Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BTL môi trường, những thách thức của môi trường hiện nay trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.42 KB, 13 trang )

Những Thách Thức Của Môi Trường Hiện Nay
Trên Thế Giới
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến
đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên
nhiên”.( Theo “Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam”)
Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì môi trường của con người
bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con
người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa ) và những cái
vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật ), trong đó con người sống
bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Như vậy, môi
trường sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng
và phát triển cho một thực thể sinh vật là con người mà còn là “khung
cảnh của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người”.
Vậy nhưng, môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng
xấu đi và có ảnh hưởng nhất định đến sự tồn vong của con người.
Và con người đang đứng trước những thách thức lớn về môi trường
toàn cầu.
A-Thách thức thứ nhất: Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất
thiên tai gia tăng.
-Trái đất nóng lên:Là hiện tượng nhiệt độ trung bình của không
khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong
các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không
khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Ủy ban Liên chính
phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí
nhà kính sinh ra từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu
hóa thạch và phá rừng làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa
thế kỷ 20. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi các hiện tượng tự
nhiên như bức xạ mặt trời và núi lửa gây ra phần lớn hiện tượng ấm
lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng


lạnh đi sau đó.
Các dự án thiết lập mô hình khí hậu được tóm tắt trong báo cáo gần
đây nhất của IPCC chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể
tăng1,1 đến 6,4 °C (2,0 đến 11,5 °F) trong suốt thế kỷ 21 Tuy nhiên,
sự ấm dần lên sẽ tiếp tục diễn ra sau năm 2100 cả trong trường hợp
ngừng phát thải khí nhà kính, đều này là do nhiệt dung riêng của đại
dương lớn và carbon dioxide tồn tại lâu trong khí quyển.
Nhiệt độ toàn cầu tăng sẽ làm mực nước biển dâng lên và làm biến
đổi lượng giáng thủy, có thể bao gồm cả sự mở rộng của các sa
mạc vùng cận nhiệt đới. Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra
mạnh nhất ở Bắc Cực.
Tiếp tục có những cuộc tranh luận chính trị và tranh cãi trong công
chúng về việc liệu có phải là Trái Đất thực sự đang ấm dần lên, và
con người cần phải làm gì để đối phó với hiện tượng này. Người ta
tìm nhiều cách để giảm thiểu lượng phát thải; thích nghi để giảm thiệt
hại do sự ấm lên gây ra; và đặc biệt hơn nữa là áp dụng các kỹ thuật
địa chất để có thể làm giảm thiểu sự ấm lên. Hầu hết các chính
phủ đã ký và thông qua Nghị định thư Kyoto với mục đích giảm phát
thải khí nhà kính.
Trái đất ngày càng nóng lên
-Băng tan khiến mực nước biển dâng cao:
Vùng Bắc cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng trung bình trên
toàn cầu. Diện tích của Biển Bắc cực được bao phủ bởi băng trong
mỗi mùa hè đang thu nhỏ lại. Tính từ năm 1980, vùng Bắc Âu đã mất
khoảng 20-30% lượng băng trên biển. Băng tan, lượng nước cung
cấp cho các sông cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ở Châu Âu, 8/9 khu vực
phủ băng đã bị thu hẹp trông thấy. Trong thời kỳ 1850-1980, các dải
băng trên các dãy núi ở Châu Âu đã mất gần 1/3 diện tích và 1/2 số
lượng. Ở Trung Quốc, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc cho rằng
có đến 7% các sông băng trên toàn nước này bị biến mất hằng năm,

