Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

phân tích thực trạng ứng dụng hiệp ước Basel III về đảm bảo thanh khoản tại các ngân hàng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.61 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khả năng thanh khoản, hay khả năng đáp ứng nguồn vốn cho sự tăng lên của tài
sản có và thanh toán các khoản nợ khi đến hạn là điểm cực kỳ quan trọng đối với sự tồn
tại của bất kỳ ngân hàng nào. Vì vậy, quản lý khả năng thanh khoản là một trong những
hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng. Quản lý khả năng thanh khoản tốt sẽ giúp
giảm xác suất xảy ra những tổn thất nghiêm trọng. Tầm quan trọng của khả năng thanh
khoản thực sự vượt ra khỏi phạm vi của những ngân hàng đơn lẻ vì sự suy giảm khả năng
thanh khoản tại một ngân hàng có thể có ảnh hưởng tới toàn hệ thống. Vì lý do đó, việc
phân tích khả năng thanh khoản đòi hỏi các bộ quản lý ngân hàng không chỉ đo lường
khả năng thanh khoản của ngân hàng một cách liên tục mà còn nghiên cứu xem các yêu
cầu cấp vốn có khả năng diễn biến như thếnào trong những hoàn cảnh khác nhau bao
gồm cả những điều kiện bất lợi.
Trong các công việc về giám sát khả năng thanh khoản, Ủy ban Basel đã nỗ lực
mở rộng cách hiểu về cách thức một ngân hàng quản lý khả năng thanh khoản của mình ở
phạm vi toàn cầu trên cơ sở bù trừ các giao dịch trong nội bộ. Những tiến bộ gần đây về
phương diện tài chính và công nghệ đã cung cấp cho các ngân hàng những phương pháp
mới để cấp vốn cho các hoạt động của mình và quản lý khả năng thanh khoản. Ngoài ra,
sự suy giảm khả năng chỉ trông cậy vào hoạt động nhận tiền gửi , sự tăng cường các
nguồn vốn bán buôn cùng những xáo trộn gần đây trên thị trường tài chính toàn cầu đã
thay đổi cách thức các ngân hàng nhìn nhận về khảnăng thanh khoản. Những thay đổi
này cũng đặt ra những thách thức mới cho các ngân hàng.
Tính chính thức và mức độ tinh vi của quá trình quản lý khả năng thanh khoản phụ
thuộc vào quy mô và mức độ phát triển của ngân hàng cũng như bản chất và mức độ
phức tạp của hoạt động của ngân hàng đó. Tùy nội dung của tài liệu này tập trung vào các
ngân hàng lớn nhưng các nguyên tắc có thể áp dụng cho tất cả các ngân hàng.
1
I. TỔNG QUAN VỀ BASEL
1. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố hoạt động và
tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ ban Basel về giám


sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được thành lập bởi
một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10)
tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư
ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15
thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm
thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan
giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ
quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu
tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây
dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới
thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng
rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính
họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn
chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy
ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những
tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong
công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản
là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2)
việc giám sát phải tương xứng.
2
2. Basel I
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt một văn
bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital Accord hay Basel I),
yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể
đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất
định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối
thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Basel I không chỉ được phổ biến trong
các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng

hoạt động quốc tế. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và
cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì
vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo
rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi
ro tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ
ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động
kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996,
Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường
cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự
biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của
một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là
tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính
theo 2 phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá
trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử
dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định
trong Basel.
Mục đích của Basel I:
Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa nhằm củng cố sự ổn
3
định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh
không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Thành tựu của Basel I:
(i) Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung
nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại: Vốn cấp 1,
Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1+Vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ
công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có

hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ lại không công bố;
Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn
hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài
chính khác.
(ii) Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục
đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt
động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp
khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn
trầm trọng khi CAR < 2%.
Những hạn chế của Basel I:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có
khá nhiều điểm hạn chế. Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến
một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi
4
ro tác nghiệp (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro tác nghiệp).
Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: Không phân biệt theo loại rủi ro; Việc
phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi ích từ việc đa dạng
hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu
tư…).
3. Basel II, III:
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất
khung đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về
vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính
toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp

(hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với
rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn
toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm
nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này
cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ
thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp
ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân
hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục
rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các
giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của
ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát
viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả
của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao
hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để
5
đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể
yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng
phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro
này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch
hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro.

