng kể. Đây là đặc điểm chính của Basel III. Theo BIS, nội
dung của định nghĩa về vốn rất quan trọng và cần phải được định nghĩa đầy đủ trước khi xác
định mức vốn phù hợp. Chất lượng vốn tốt hơn đồng nghĩa với việc khả năng bù đắp các
khoản lỗ tốt hơn, điều này giúp cho ngân hàng “khỏe” hơn, do đó có khả năng chống đỡ tốt
hơn trong thời kì khó khăn.
Theo quy định này, vốn cổ phần thông thường được quy định chặt chẽ hơn. Theo quy
định hiện tại, những tài sản có chất lượng kém sẽ phải khấu trừ vào vốn (vốn cấp 1 +
vốn cấp 2). Theo Basel III, việc khấu trừ sẽ nghiêm ngặt hơn, khấu trừ thẳng vào vốn
cổ phần thông thường. Hơn nữa, định nghĩa vốn cấp 1 cũng quy định chặt chẽ hơn
bao gồm vốn thường và các công cụ tài chính có chất lượng theo những tiêu chuẩn
chặt chẽ.
 Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn. Theo quan điểm của Basel, chất lượng
vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính, Ủy
ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn hơn nữa. Do đó, những tiêu chuẩn về
hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ tăng mạnh trong những năm tới. Theo quy
định này, các ngân hàng phải duy trì mức vốn phù hợp trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức

$#
  !
độ rủi ro, mô hình kinh doanh, điều kiện kinh tế. Khả năng đưa ra các quy định chặt chẽ về
vốn của cơ quan giám sát quốc gia sẽ là yếu tố quan trọng trong các nguyên tắc của Basel
III.
Theo Basel III, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8%, nhưng tỷ lệ của loại vốn có chất
lượng cao được nâng lên, cụ thể: tỷ lệ Vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6%
trong Basel 3, đồng thời tỷ lệ Vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được
tăng từ 2% lên 4,5%. Bên cạnh đó, những tài sản “Có” với chất lượng vốn có vấn đề
cũng sẽ được loại trừ dần khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2, như các khoản đầu tư vượt
quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính. Đặc biệt, Basel III yêu cầu áp dụng bổ
sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với
tổng tài sản có cộng với các khoản mục ngoại bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ

này cho phép Ủy ban Basel theo dõi biến động tỷ lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng
theo chu kỳ kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy.
 Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân hàng áp dụng.
Yếu tố quan trọng thứ 3 của quy định mới về vốn là phương pháp giám sát an toàn vĩ mô đề
cập tới rủi ro hệ thống. Theo BIS, có hai việc cần làm để hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả.
Thứ nhất là giảm mức độ khuyếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Đó là xu hướng
hệ thống tài chính có thể làm khuyếch đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế thực. Việc
thứ hai là mối quan hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính, đặc biệt
đối với những ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống. Như vậy, Basel III là một
bước ngoặt trong việc xây dựng các quy định tài chính. Lần đầu tiên trong các quy định tài
chính đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung cho phương
pháp giám sát an toàn vi mô của từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel đang nghiên cứu các
thước đo đối với những tổ chức có tầm quan trọng đối với hệ thống.
 Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Basel III đưa ra tiêu
chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọngchưa có tiêu chuẩn quốc tế nào quy
định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được ban hành vào 1/1/2015, giúp ngân hàng có
khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu
cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng
nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro thanh khoản

$&
  !
rất khác nhau tại từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình báo cáo để theo
dõi các tỷ lệ trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn được tính toán như dự
kiến.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về thanh tra ngân hàng
Trong thế kỷ 21, nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng ngày càng hội nhập nền

kinh tế khu vực và toàn cầu hoá, do đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đứng trước yêu
cầu hội nhập vào cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế. Thật vậy, quá trình hội nhập toàn
cầu hoá kéo theo sự mở rộng hoạt động thương mại và đầu tư kể cả chiều rộng và chiều sâu,
vì vậy xuất hiện nhu cầu tài trợ thương mại và phân bổ vốn đầu tư cho các khu vực kinh tế
tham gia vào thương mại và đầu tư quốc tế, và chính ngành ngân hàng chứ không phải
ngành kinh tế nào khác đảm nhận vai trò này.
Những cam kết quốc tế về lộ trình mở cửa thị truờng tài chính, dịch vụ ngân hàng
mà Việt Nam đã ký kết tham gia các hiệp định song phương, đa phưong có hiệu lực như
hiện nay, thị trưòng tài chính Việt Nam đã mở cửa với các mức độ khác nhau từ năm 2006
đối với các nước thuộc khối ASEAN, từ năm 2008 theo hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, và tiếp theo là thực hiện những cam kết theo yêu cầu của WTO
Quá trình hội nhập nói trên tất yếu dẫn đến những thuận lợi cũng như khó khăn,
thách thức trong việc thực hiên chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng của ngân

