I. Phần mở bài
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc
phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được pháp luật
quy định trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được
Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Văn bản quy
phạm pháp luật là loại văn bản giúp Nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã
hội, muốn quản lý xã hội đạt hiệu quả cao hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật bên cạnh việc phải đáp ứng tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi thì yêu
cầu cần phải đảm bảo tính công khai, minh bạch của hệ thốngvăn bảnquy phạm
pháp luật là một yêu cầu cần thiết. Văn bản quy phạm pháp luật phải công khai
hóa và minh bạch hóa trong cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng như
các giai đoạn từ lập chương trình xây dựng Luật, tới giai đoạn soạn thảo,
thẩmtra, thầm định dự thảo văn bản tới việc thông qua, ban hành công bố văn
bản, tất cả đều phải công khai, rõ ràng đáp ứng được yêu cầu minh bạch và
công khai để văn bản quy phạm pháp luật thực hiện vai trò quản lý xã hội theo
định hướng của Nhà nước đạt hiệu quả
II. Phần nội dung
1. Khái niệm
Công khai, minh bạch của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luậtlà một
nguyên tắc cơ bản, quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế, là đòi hỏi của
hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng và của hệ thống pháp luật của bất kỳ một nước nào trên thế
giới nói chung nếu các quốc gia đó muốn hội nhập một cáchbình đẳng vào sân chơi của
nền kinh tế quốc tế
Văn bản quy phạm pháp luật là một loại văn bản đặc thù thể hiện ý chí của chủ
thể banhành, có ý nghĩa bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp đa dạng trong đó có cưỡng chế nhà nước. Khác với các văn bản cá biệt
văn bảnquy phạm pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung, làm phát sinh,
1
thay đổi các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
tương ứng.Vì vậy, để một văn bản quy phạm pháp luậtcó hiệu lực bên cạnh
những yêu cầu, tiêu chí cơ bản như tính hợp hiến, hợp pháp thì yêu cầu về việc
đảm bảo tính công khai,minh bạch
Tính công khai của văn bản quy phạm pháp luậtlà việc mọi người được biết về nội dung văn bản quy
phạm pháp luật đó, văn bản quy phạm pháp luật công khai cho mọi người được biết, đảm bảo cho
mọi người được quyền tiếp cận các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đó. Do đó, khi
một văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo được yêu cầu công khai tức là văn
bản quy phạm pháp luật đó đã đáp ứng được yêu cầu mà chức năng quản lí xã
hội đặt ra.
Tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp luậtchính là tính rõ ràng, rành
mạch, thông suốt, tính đúng đắn của cả hệ thống cảc văn bản quy phạm pháp
luật, cách hiểu khác lại cho rằng tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm ba yêu cầu là: tính rõ ràng, tính ồn định và tính có thể dự đoán
trước. Văn bản quy phạm pháp luật chính là những yêu cầu về tính rõ ràng, rành
mạch, tính đúng đán, công khai cho mọi người được biết, được quyền tiếp cận,
ai cũng có thể biết
Như vậy một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ được xem là đảm bảo
yêu cầu công khai, minh bạch nếu các quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật ấy đảm bảo tính rõ ràng, tính rành mạch dễ hiểu đồng thời các văn
bản quy phạm pháp luật đó phải được công khai cho mọi người cùng biết và nắm
bắt được các quyền, nghĩa vụ của mình để tuân thủ nghiêm túc và thực hiện
theo các quy định của các văn bản
2. Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật hiện nay
Như chúng ta đã biết trong bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào thi yêu cầu về
việc đảm bảo tính minh bạch, công khai là một yêu cầu rất quan trọng và cần
2
thiết. Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Kiểm toán Nhà nước, kết quả kiểm toán,
Luật Kế toán, Luật Đấu thầu đều có những quy định về việc đảm bảo công khai,
minh bạch. Đây là những quy định tiến bộ, góp phần bảo đảm tính công khai,
minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hoặc ngay trong hoạt động
củaTòa án, việc xét xử của Tòa án phải được tiến hành công khai, mọi người
đều có quyền tham dự, Tòa án chỉ xét xử kín trong một số trường đặc biệt
nhưng bản án cùa Tòa án phải được đọc công khai cho mọi người cùng nghe.
Trong việc ban hành văn bản pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thể hiện xuyên suốt tính công khai minh bạch, dân chủ trong quá trình xây dựng
pháp luật, đảm bảo quyền được thông tin cùa công chúng
Công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật nói chung cũng như trong xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là việc được hết sức quan tâm chú
trọng. Việc công khai, minh bạch từ khâu soạn thảo cho đến khâu ban hành
không những giúp cho người dân sớm biết được định hướng chính sách, pháp
luật trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện, mà còn là một
trong những kênh để người dân có thể tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế,
làm cho pháp luật phản ánh được sát hơn ý chí, nguyện vọng của nhân dân... Đây
cũng là một nội dung quan trọng nhằm thực hiện phương châm dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra đã được đề ra trong nhiều văn kiện của Đảng. Đồng thời,
cũng là để thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).