Mục tiêu của Basel II:
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và
duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy
mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel
I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều
tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà
sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là
“yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội
bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc
thị trường.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các
ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với
6
rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công
khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về
kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái
sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
Những hạn chế của Basel II:
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ
công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã

cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể
được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu lỳ kinh
doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ
có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
Mới đây, lãnh đạo hàng đầu của các nền kinh tế thuộc G20 đã hối thúc Ủy ban
Basel đưa ra biện pháp cải thiện chất lượng và số lượng vốn của các ngân hàng và thắt
chặt yêu cầu thanh khoản (Basel III) để các ngân hàng ứng phó tốt hơn với khủng hoảng
và ngăn khủng hoảng tài chính lặp lại mà không cần đến hỗ trợ từ chính phủ. Theo dự
thảo đưa ra tại G20, đến cuối năm 2012, Basel khuyến cáo các nước cần áp dụng tiêu
chuẩn mới về vốn và đưa ra các biện pháp linh hoạt hơn để khuyến khích các ngân hàng
thay đổi. Hiệp định Basel III được thống đốc các ngân hàng trung ương và các cơ quan
quản lý ngân hàng 27 thành viên (gồm Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc,
Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico,
Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ,
7
Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ) ký kết hôm 12/9/2010 tại Thành phố Basel, Thụy Sỹ. Basel III
với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn, cùng phương
pháp giám sát an toàn vĩ mô được đánh giá là sự thay đổi lịch sử trong quy định về hoạt
động ngân hàng. Trong đó, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) được giữ nguyên ở mức
8%, nhưng Basel III yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) của các ngân hàng phải nâng từ
4% lên 6%. Trong 6% vốn cấp 1 đó, 4,5% phải là vốn của các cổ đông phổ thông. Bên
cạnh đó, những tài sản “Có” với chất lượng vốn có vấn đề cũng sẽ được loại trừ dần khỏi
vốn cấp 1 và vốn cấp 2, như các khoản đầu tư vượt quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài
chính. Đặc biệt, Basel 3 yêu cầu áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở
mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với tổng tài sản có cộng với các khoản mục ngoại
bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ này cho phép Ủy ban Basel theo dõi biến động tỷ lệ
đòn bẩy thực của các ngân hàng theo chu kỳ kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu cầu về

vốn với tỷ lệ đòn bẩy. Giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các
ngân hàng áp dụng. Như vậy, Basel 3 là một bước ngoặt trong việc xây dựng các quy
định tài chính. Lần đầu tiên trong các quy định tài chính đề cập tới các thước đo giám sát
an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung cho phương pháp giám sát an toàn vi mô của
từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel đang nghiên cứu các thước đo đối với những tổ chức
có tầm quan trọng đối với hệ thống. Basel 3 đưa ra tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là
điều đặc biệt quan trọngchưa có tiêu chuẩn quốc tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ
thanh khoản sẽ được ban hành vào 1/1/2015, giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn
hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ
các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong
những trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro thanh khoản rất khác nhau tại
từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình báo cáo để theo dõi các tỷ lệ
trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn được tính toán như dự kiến. Thời
hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày 1/1/2015. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt
đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018.
8
II. QUY ĐỊNH ĐẢM BẢO AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI VIỆT NAM.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn thanh
khoản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại Thông tư số 13/2010/TT-NHNN như sau:
Cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ
về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
1. Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ phải
trả.
1.1. Tổng tài sản “Có” thanh toán ngay bao gồm:
a) Số dư tiền mặt, giá trị sổ sách của vàng tại quỹ;
b) Số dư tiền gửi, giá trị sổ sách của vàng gửi tại Ngân hàng Nhà nước (trừ tiền gửi dự trữ
bắt buộc);
c) Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi
không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội và số
dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín

dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng;
d) Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi có
kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách
Xã hội và số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng có kỳ hạn đến hạn thanh toán
của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng;
đ) Giá trị sổ sách của các loại trái phiếu, công trái do Chính phủ Việt Nam, chính phủ
9
hoặc ngân hàng trung ương các nước thuộc OECD phát hành hoặc được Chính phủ Việt
Nam, chính phủ hoặc ngân hàng trung ương các nước thuộc OECD bảo lãnh thanh toán;
e) Giá trị sổ sách của tín phiếu Kho Bạc, tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước phát hành;
g) Giá trị sổ sách của trái phiếu do chính quyền địa phương, công ty đầu tư tài chính địa
phương, Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành;
h) Giá trị sổ sách của các chứng khoán được niêm yết trên các Sở giao dịch chứng khoán
tại Việt Nam, nhưng tối đa không vượt quá 5% tổng Nợ phải trả;
i) Giá trị sổ sách của các loại chứng khoán, giấy tờ có giá khác được Ngân hàng Nhà
nước chấp nhận cho tái chiết khấu hoặc lưu ký, giao dịch thực hiện nghiệp vụ thị trường
tiền tệ.
1.2. Tổng Nợ phải trả được xác định bằng số dư trên khoản mục Tổng nợ phải trả.
2. Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và
đồng đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi
sang đô la Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).
2.1. Tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau bao
gồm:
a) Số dư tiền mặt tại quỹ cuối ngày hôm trước;
b) b) Giá trị sổ sách của vàng cuối ngày hôm trước, kể cả vàng gửi tại Ngân hàng Nhà
nước, tổ chức tín dụng khác;
c) Số dư tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (trừ tiền gửi dự trữ bắt buộc), tiền gửi không
kỳ hạn tại tổ chức tín dụng khác cuối ngày hôm trước;

d) Số dư tiền gửi có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng khác đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
10
theo kể từ ngày hôm sau;
đ) 95% giá trị các loại chứng khoán do Chính phủ Việt Nam, chính phủ các nước thuộc
OECD phát hành hoặc được Chính phủ Việt Nam, chính phủ các nước thuộc OECD bảo
lãnh thanh toán nắm giữ đến cuối ngày hôm trước;
e) 90% giá trị các loại chứng khoán do tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam phát
hành hoặc bảo lãnh thanh toán, các ngân hàng của các nước thuộc OECD phát hành hoặc
bảo lãnh thanh toán nắm giữ đến cuối ngày hôm trước;
g) 85% giá trị các loại chứng khoán khác được niêm yết nắm giữ đến cuối ngày hôm
trước;
h) 80% số dư các khoản cho vay có bảo đảm, cho thuê tài chính, trừ nợ xấu, đến hạn
thanh toán trong 7 ngày tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;
i) 75% số dư các khoản cho vay không có bảo đảm, trừ nợ xấu, đến hạn thanh toán trong
7 ngày tiếp theo, kể từ ngày hôm sau.
2.2. Tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau bao
gồm:
a) Số dư tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác cuối ngày hôm trước;
b) Số dư tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác, tổ chức, cá nhân đến hạn thanh
toán trong 7 ngày tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;
c) 15% số dư bình quân tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức (trừ tiền gửi của tổ chức tín
dụng khác), cá nhân trong thời gian 30 ngày liền kề trước kể từ ngày hôm trước. Tổ chức
tín dụng phải xác định số dư bình quân này để làm cơ sở tính toán;
d) Số dư tiền vay từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;
đ) Số dư tiền vay từ các tổ chức tín dụng khác đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo,
11
kể từ ngày hôm sau
e) Số dư giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;