$(
  !
hàng nhà nước nói chung, và hoạt động thanh tra và giám sát nói riêng. Nổi bật là vấn đề
đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra sao cho hoạt động có hiệu quả, phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát các TCTD giữ vai trò quan trọng đối với
sức mạnh của một nền kinh tế, trong đó hệ thống ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh
toán, huy động và phân bổ các nguồn vốn. Nhiệm vụ hàng đầu của thanh tra ngân hàng là
đảm bảo các hoạt động ngân hàng diễn ra an toàn và vững chắc do lĩnh vực ngân hàng chịu
tác động rất lớn của rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với bất kỳ quốc gia
nào, hệ thống TTNH vững mạnh và hiệu quả cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp
là những yếu tố then chốt để có được sự ổn định tài chính. Mặc dù chí phí cho TTNH và
hoạt động của nó rất cao nhưng cái giá phải trả cho sự buông lỏng công tác thanh tra, giám
sát còn cao hơn rất nhiều.
2.1.1. Khái niệm
Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là một

trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là: ban hành quyết định, tổ chức
thực hiện quyết định; và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyết định.
Thực chất thanh tra là việc xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét và kết luận
phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành
nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra chuyên về một ngành nào đó. Khoản 1,
điều 50 luật NHNN Việt Nam quy định: Thanh tra nhà nước là chuyên ngành về ngân
hàng, được tổ chức thành hệ thống bộ máy NHNN.
Mục đích của thanh tra ngân hàng là nhằm góp phần đảm bảo an toàn các tổ chức tín
dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực thi chính sách
tiên tệ quốc gia.

$
  !
2.1.2. Đối tượng của thanh tra ngân hàng
• Tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng:
 Các tổ chức tín dụng nhà nước (bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
phát triển, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng chính sách và tổ chức tín dụng phi
ngân hàng);
 Các tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân (gồm: Ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng phi ngân hàng);
 Các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam (gồm: tổ
chức tín dụng liên doanh; tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, văn phòng đại diện của Tổ
chức tín dụng nước ngoài đặt tại Việt Nam);
 Các tổ chức tín dụng hợp tác;
• Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được Ngân
hàng Nhà nước cấp giấy phép.
• Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và cá nhân trong việc thực hiện

các quy định của pháp luật về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng.
2.1.3. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngân hàng
+ Thực hiện giám sát thường xuyên việc thực hiện các quy chế an toàn trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng bằng phương pháp giám sát từ xa theo quy định của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra, phúc tra trong việc chấp hành pháp luật về tiền
tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân
hàng đối với các đối tượng được quy định và theo quy định của pháp luật về thanh tra.
+ Thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng; tham mưu, giúp
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng trong ngành ngân hàng.
+ Phát hiện ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị các
cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

'
  !
+ Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh, thành phố và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác thực hiện các biện pháp
bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
2.1.4. Phương thức thanh tra
Trước yêu cầu đổi mới về hoạt động thanh tra ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, cùng
với việc đổi mới tổ chức, TTNH đang dần dần thay đổi phương thức hoạt động của mình, từ
thanh tra từng vụ việc là chính sang thực hiện hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra
tại chỗ, từng bước kết hợp hai phương thức này thành công nghệ thanh tra hiện đại nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hàng.
 Giám sát từ xa
Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu báo cáo của TCTD; tiến hành phân
tích đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, lập các báo cáo và ra các bản khuyến
cáo với TCTD nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của TCTD, cảnh báo sớm ngăn ngừa

những rủi ro có thể xảy ra, có tác động định hướng cho thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn
cho hoạt động ngân hàng. Phương thức giám sát từ xa phụ thuộc vào các yếu tố: khuôn khổ
pháp luật, hệ thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo, ở từng nước có
vận dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương thức này. Song có nét chung sau
đây:
Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, không phải trụ sở của
TCTD. Dựa vào nguồn thông tin từ chế độ thông tin báo cáo theo quy định, từ số liệu lịch
sử và các nguồn thông tin khác. Xử lý thông tin, phân tích rút ra những nhận xét về thực
trạng của từng TCTD và của cả hệ thống. Việc giám sát đựơc thực hiện liên tục theo các
định kỳ ngắn, thường là hàng tháng, hàng quý. Các chỉ số phân tích xếp loại đều dựa trên
khuôn khổ CAMELS. Các chương trình giám sát đều thực hiện trên mạng máy tính. Giám
sát từ xa kết hợp với thanh tra tại chỗ chỉ ra những đơn vị, những lĩnh vực cần thiết để
thanh tra tại chỗ;