đến năm 2050, sẽ có đến 64% sông băng của Trung Quốc biến mất.
Ước tính hiện có khoảng 300 triệu dân sống ở miền tây khô cằn và
phụ thuộc vào nguồn nước từ các sông băng để duy trì cuộc sống
của họ.
-Biến đổi khí hậu dẫn đến gia tăng tần suất thiên tai: Biến đổi khí
hậu (BĐKH) là những thay đổi theo thời gian của khí hậu, trong đó
bao gồm cả những hoạt động của con người gây ra. BĐKH xuất phát
từ sự thay đổi cán cân năng lượng của mặt trời do thay đổi nồng độ
các khí nhà kính, nồng độ bụi trong khí quyển, thảm phủ và lượng
bức xạ mặt trời.
Theo dự báo của các nhà khoa học nếu như tình hình phát thải khí
nhà kính không giảm thì vào năm 2030 nồng độ của khí CO2 trong
khí quyển sẽ tăng gấp đôi so với thời kỳ tiền công nghiệp. Hiệu ứng
nhà kính làm nhiệt độ trái đất tăng lên kéo theo hàng loạt các yếu tố
khí hậu khác như: Lượng mưa, độ ẩm, bức xạ… thay đổi theo. Toàn
bộ mặt đệm, cả mặt đất và đại dương đều nóng lên đặc biệt là ở các
vĩ độ cao dẫn đến hiện tượng tan băng các vùng cực, gây nên hiện
tượng nước biển dâng. Tần suất và cường độ hiện tượng El – Nino
tăng đáng kể, gây lũ lụt và hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt
đới. Mưa trở nên thất thường hơn, cường độ thay đổi. Đồng thời với
sự nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, sự thay đổi về lượng mưa và
sự bốc hơi là sự suy thoái của tầng ozon bình lưu làm tăng bức xạ tia
cực tím mặt trời trên trái đất, gây ra những ảnh hưởng lớn cho loài
người, hệ thống tự nhiên, tác hại trực tiếp đến cả nền kinh tế - xã hội.
Ngược lại, bản thân sự tồn tại và phát triển của các ngành kinh tế -
xã hội cũng làm biến đổi môi trường xung quanh, tác động đến hệ
thống khí hậu.
Trước diễn biến và ảnh hưởng lớn, mang tính toàn cầu của BĐKH,
các nước trên thế giới đã có nhiều động thái tích cực. Năm 1979, Hội
nghị khí hậu quốc tế lần thứ nhất đã tuyên bố kêu gọi Chính phủ các

nước nhận thức về mức độ nghiêm trọng và tiến hành các hành
động nhằm giảm thiểu các tác động làm BĐKH do con người gây ra.
Một loại các Hội nghị liên Chính phủ thảo luận về vấn đề BĐKH đã
được tổ chức từ những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ 20.
Gần đây nhất, UNDP đã công bố Báo cáo Phát triển con người năm
2007/2008 với chủ đề “Cuộc chiến chống BĐKH: Đoàn kết nhân loại
trong một thế giới phân cách”. Hội nghị về BĐKH tại Bali tháng 12
năm 2007 vừa qua đã thu hút được số lượng đại biểu tham gia kỷ
lục, góp phần thúc đẩy nhận thức của thế giới về vấn đề BĐKH.
Biến đổi khí hậu dẫn đến tần suất thiên tai tăng cao như:Bão,lũ
cường độ lớn kéo dài và không theo quy luật; Mùa bão lũ gây úng
ngập lâu dài; Hạn hán kéo dài và thiếu nước trầm trọng; Nóng bất
thường vào mùa hạ và rét đậm rét hại vào mùa đông; Động đất,song
thần diễn ra nhiều hơn…
+Nhiều hệ sinh thái mất cân bằng nghiêm trọng:
Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức gây ra sự suy giảm một số loài
và làm gia tăng mất cân bằng sinh thái.
Săn bắt các loài động vật quý hiếm như hổ, tê giác, voi có thể dẫn
đến sự tuyệt chủng nhiều loại động vật quý hiếm.
Chặt phá rừng tự nhiên lấy gỗ, làm mất nơi cư trú của động thực
vật.
Lai tạo các loài sinh vật mới làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên.
Các loài lai tạo thường kém tính chống bụi, dễ bị suy thoái. Mặt khác,
các loài lai tạo có thể tạo ra nhu cầu thức ăn hoặc tác động khác có
hại đến các loài đã có hoặc đối với con người.
Ðưa vào các hệ sinh thái tự nhiên các hợp chất nhân tạo mà sinh vật
không có khả năng phân huỷ như các loại chất tổng hợp, dầu mỡ,
thuốc trừ sâu, kim loại độc hại v.v
B-Thách thức thứ hai: Sự duy giảm tầng ô-zôn