g) Giá trị các cam kết cho vay không hủy ngang đối với khách hàng đến hạn thực hiện
trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau;
h) Giá trị các cam kết bảo lãnh vay vốn đối với khách hàng đến hạn thực hiện trong 7
ngày tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;
i) Giá trị các cam kết bảo lãnh thanh toán, trừ phần giá trị được bảo đảm bằng tiền, đến
hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo, kể từ ngày hôm sau;
k) Các khoản tiền lãi, phí đến hạn phải trả vào từng ngày trong 7 ngày tiếp theo, kể từ
ngày hôm sau.
12
III. ÁP DỤNG BASEL III ĐỂ ĐẢM BẢO THANH KHOẢN TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM
1. Sự cần thiết của Basel III trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam
Những lí do khiến hệ thống NHTM Việt Nam cần phải ứng dụng Basel III vào hoạt động
đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng, đó là:
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng không còn bó buộc trong phạm vi một quốc gia
mà trải rộng ra nhiều quốc gia, nhiều khu vực với những danh mục sản phẩm dịch vụ đa
dạng. Trên thực tế, nhiều NHTM Việt Nam đã và đang tìm cách mở chi nhánh của mình
ở nước ngoài nhằm tăng tính chủ động trong hoạt động đồng thời tận dụng tốt thị trường
tiềm năng trên thế giới. Khi đã lực chọn mở chi nhánh ngân hàng tại quốc gia khác thì
phải tuân theo pháp luật hiện hành của họ, không thể chỉ gữ riêng theo pháp luật Việt
Nam.
Thứ hai, trong thời gian tới, hoạt động của ngân hàng nước ngoài dự báo sẽ phát
triển mạnh trên lãnh thổ Việt Nam, việc kiểm soát để hạn chế đến mức tối đa rủi ro cho
toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi của những người gửi
tiền là hết sức cần thiết. Nếu không có quy định luật phát đi trước một bước thì khi chậm
chân hơn, hệ thống ngân hàng chúng ta sẽ phải nhận những hậu quả có thể rất năng nề.
Thứ ba, hoàn thiện theo các chuẩn mực quốc tế sẽ giúp các ngân hàng có thể so sánh
và đánh giá một cách chính xác, khách quan nhất về những điểm yếu và bất lợi. Điều này
sẽ giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển bền vững và an toàn hơn.
Với những lý do trên, việc hướng đến ứng dụng Basel nói chung và Basel III nói

riêng là một trong những mục tiêu quản trị rủi ro và đảm bảo thanh khoản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam. Việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về an toàn vốn sẽ đảm bảo tính
thanh khoản cho ngân hàng
13
2. Những quy định của Basel III về đảm bảo thanh khoản trong hoạt động ngân
hàng Việt Nam
Đảm bảo thanh khoản trong Basel III đề cập đến 2 chỉ tiêu quản lý chính:
Thứ nhất là LCR ( Lyquidity Coverage Ratio ), tức tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh
khoản, sẽ được tính bằng cách lấy tài sản "Có" thanh khoản cao hơn chia cho tài sản
"Nợ" phải thanh toán trong vòng 30 ngày, tỷ lệ này phải lớn hơn hoặc bằng 100%, tức là
tài sản "Có" thanh khoản cao phải lớn hơn hoặc bằng tài sản "Nợ" phải thanh toán trong
vòng 30 ngày.
Qui định về tỷ lệ bảo hiểm thanh khoản có thể buộc các ngân hàng phải nắm giữ
nhiều tài sản dễ chuyển nhượng để có thể tồn tại trong 30 ngày bị siết tín dụng. Đây là
nội dung chủ yếu trong gói biện pháp vốn và thanh khoản, gọi là Basel III, đã được dự
thảo để tránh lặp lại khủng hoảng tài chính 2008. Tuy nhiên, Basel III đã trở thành chủ đề
bị phê phán quyết liệt do tính phức tạp của nó, đến nỗi EU và Mỹ phải hoãn thực thi qui
định này. Các ngân hàng cảnh báo, đề xuất LCR ban đầu có thể buộc họ phải mua thêm
nợ quốc gia, trói buộc số phận của họ với khả năng thanh toán của các chính phủ.
Điều đặc biệt là định nghĩa Tài sản thanh khoản cao là một điều đáng được lưu tâm
và học hỏi. Trong đó tài sản có tính thanh khoản cao được chia thành 2 cấp độ khác nhau:
cấp độ cao nhất (như tiền mặt, trái phiếu Chính phủ, dự trữ ) chiếm tỷ trong lớn hơn
hoặc bằng 60% tổng thanh khoản. Tài sản thanh khoản cấp độ 2 ( tính thanh khoản thấp
hơn cấp độ 1) không vượt quá 40% tỷ trọng sau khi đã áp dụng tỷ lệ chiết khấu. Tức là tài
sản thanh khoản cao cấp độ 2 không vượt quá 2/3 tài sản thanh khoản cao cấp độ 1.
Thanh khoản thì phải nói tới khả năng chuyển đổi thành tiền và do đó các tài sản như
trái phiếu cần có tỷ lệ chiết khấu hợp lý, tuy nhiên nên nhìn nhận vấn đề này tùy vào từng
xu hướng, chu kỳ của chính sách. Ở Việt Nam khi thông tư 13 ra đời ( có quy định về tỷ
lệ thanh khoản) thì lượng trái phiếu chính phủ được nắm giữ chiếm tỷ trọng cao hơn,
được phân bổ nhiều hơn, trên quan điểm thanh khoản đó là tốt và sẽ thuộc vào tài sản