'$
  !
Từ khi quy chế giám sát ra đời, TTNH thực hiện giám sát TCTD theo 2 cấp gồm: Thanh
tra NHNN; thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm
tra thông qua tổng hợp và phân tích để đánh giá các nội dung sau đây của tổ chức tín dụng:
 Diễn biến về cơ cấu tài sản nợ và tài sản có
 Chất lượng tài sản có.
 Vốn tự có.
 Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh.
 Việc thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
 Các vấn đề liên quan khác.
Việc đánh giá các nội dung trên dựa vào việc phân tích các chỉ số tài chính của TCTD.
Kết quả thực hiện các nội dung giám sát có vai trò trong việc đánh giá, xếp loại, các TCTD
và đưa ra những cảnh báo cho các TCTD về những vấn đề quan tâm.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới phương thức giám sát từ xa đối với các NHTM được

chọn làm phương thức thanh tra chủ yếu. Phương thức này có tính tích cực cao vì nó góp
phần cảnh báo, phòng ngừa rủi ro với các NHTM.
 Phương thức thanh tra tại chỗ
Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống, là việc thanh tra được tổ chức
tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế, cá nhân là khách hàng
của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra xem xét các văn bản, thông tin chỉ đạo, hướng dẫn thực
hiện, quy chế của ngành; các báo cáo kế toán, thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp
đồng… có liên quan đến hoạt động huy động vốn - sử dụng vốn và công tác kế toán – tài
chính của đối tượng được thanh tra.
Mục tiêu của thanh tra tại chỗ:
• Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các chế độ, thể lệ của ngành
ngân hàng.
• Giúp các tổ chức tín dụng thấy đựơc mặt tích cực, những mặt hạn chế còn tồn tại để
tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại và kiến nghị những

''
  !
biện pháp chấn chỉnh, bảo đảm TCTD hoạt động đúng chính sách, pháp luật chế độ,
thể lệ và hoạt động có hiệu quả hơn.
• Phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những quy định chưa hợp lý để kiến nghị sủa
đổi, bổ sung và hoàn thiện theo quy định hiện hành.
Nội dung của thanh tra tại chỗ
 Thanh tra nguồn vốn;
 Thanh tra chất lưọng tín dụng;
 Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh;
 Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ;
 Thanh tra hùn vốn liên doanh;
 Thanh tra nghiệp vụ tài chính, kế toán…
Ở Việt Nam hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với NHTM thực sự được chú
trọng từ khi pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh ngân hàng ra đời. Trong điều kiện các phương

tiện và việc xây dựng các tiêu chí cho việc giám sát từ xa còn bị hạn chế, các NHTM chưa
xây dựng cho mình được một hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì phương thức
thanh tra, kiểm tra tại chỗ vẫn có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sai phạm va ngăn
ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.2. Đánh giá mức độ đáp ứng các quy định về thanh tra, giám sát ở Việt Nam
Một hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại nên có 3 phòng tuyến như sau: cơ chế kiểm
soát nội bộ tốt là phòng tuyết thứ nhất phòng ngừa rủi ro cho chính ngân hàng; kỷ luật thị
trường ngành ngân hàng hoạt động có hiệu quả là phòng tuyến thứ hai giám sát hoạt động
ngân hàng; và phòng tuyến thứ ba chính là hoạt động giám sát của các cơ quan hành chính
nhà nước đối với hoạt động của các NHTM. Đây có thể được xem là 3 trụ cột bảo vệ hệ
thống NHTM hoạt động ổn định và có hiệu quả, bổ trợ lẫn nhau trong quá trình phòng ngừa
và khống chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra có thể trình bày kết cấu một hệ
thống giám sát ngân hàng hiện đại như sau:

'
  !
Hình 2.1.Hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại
Nguồn: thoibaonganhang.vn
Hiện nay tại Việt Nam các phòng tuyến vẫn chưa được gắn kết và phối hợp với nhau để
phát huy tối đa tính hiệu quả trong hoạt động giám sát ngân hàng, bảo đảm sự ổn định và
phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đồng thời mỗi
phòng tuyến đều có những tồn tại riêng của nó như: mô hình tổ chức giám sát tài chính của
các cơ quan nhà nước chưa hoàn thiện, cơ chế thị trường ngành ngân hàng hoạt động không
hiệu quả, bộ máy kiểm soát nội bộ NHTM còn nhiều yếu kém, các phòng tuyến giám sát
khác như bảo hiểm tiền gửi, hiệp hội ngân hàng còn tồn tại rất nhiều vấn đề.