Sự phá hoại tầng ôzon là nguy hại rất lớn đối với con người và thiên
nhiên.
Nguyên nhân của sự phá hoại tầng ôdôn là do sự sử dụng và thải
chất CFC, ngoài ra còn do các hợp chất oxy nitơ được tạo ra trong
khí thải của máy bay phản lực cỡ lớn và của các loại máy bay khi
bay vào tầng cao làm phân giải khí ôzon. Theo dự báo đến năm 2000
các máy bay cỡ lớn bay ở tầng bình lưu sẽ tiêu hao hàng chục vạn
tấn xăng dầu chúng sẽ thải ra một lượng lớn oxit nitơ, có thể phá
hoại 10% khí ôzon.
C-Thách thức thứ ba: Hiệu ứng nhà kính đang gia tăng:
Hiệu ứng nhà kính diễn ra khi khí quyển chứa khí đã hấp thụ tia cực
quang. Khi hơi nóng từ mặt trời vô Trái Đất đã bị giữ lại ở tầng đối
lưu, tạo ra hiệu ứng nhà kính ở bề mặt các hành tinh hoặc các Vệ
tinh. Cơ cấu hoạt động này không khác nhiều so với một nhà
kính (dùng để cho cây trồng) thiệt, điều khác biệt là nhà kính (cây
trồng) có các cơ cấu cách biệt hơi nóng bên trong để giữ ấm không
phải qua quá trình đối lưu. Hiệu ứng nhà kính được khám phá bởi
nhà khoa học Joseph Fourier vào năm 1824, thí nghiệm đầu tiên có
thể tin cậy được là bởi nhà khoa học John Tyndall vào năm 1858, và
bản báo cáo định lượng kĩ càng được thực hiện bởi nhà khoa
học Svante Arrhenius vào năm 1896. Một ví dụ về Hiệu ứng nhà kính
làm cho nhiệt độ của không gian bên trong của một nhà trồng cây
làm bằng kính tăng lên khi Mặt Trời chiếu vào. Nhờ vào sức ấm này
mà cây có thể đâm chồi, ra hoa và kết trái sớm hơn. Ngày nay người
ta hiểu khái niệm này rộng hơn, dẫn xuất từ khái niệm này để miêu tả
hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất được Mặt
Trời chiếu sáng là hiệu ứng nhà kính khí quyển. Trong hiệu ứng nhà
kính khí quyển, phần được đoán là do tác động của loài người gây ra
được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại (gia tăng). Hiện này thế kỷ
thứ 21 loài người đang phải đối mặt với tình trạng ấm lên do con

người gây ra, tuy nhiên vấn đề vẫn đang được tranh cãi, gây ra nhiều
tác hại nguy hiểm.
D-Thách thức thứ tư: Tài nguyên bị suy thoái:
Trên trái đất chúng ta có 1,4 triệu loài sinh vật nhưng hiện nay đều
đang bị đe dọa nghiêm trọng. Rừng nhiệt đới mất 17.000 loài/
năm.Chim, thú bị tiêu diệt gấp 100-1.000 lần tự nhiên
Nguyên nhân:
mất nơi sinh sống;
con người săn bắt quá mức để ăn, để bán
môi trường bị ô nhiễm nặng;
du nhập nhiều giống ngoại lai.
E-Thách thức thứ năm: Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy
mô rộng.
Ô nhiễm nguồn nước:
Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia tăng do thiếu biện
pháp xử lý cần thiết các loại rác thải sinh hoạt và công nghiệp; do
các hóa chất dùng trong nông nghiệp và các nguồn nhiễm xạ, nhiễm
bẩn từ các nguyên vật liệu khác dùng trong sản xuất; ô nhiễm do các
loài thực vật nổi trên mặt nước sinh sôi mạnh làm động vật biển chết
hàng loạt do thiếu ô xy. Một vài loài thực vật nổi còn có thể sinh ra
độc tố nguy hiểm cho hệ động vật và cả con người; ô nhiễm do khai
thác đáy biển lấy dầu khí và các loại khoáng sản quí hiếm khác; ô
nhiễm còn do các chất thải trong thiên nhiên (ước tính mỗi năm có
hơn 60 vạn tấn chất thải từ không trung rơi xuống nhất là chất hydro
các bua từ khí quyển - gọi là mưa khí quyển).
Hiện nay, có từ 40-50% lưu lượng ổn định của các dòng sông trên
quả đất bị ô nhiễm. Độ ô nhiễm nguồn nước trên thế giới có thể tăng
10 lần trong vòng 25 năm tới. Bên cạnh đó, theo ước tính của giới
khoa học thì, ước tính có khoảng 96,5% nước trên quả đất là nước
mặn nằm trong các đại dương. Chỉ có 2,53% tổng lượng nước là