thanh khoản cao cấp độ 1. Tuy nhiên như chúng ta đã thấy, khi môi trường thắt chặt thì
14
những hoạt động kiếm tiền chiếm tỷ lệ rất nhỏ, tức là tính thanh khoản đẩy lợi suất loại
này lên cực cao, ngân hàng cũng mất thanh khoản.
Vấn đề tiếp từ định nghĩa đó là cách hiểu tài sản " Nợ" phải thanh toán trong vòng 30
ngày. Nó không chỉ dừng lại ở giá trị sổ sách vì nó còn phụ thuộc vào lãi suất của từng
loại tài sản, tức là dòng tiền ròng sẽ tăng lên nếu tỷ lệ lãi suất cao ( như repo, các khoản
nhận tiền gửi với kinh phí khác nhau, tiền vay liên ngân hàng, ).
Theo Cơ quan giám sát cao nhất thuộc Basel GHOS, các nhà giám sát sẽ xem xét
khả năng cho phép các ngân hàng tính dự trữ bắt buộc tại NHTW vào LCR, tiếp tục đánh
giá cách thức LCR tương tác với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản của NHTW.
Bên cạnh điểm tích cực, một số chuyên gia vẫn băn khoăn về hiệu lực của thỏa thuận
đạt được. Một số nước đã đưa ra cam kết để tuân thủ thỏa thuận này, nhưng không dễ
chuyển lời nói thành hành động, trong bối cảnh sản xuất đình đốn và các ngân hàng ngại
cho vay nhằm hạn chế rủi ro.
Qui định cuối cùng về LCR đang cản trở nguyên tắc cho phép các ngân hàng sử
dụng nợ quốc gia để đáp ứng các nghĩa vụ LCR, nếu các trái phiếu được sử dụng để giải
phóng rủi ro theo qui định về vốn liên ngân hàng.
Từ năm 2010, Các ngân hàng được phép sử dụng tiền mặt và trái phiếu chính phủ để đáp
ứng LCR tùy theo qui định về chất lượng của nợ quốc gia, các ngân hàng cũng có thể sử
dụng nợ doanh nghiệp chất lượng cao hay trái phiếu có bảo đảm để đáp ứng 40% yêu cầu
LCR.
Thỏa thuận mới đạt được mở rộng giới hạn nợ doanh nghiệp mà các ngân hàng có
thể sử dụng, cho phép tính thêm một số chứng khoán hạng thấp, các ngân hàng cũng có
thể được phép sử dụng một số cổ phiếu và chứng khoán cầm cố nhà ở hạng cao. Do chất
lượng thấp, nên chứng khoán tăng thêm sẽ dễ giảm giá hơn so với những loại chứng
khoán ưu đãi theo qui định năm 2010 về LCR, nên các ngân hàng không được phép tính
quá 15% vốn đệm LCR của ngân hàng.
15
Thứ hai là NSFR (Net Stable Funding Ratio = Available Stable Funding

(ASF)/Required Stable Funding (RSF) >= 100%), là tỷ lệ nguồn vốn ổn định trung dài
hạn (internal or external sources) sử dụng tối thiểu. Tức là nguồn vốn có thời gian đáo
hạn từ 1 năm trở lên phải lớn hơn hoặc bằng 100% tài sản kém thanh khoản (như các
khoản cho vay trung dài hạn). Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài
hạn ở Việt Nam là một nhánh của tỷ lệ trên.
IV. TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
16
HIỆN NAY
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay bao gồm 3 nhóm ngân hàng chính: các
NHTM nhà nước, các NHTMCP và các NHTM nước ngoài. Ngoài ra, còn có các ngân
hàng liên doanh và các văn phòng đại diện của các TCTD nước ngoài. Cụ thể, tính đến
cuối năm 2012, Việt Nam có 5 NHTM nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng là: Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Vietinbank, và
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đã được cổ phần hóa, tuy nhiên, Nhà
nước vẫn giữ cổ phần chi phối trên 70%), 1 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng phát triển,
37 ngân hàng TMCP, 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài, và
54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có các TCTD phi ngân hàng, bao gồm
18 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân
(gồm 1 Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương với hơn 1.073 quỹ thành viên).
Theo quy định của NHNN thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng như
sau:
17
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và
dưới 12
tháng
Từ 12