'
  !
Hình 2.2.Mô hình giám sát tài chính ở Việt Nam
Nguồn: thoibaonganhang.vn

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Tên tiếng Anh: Deposit Insurance of Vietnam (DIV) là tổ
chức tài chính nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09
tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát
triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung, tổ chức BHTG có các vai trò chủ yếu sau:
 Cung cấp thông tin, tư vấn cho người gửi tiền;
 Chi trả tiền gửi được bảo hiểm;
 Giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ;
 Can thiệp vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG
Thực tế cho thấy, nếu hệ thống BHTG làm tốt vai trò đã nêu sẽ góp phần duy trì hệ
thống ngân hàng lành mạnh, người gửi tiền được bảo vệ triệt để và từ đó nguy cơ của khủng
hoảng sẽ giảm.

'"
  !
BHTG Việt Nam là một tổ chức mới thành lập, cho đến nay khoảng 11 năm và với kinh
nghiệm, quy mô vốn còn tương đối khiêm tốn nhưng phần nào đã góp vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm lòng tin cho người gửi tiền đối với hệ thống tín dụng Việt Nam. Thực
tiễn thời gian qua đã chứng minh không có tổ chức tín dụng nào ở Việt Nam mà việc suy
giảm hoặc đóng cửa gây nên việc đổ xô đi rút tiền hàng loạt của người dân, đó là nhờ có
sự đóng góp của tổ chức BHTG.
Tuy nhiên, vai trò của tổ chức này cần phải tăng cường hơn nữa, cần có các biện pháp sau:
Thứ nhất, BHTG phải nâng cao năng lực hoạt động của mình để giám sát kỹ hơn và
đưa ra những khuyến nghị kịp thời, cảnh báo sớm hơn những rủi ro của từng TCTD nhằm
bảo đảm không có đổ vỡ, chứ không phải là đợi đến đổ vỡ mới thanh toán. Một trong những
điều kiện để làm thì ngoài năng lực ấy phải tiến tới thu phí bảo hiểm dựa vào rủi ro của từng
tổ chức chứ không phải thu phí đồng loạt.
Thứ hai, nâng dần mức BHTG, mức 50 triệu hiện nay là quá thấp so với bình quân tiền
gửi của người dân ở các ngân hàng, cần phải nâng lên để người dân yên tâm hơn, từ đó họ

sẽ không có những phản ứng tiêu cực khi có những hiện tượng đổ vỡ. Xác định nhiệm vụ
nào là chủ yếu, là trọng tâm của BHTG là một việc làm rất hệ trọng, cần được đặt ra một
cách cấp bách vì nếu xác định không đúng thì việc thực hiện chức năng của BHTG sẽ rất
khó thực hiện; và mục tiêu cho hoạt động của BHTG đã được đặt ra khó có thể đạt được.
Kỷ luật thị trường
Quan điểm của người dân về quy tắc “Too big to fail” ở VN vẫn đang tồn tại. Vì sự ổn
định của xã hội và cả nền kinh tế, nhà nước sẽ không thể để cho các NHTM nhà nước
(NHTMNN) sụp đổ. Quan điểm này đã thấm sâu vào trong suy nghĩ của mọi người, vì vậy
loại BHTG ẩn đã làm cho người gởi tiền hầu như không quan tâm đến các chỉ tiêu rủi ro của
các NHTMNN (tất nhiên còn nhiều lý do khác như người gởi tiền có qua ít con đường để
đầu tư). Còn đối với các NHTM cổ phần (NHTMCP), họ là các doanh nghiệp thực sự, họ
hiểu rằng phải tự chịu trách nhiệm kinh doanh và mục tiêu lợi nhuận của mình, và chỉ nhận
được sự bảo đảm tín dụng và giúp đỡ từ nhà nước có giới hạn. Đã từng có những NHTMCP


×