Trong một Nhà nước pháp quyền, một quốc gia dân chủ yếu cầu đặt ra đối với
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không thể thiếu được tính công khai,
minh bạch, sự tham gia của công chúng trong hoạch định chính sách pháp luật
là một vấn đề cần thiết. Yêu cầu dân chủ hóa, công khai hóa và minh bạch hóa
trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là hợp lý và trước hết đó là đòi hỏi
trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Việt Nam hiện
3
nay.
Hiện nay, có thể nhận thấy hệ thống văn bản quy phạm pháp luậthiện nay nhìn
chung đã đáp ứng nhu yêu cầu công khai, minh bạch, các văn bản quy phạm
pháp luật đảm bảo được yêu cầu về tính rõ ràng, rành mạch và công khai đối
với mọi người dân, phù hợp với các quy định trong luật. Trên góc độ đảm bảo
tính công khai, minh bạch của hệ thống văn bảnquy phạm pháp luật đã đạt được
những thành tựu đáng kể và còn có nhưng hạn chế nhất định.
Ta có thể nhận thấy trong những năm gần đây, hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luậtđược xây dựng và ban hành đã thể hiện được tính công khai,
minh bạch. Phần lớn các dự luật quan trọng đều đã được đưa ra lấy ý kiến rộng
rãi của nhân dân như: Các bản Hiến pháp, các Luật và Bộ luật lớn có tác động
trực tiếp đến đại bộ phận dân cư trong xã hội như: Bộ luật Dân sự năm 2005;
Bộ Luật Lao động năm 2004; Luật Hôn Nhân và gia đình năm 2000; Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004...,trong các đạo luật
này việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi nhân dân đã được thực hiện như một công
đoạn bắt buộc của quy trình làm luật. Ngoài ra, luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008 đã đề ra nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật chi tiết, cụ thể, rõ ràng, công khai và ngôn ngữ trong văn bản
quy phạm pháp luật phải chính xác phổ biến dễ hiểu để các đối tượng có liên
quan có thểhiểu và xác định được quyền và nghĩa vụ của mình đây là một trong
những yếu tố góp phần đảm bảo tính rõ ràng, rành mạch dễ hiểu cho hệ thống
văn bảnquy phạm pháp luật.Việc quy định như vậy tạo điều kiện cho bất kì người dân nào
cũng có thể hiểu một cách dễ dàng, hiểu đúng , thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, qua đó các
đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật đó có thể biết mình được pháp luật cho phép
làm gì không được làm gì, tránh việc công dân vi phạm pháp luật vì không biết rõ pháp luật hiện
hành.
Không chỉ vậy trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì giai
đoạn thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được coi là một
4
khâu quan trọng của quy trình làm luật, với các quy định đảm bảo tính rõ ràng,
dễ hiểu của các văn bản quy phạm pháp luậtcó thể thấy được vai trò thẩm định,
thẩm tra dự án các văn bản quy phạm pháp luật. Ta nhận thấy việc thẩm định
thẩm tra ban hành văn bản sẽ đảm bảo được tính thống nhất, đồng bộ, đảm bảo
trật tự hiệu lực của hệ thống pháp luật, tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo
của các văn bản quy phạm pháp luật. Đây cũng chính là một quy định cho thấy
vai trò của việc thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong
việc đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó
cũngđể đảm bảo tính công khai minh bạch của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật thì việc đăng công báo cũng được coi là một giai đoạn bắt buộc của
văn bản đó. Khoản 2 Điều 78 luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn
bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi
hành...”. Việc đăng công báo tạo cho mọi công dân có điều kiện biết được quy
định mới của văn bản nhằm tạo cho mọi người biết được quyền và nghĩa vụ của
mình để thực hiện cho đúng với pháp luật. Như vậy có thể nhận thấy việc đăng
công báo là việc hết sức quan trọng nhằm để đảm bảo công khai minh bạch cho
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ thời
điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định ngay
trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày , kể từ ngày công bố hoặc ngày
ban hành để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời gian chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để thực hiện (đoạn 1 khoản 1 Điều 78 của Luật). Bên cạnh đó, Luật
quy định trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong
thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành,
phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo; trách nhiệm của cơ
quan Công báo phải đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo
chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản (khoản 2 Điều 78
5