tháng
trở lên
Không kỳ
hạn và
dưới 12
tháng
Từ 12
tháng
trở lên
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm
NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính
3% 1% 8% 6%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
1% 1% 7% 5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác,
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1% 1% 7% 5%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ
bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ
sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
0% 0% 0% 0%
(Nguồn: Văn bản số 1925/QD-NHNN 26/8/2011)
Còn theo quy định mới của Basel III, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng
có hoạt động quốc tế là 7% so với tiêu chuẩn 2% theo Basel II. Như vậy quy định của
NHNN đã phù hợp với chuẩn của Basel đối với các nguồn vốn bằng ngoại tệ. Tại Việt
Nam hiện tại chỉ có một số ít các ngân hàng có chi nhánh hoạt động ở nước ngoài như
BIDV, Agribank, MB, Sacombank, Vietinbank. Hầu hết các ngân hàng đều hướng đến

các đối tượng có quan hệ với Việt Nam. Trong đó, chủ yếu vẫn là những DN Việt đang
hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, khách hàng Việt kiều và chủ yếu ở các nước bạn như
Lào, Campuchia, Séc (đối với BIDV), Đức (đối với Vietinbank).
2. Lãi xuất
18
Năm 2012, từ mức trần 14%, sau 6 lần điều chỉnh liên tiếp đã giảm còn 8% trong
ngắn hạn. Song song việc áp trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn, NHNN đã cho thả nổi
lãi suất kỳ hạn 12 tháng trở lên. Lãi suất cơ bản giảm 5% so với cuối năm 2011, từ mức
trần 14%/năm xuống 9%/năm, các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh. Lãi suất
tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 8%/năm trong khi lãi suất tái cấp vốn giảm từ
15%/năm xuống 10%/năm.
Biểu đồ IV.1: Sự thay đổi lãi suất qua các năm 2011 – 2012
(Nguồn: SBV)
Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3 – 8%/năm. Lãi suất cao nhất chỉ còn khoảng
15%/năm, theo chỉ đạo của NHNN. Cuối năm 2012, lãi suất cho vay phổ biến từ 12 –
15%/năm. NHNN quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với 4 lĩnh vực
ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ
trợ ở mức không quá +/-3% lãi suất cơ bản.
Việc áp dụng trần huy động lãi suất trong ngắn hạn như vậy đã tác động nhiều đến
tình hình huy động vốn của các NHTM đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Họ sẽ tìm mọi
cách vượt trần để huy động được vốn nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình và vô
hình chung đã làm cho rủi ro thanh khoản ngày càng gia tăng.
19
(Nguồn: Báo cáo phân tích ngành - Phương Nam Securities)
Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Năm 2013 sẽ xem xét bỏ trần lãi suất huy động.
Theo đó, NHNN sẽ điều hành các mức lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền
tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát; tiếp tục áp dụng trần lãi suất tiền gửi bằng VND để
ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, xem xét bỏ trần lãi suất huy động khi thị trường tiền
tệ ổn định và thanh khoản của hệ thống TCTD cải thiện vững chắc. Trường hợp lạm phát
của năm 2013 được kiểm soát ở mức thấp hơn năm 2012, NHNN tiếp tục điều hành theo