nước ngọt có thể dùng được cho trồng trọt và sinh hoạt của con
người. Thế nhưng nhu cầu tiêu dùng nước sạch ngày càng tăng
nhanh do sự gia tăng dân số và yêu cầu phát triển sản xuất. Có thể
nói, sau nguy cơ về dầu mỏ, loài người đã, đang và sẽ phải đối mặt
với nguy cơ phổ biến là thiếu nguồn nước sạch cần thiết để duy trì và
phát triển đời sống kinh tế - xã hội của mình.
Không chỉ ô nhiễm nước ngọt mà ô nhiễm biển và đại dương cũng là
điều đáng quan tâm:
Ước tính đến năm 2000, tổng lượng chất phóng xạ có trong đại
dương sẽ tăng nhiều lần so với năm 1970, trong đó các chất thoát
biến và chất phóng xạ sẽ tăng lên 100 lần, chất triti (hidro siêu nặng)
sẽ tăng 1000 lần.
Lượng dầu do đắm tàu, rò rỉ trong vận chuyển và phun ra từ giếng
khai thác vào các đại dương từ 5 - 10 triệu tấn/năm, số dầu do các xí
nghiệp công nghiệp thải từ 3 - 5 triệu tấn.
Các hợp chất hữu cơ, kim loại nặng, các nguồn chất thải từ đất liền
đã gây ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Biển Ðông cũng đang nằm trong tình trạng chung như các đại
dương và biển khác.
Hiện nay, ước tính có trên 1/2 quốc gia và khu vực trên thế giới đang
bị thiếu nước với các mức độ khác nhau, trong đó có khoảng 50
quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Có tới 80% bệnh tật liên quan trực
tiếp do nguồn nước bị nhiễm bẩn, mỗi năm có 25 triệu trẻ em đã chết
vì dùng nước không sạch.
Chuyển dịch ô nhiễm
Theo tài liệu về qui hoạch môi trường của LHQ, mỗi năm toàn cầu
có 500 triệu tấn rác thải nguy hại, trong đó có 98% là của các nước
phát triển. Việc một số nước phát triển chuyển dịch công nghệ lạc
hậu và các chất thải dưới nhiều hình thức khác nhau sang các nước
đang phát triển là một thực tế cần được chú trọng.

Ô nhiễm đất
Trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng hiện tượng đất bị ô
nhiễm, bởi: một là, do con người quá lạm dụng hoặc do tác động phụ
của việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ và các
chất kích thích sinh trưởng khác. Mỗi năm, trên thế giới có hàng
nghìn hóa chất mới được đưa vào sử dụng trong khi con người vẫn
chưa hiểu biết hết tác động phụ của chúng đối với hệ sinh vật. Hai là,
không xử lý đúng kỹ thuật các chất thải công nghiệp và sinh hoạt
khác của người và súc vật, hoặc các xác sinh vật chết gây ra Ô
nhiễm đất làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng, hủy diệt sự
sống một số sinh vật trong những khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời
còn đe dọa đến sức khỏe con người thông qua vật nuôi, cây trồng,
thậm chí gây ra những biến dạng sinh thái và di truyền nặng nề cho
hệ sinh sống.
Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ, bức xạ, sự
mất ổn định về khí hậu đều gây hại trực tiếp và lâu dài đến sức
khỏe và di truyền của sinh vật, thực vật sống, trong đó có con người.
Hậu quả sẽ thật khủng khiếp và khó lường. Những tổn thất về con
người và vật chất do môi trường suy thoái gây ra đã và đang vượt
quá tổn thất về người và của do các biến động xã hội và từ chiến
tranh.
F-Thách thức thứ sáu: Sự gia tăng dân số
Dẫn tới sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất
do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu
nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp v.v
Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của
môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp.
Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu
đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái

nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không
đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không
khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong
đô thị ngày càng khó khăn.
G-Thách thức thứ bảy: Sự suy giảm tính đa dạng sinh học
Sự hình thành sự khai thác quá mức bao gồm các nhu cầu về hàng
hoá như gỗ, động vật hoang dã, sợi, nông sản. Dân số loài người
tăng, thậm chí không đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển,
đã đưa đến sự gia tăng các nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên và các
quá trình của hệ sinh thái.Các chính sách định cư khuyến khích việc
di chuyển những lao động hiện đang thất nghiệp lên vùng biên
giới.Các khoản nợ đã buộc chính phủ khuyến khích việc sản xuất các
hành hoá có thể trao đổi ở nước ngoài.Tại nhiều quốc gia, chính
sách năng lượng đã đưa đến nhiều việc làm không hiệu quả, thêm
vào đó là ảnh hưởng của ô nhiễm không khí và những nguy cơ biến
đổi khí hậu toàn cầu.Sự phân chia sở hữu đất không hợp lý đã không
khuyến khích người nông dân đầu tư vào việc sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên sinh vật có giá trị.
Theo thống kê của tổ chức bảo tồn sinh học trên thế giới: Có khoảng
10 triệu loài sống trên trái đất, theo ước lượng chính xác nhất, và
rừng nhiệt đới có từ 50 đến 90% tổng số. Khoảng 17 triệu hecta rừng
nhiệt đới, một diện tích gấp 4 lần kích cỡ của Thuỵ Sỹ, đã bị phá huỷ
hàng năm, và các nhà khoa học ước tính là với tốc độ này khoảng 5 -
10% các loài ở rừng nhiệt đới có thể phải đối mặt với sự tuyệt chủng
trong vòng 30 năm nữa .
Để giảm bớt phần nào các thách thức của môi trường, đứng ở góc
độ quản lý nhà nước và trong phạm vị nước ta, Nhà nước có thể có
các biện
pháp sau:
- Giáo dục ý thức cho nhân dân về sự suy thoái của môi trường để

nhân dân tự giác tham gia vào hoat động bảo vệ môi trường ;
- Giáo dục trong nhân dân lối sống và đạo đức “ tôn trọng và quan
tâm đến cuộc sống công đồng”, tạo ý thức chia sẻ công bằng những
phúc lợi và chi phí trong việc sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi
trường giũa các cộng đồng, giữa những con người, giữa thế hệ
chúng ta và thế hệ mai sau;
- Nâng cao dân trí, tiến hành các biện pháp để tất cả mọi người hiểu
rằng khả năng chịu đựng được của trái đất không phải là vô hạn. cần
có chương trình giáo dục trong trường học từ mẫu giáo đến đại học
để mọi người ý thức được rằng” nếu con người có hành vi đúng
đắn với môi trường thiên nhiên thì tất nhiên con người sẽ được tận
hưởng những vẻ đẹp của thiên nhiên và chính bản thân thiên nhiên
sẽ phục vụ lợi ích con người tốt hơn, lâu bền hơn. Nhưng nếu con
người có thái độ tàn nhẫn với thiên nhiên thì lúc đó con người sẽ gặp
những bất hạnh do chính bản thân mình gây ra”
- Nhà nước ban hành các qui định xử phạt mạnh mẽ đối với các
hành vịxâm hại môi trường sống.
- Tích cực tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế quan
trọng về môi trường như công ước luật biển, công ước bảo vệ tầng
ozôn, công ước RAMSAR.
-Xây dựng chiến lược lâu dài bảo vệ môi trường như chiến lược sử
dụng nước ngầm. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm tài
nguyên không tái tạo. quản lý thống nhất phát triển dân số và tiêu
dùng tài nguyên. Giảm bớt tiêu dùng quá mức và lãng phí tài nguyên.
-Thành lập các ban bảo vệ môi trường trung ương để phối, kết hợp
hài hòa giữa các địa phương trong việc bảo vệ môi trường như Ban
quản lý lưu vực sông.
-Điều tra nguồn tài nguyên quốc gia, xây dựng chiến lược, qui hoạch,
kếhoạch về huy động các nguồn tài nguyên khai thác.
-Dự báo và phòng tránh các thiệt hại do môi trường gây ra như dự

báo bão.
Và,
Ðể bảo vệ môi trường, cần nghiêm cấm các hành vi sau đây:
Ðốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại
môi trường, làm mất cân bằng sinh thái;
Thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát
phóng xạ, bức xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh;
Thải dầu, mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho
phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn
độc hại và gây dịch bệnh vào nguồn nước;
Chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép;
Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm trong
danh mục quy định của Chính phủ;
Nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường,
nhập khẩu, xuất khẩu chất thải;
Sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ huỷ diệt hàng loạt
trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật, thực vật.
Đã đến lúc bảo vệ môi trường không chỉ dừng lại ở ý thức hay hiểu
biết của từng người dân, từng doanh nghiệp mà nó phải trở thành
hành động cụ thể dù phải trả giá bằng công sức, tiền của và thậm chí
phải xử lý hình sự các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về môi
trường./

×