hướng giảm mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát.”
Với tình hình lạm phát giảm như hiện nay thì việc xem xét gỡ bỏ trần lãi xuất huy
động sẽ khiến cho các ngân hàng có thể huy động được các nguồn vốn mới từ công
chúng chứ không phụ thuộc quá lớn vào thị trường liên ngân hàng như những gì đã diễn
ra. Bên cạnh đó, hiện nay các ngân hàng cũng đang tự nguyện cắt giảm lãi suất huy động,
điều này sẽ khiến cho lãi suất cho vay cũng giảm theo, các doanh nghiệp có thể tiếp cận
được nguồn vốn rẻ để cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó sẽ làm tăng hoạt
động tín dụng đặc biệt là dài hạn và từ đó sẽ giảm được tình hình thanh khoản cũng như
nợ xấu.
2. Nợ xấu
Đây là bản chất của vấn đề thanh khoản ở các ngân hàng thương mại hiên nay, đặc
20
biệt là các ngân hàng thương mại nhỏ. Các khoản nợ xấu này chủ yếu nằm ở lĩnh vực bất
động sản và các lĩnh vực sản xuất có liên quan do sức cầu ở các thị trường này suy giảm
mạnh trong hơn một năm qua. Theo tính toán của NHNN thì chỉ riêng tổng dư nợ bất
động sản là xấp xỉ 200.000 tỉ đồng vào cuối năm 2011. Theo Bộ Xây dựng, đến cuối
tháng 10/2012, tổng dư nợ bất động sản khoảng 207.595 tỷ đồng, trong đó 13,5% là nợ
xấu, tức 28 nghìn tỷ đồng. Bất động sản đóng băng, hàng chục ngàn doanh nghiệp giải
thể; với các lý do: lãi suất quá cao (27,2%), lạm phát cao và thất thường (19,5%), khả
năng tiếp cận vốn khó (17,4%), chi phí vận tải cao (9,7%), điện cung cấp không ổn định
(7%) và chính sách điều tiết kinh tế không ổn định (7%) (Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, 6 tháng đầu năm 2012); đã khiến cho tình trạng nợ xấu đang càng trở nên phức
tạp
Hiện nay tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm 2012
đã tăng tới 66% so với cuối năm 2011. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là
8,82% trên tổng dư nợ và ước cả năm vào khoảng 8,5% - 10%.

Biểu đồ IV.2 : Tình hình nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam
(Nguồn: Báo cáo phân tích ngành - Phương Nam Securities)
Nợ xấu có tài sản đảm bảo bằng bất động sản và bất động sản hình thành trong

tương lai chiếm đến hơn 70% tổng nợ xấu. Nợ xấu tập trung ở nhóm các ngân hàng
21
thương mại với 95,5% tổng nợ xấu của các TCTD trong nước (NHTM Nhà nước chiếm
50,5%).
Xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân các TCTD mà còn
cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm cản
trở dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các TCTD
mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị động vốn trong nợ xấu, các TCTD không có điều kiện
mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt động sản suất của nền kinh tế gặp khó khăn
mặt khác cũng ảnh hưởng đến tình hình thanh khoản của ngân hàng. Xử lý được nợ xấu
sẽ góp phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững.
3. Tỷ trọng dư nợ trên tổng tiền gửi

Biểu đồ IV.3: Tình hình huy động vốn và tín dụng trong các năm qua
(Nguồn: Báo cáo phân tích ngành - Phương Nam Securities)
Theo số liệu của NHNN, tín dụng của toàn hệ thống tăng trưởng 4,85% trong 11
tháng đầu năm và ước tăng 5 – 5,5% trong cả năm 2012. Đây là lần đầu tiên kể từ năm
1992, mức tăng trưởng tín dụng ở một chữ số. So với mức trung bình của 10 năm trở lại
đây (đạt 28%), thì tăng trưởng tín dụng năm nay chỉ bằng 15%. Nguyên nhân chính là do
cầu yếu, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao nên nhiều DN không đủ
điều kiện vay vốn, bên cạnh đó các TCTD phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn
22
chặn nợ xấu
Trong khi tín dụng tăng trưởng thấp thì huy động vốn của các TCTD lại tăng
mạnh. Trong 11 tháng đầu năm 2012, vốn huy động đã tăng 15,98% so với cuối năm
2011 và ước cả năm đạt mức tăng trưởng 17%.
BảngIV.1 : Tỷ lệ dư nợ trên tổng tiền gửi của các ngân hàng năm 2007 – 2012
Ngân hàng 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Agribank 107.4% 98.19% 110.9% 112.9% 113.3% 101.4%*

BIDV 97.52% 98.52% 110.2% 103.8% 122.2% 112.1%
Vietcombank 68.88% 70.89% 83.76% 86.35% 92.25% 84.79%
MHB 140.0% 133.95% 135.0% 105.7% 112.6% -
Vietinbank 90.68% 99.27% 109.8% 113.7% 114.0% 115.3%
ACB 57.54% 54.24% 71.74% 81.54% 72.29% 82.10%
Sacombank 79.98% 75.89% 98.58% 105.3% 107.2% 89.65%
Đông Á 123.9% 111.13% 122.8% 121.9% 122.0% 107.1%
Techcombank 83.70% 65.16% 87.44% 65.71% 71.58% 61.24%
Exinbank 80.56% 68.76% 99.01% 107.2% 139.1% 106.4%
ABbank 101.2% 91.52% 85.88% 84.74% 98.35% -
HDbank 251.7% 142.39% 87.01% 83.86% 72.54% -
VPbank 104.1% 90.68% 95.90% 105.6% 99.22% 62.01%
MBbank 64.49% 57.95% 74.01% 74.22% 65.94% 63.25%
Maritimebank 88.59% 79.44% 7.94% 65.46% 60.60% 48.58%
Nam Á 96.32% 109.2% 111.3% 91.70% 96.88% 78.47%
Nam Việt 71.06% 90.91% 103.4% 100.4% 87.13% 75.19%*
OCB 130.9% 126.5% 136.8% 133.3% 141.3% 112.8%
Oceanbank 194.8% 9262.% 43.59% 41.64% 49.72% -
Đại Á 144.2% 102.2% 89.15% 127.3% 136.7% 125.3%*
Đông Nam Á 102.7% 87.42% 77.97% 82.74% 57.17% -
Kiên Long 141.9% 132.1% 101.6% 107.0% 103.2% 88.80%*
23
PGbank 146.1% 107.5% 90.88% 101.6% 110.8% 111.8%
Saigonbank 113.87% 110.49% 114.63% 115.32% 125.24% 103.3%*
Southernbank 61.53% 105.47% 134.41% 115.32% 105.77% 76.89%
Trustbank 267.11% 80.59% 133.81% 109.39% 106.78% -
VIBank 94.67% 81.94% 84.51% 112.34% 98.48% 86.73%
Việt Á 125.94% 88.25% 111.39% 92.76% 159.76% -
Western 109.78% 158.78% 54.13% 141.47% 70.10% -
Trung bình cộng 115.23% 96.97% 95.45% 99.68% 100.44% 90.17%

Ghi chú:
* số liệu quý 3/2012
- số liệu chưa công bố
Tuy nhiên nếu xét theo tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi tại các ngân hàng
thì nhìn chung là rất cao trung bình trên 90%. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi hoạt động chu
yếu của các ngân hàng vẫn là cho vay, lợi nhuận thu được phần lớn vẫn nhờ sự chênh
lệch giữa lãi xuất đầu vào và đầu ra. Trong khi tỷ lệ này đối với nhóm NHTMCP có xu
hướng giảm thì đối với nhóm NHTM nhà nước vẫn duy trì trên 100%, do đây là nhóm
ngân hàng thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung
giao phó để hỗ trợ, thúc đẩy và phát triển kinh tế.
Biểu đồ IV.4: Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tiền gửi của các nhóm ngân hàng năm
2007 – 2012
24
3. Hệ số LCR (Liquidity Coverage Ratio)
Theo Basel III thì hệ số LRC là tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản, được dùng
để đánh giá khả năng phòng ngừa rủi ro thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng. Tiêu chuẩn
này được đưa ra nhằm đảm bảo rằng một ngân hàng sẽ có đủ tài sản chất lượng cao (High
Quality Liquid Assets) để có thể chuyển đổi thành tiền mặt mà không làm mất đi hoặc
mất rất ít giá trị của nó để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho khoản nợ phải trả trong vòng
30 sắp đến. Theo thỏa thuận vừa được thông qua tại hội nghị các thống đốc NHTW diễn
ra tại Basel vào những ngày đầu năm 2013, các ngân hàng sẽ được phép sử dụng nhiều
loại tài sản, trong đó bao gồm một số loại chứng khoán và các khoản nợ thế chấp đã được
chứng khoán hóa có mức xếp hạng tín dụng cao, để đáp ứng tỷ lệ LCR. Các ngân hàng có
thể sử dụng nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp hơn (bao gồm cả một số loại chứng khoán
có mức xếp hạng tín dụng thấp hơn).
Ngoài ra các ngân hàng cũng có thêm 4 năm nữa để tuân thủ đầy đủ các qui định
này. Khi quy định bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/2015, các ngân hàng chỉ phải đáp ứng
60% quy định về LCR và con số này sẽ tăng thêm 10% mỗi năm cho đến 2019.
25

×