Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

so sánh khái niệm văn minh Việt Nam và khái niệm văn hóa Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.11 KB, 15 trang )

I. MỞ BÀI
Việt Nam là một đất nước hình thành hơn bốn nghìn năm lịch sử, trong
quá trình hình thành và phát triển của mình đất nước Việt Nam đã tạo nên cho
mình một nềm văn hóa riêng mang đậm nét văn hóa Đông Nam Á. Bên cạnh đó
nề văn minh Việt Nam cũng phát triển không ngừng qua bao tiến trình lịch sử.
Nhưng không ít người nhầm lẫn giữa hai khái niệm này và đôi lúc sử dụng hai
khái niệm này như một từ dồng nghĩa. Để hiểu rõ hơn về hai khái niệm đó
chúng ta đi vào so sánh khái niện văn minh Việt Nam và khái niệm văn hóa
Việt Nam.
II. NỘI DUNG
1, Định Nghĩa
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tiếng Việt, văn
hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối
sống ; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ phát triển của một giai đoạn …Hay nghĩa
rộng thì văn hóa gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín
ngưỡn phong tục, lỗi sống, lao động…Nhưng có thể xác định 4 đặc trưng cơ
bản cảu văn háo ta có thể tộng hợp lại để nêu ra một khái niệm văn hóa như
sau:
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình lao động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến
để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn
minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con
người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch
với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu. Khái niệm văn minh chỉ mang tính
tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà không có giá trị tuyệt đối.
1
Có thể định nghĩa như sau: Văn Minh là một phần của Văn Hóa, đặc biệt
là tình trạng tiến bộ của con người trong phạm vi kỹ thuật và những cải tiến đời
sống vật chất.


2, sự khác nhau cơ bản của văn hóa và văn min
Văn minh thể hiện “ trình độ phát triển”. Trong khi văn hóa luôn có bề
dày quá khứthì văn minh là một lát cắt đồng đại.
Sự khác biệt của văn hóa và vănn minh về giá trin tinh thầnvaf tính lịch
sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: văn hóa mang tính dân tộc còn văn m inh
mang tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại,
bở lẽ các vật chất thì dễ phôe biến lây lan.
Sưh khác biệt về nguồn gốc thể hiện ở: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với
phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương tây đô
thị
3, Nhứng nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam.
Nói theo ngôn ngữ chủng học, Việt Nam là một trong những cái nôi loài
người, thì nền văn minh Việt Nam cũng là nền văn minh cổ nhất thế giới nói
chung và Châu Á nói riêng. Danh xưng Lạc Việt, Đại Việt và Đại Nam biểu
trưng ba sắc thái đặc biệt của nền văn minh Việt Nam, trải qua ba thời kỳ dài
hơn bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc.
Cần phân tích những nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam trong ba
thời kỳ nói trên để thấy rõ nó là một thực thể khác biệt với các nền văn minh
khác, nhất là các nền văn minh mà nó có liên hệ, gần gũi như văn minh Chàm,
văn minh Trung Quốc.
Nền văn minh Lạc Việt (từ khởi thủy đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên)
xuất hiện với tất cả vẻ rực rỡ huy hoàng của một nền văn minh nông nghiệp mà
đỉnh cao là ở thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ đồng thau phát triển (thời kỳ Đông
Sơn).
2
Nói thời kỳ Hùng Vương là thời kỳ tiêu biểu của nền văn minh Lạc Việt
bởi vì nó mang tính chất khai sáng ở tất cả các mặt.
Về mặt kinh tế xã hội, nghề nông trồng lúa nước là cơ sở phát khởi cho
mọi nguồn sinh hoạt. Trên cơ sở đó, ý thức xây dựng và bảo vệ đời sống phát
triển. Ngành thủ công nghiệp ở thời kỳ Hùng Vương đã để lại nhiều công trình

độc đáo về đồ đồng (lưỡi cầy cuốc, rìu, vũ khí như đao, tên, mũi lao, các loại
chậu, thạp, ... và điển hình nhất là trống đồng), đồ sắt (như cuốc, rìu, mai, vũ
khí như kiếm, giáo), đồ gốm (đồ đựng và đun nấu như nồi, vò, bình chậu, bát
đĩa ...), đồ đá (dụng cụ sản xuất như rìu, lưỡi đục, chày, bàn mài), đồ trang sức
bằng đá (như vòng đeo đủ kiểu), đồ gỗ (vũ khí như lưỡi giáo). Các nghề cũng
khá phát triển như nghề sơn, nghề xe sợi kết vải (bằng bông, đay, gai), nghề
đan lát (bằng tre nứa). Riêng về trống đồng là những tác phảm tập trung nhiều
tài năng về kỹ thuật, mỹ thuật và khoa học, đáng kể là trống đồng Ngọc Lũ và
Hoàng Hạ.
Làng xã là ý thức sơ khởi của tổ chức xã hội, trong đó gia đình phụ hệ là
nền tảng. quyền tư hữu tài sản về ruộng đất cũng đã manh nha trong buổi đầu.
Tất cả cơ bản của nền văn minh nông nghiệp ấy đã tồn tại hàng ngàn năm sau.
Về mặt văn hóa, những gì còn tồn tại đến nay và còn được gọi là truyền
thống dân tộc cũng phát xuất từ thời Hùng Vương như tín ngưỡng (thờ thần),
phong tục (hôn nhân, tang lễ), hội lễ (hội hè đình đám ngày xuân) ...
Nền văn minh Đại Việt kế tiếp (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18), biểu hiệu ở
tất cả các mặt những đặc điểm của một dân tộc đã trưởng thành sau một nghìn
năm khổ nhục vì ách Bắc thuộc. Những ý thức và khả năng xây dựng đời sống
toàn thiện đã lắng chìm trong giấc ngủ nghìn năm ấy để bừng dậy với tất cả sức
sống mãnh liệt của dân tộc ở thời kỳ độc lập.
Vì vậy, nền văn minh Đại Việt biểu dương ở nhiều mặt và có tính chất
phong phú toàn diện.
Ở thời kỳ này, chế độ quân chủ đã được thành lập và tổ chức xã hội dựa
trên sự cấu tạo của bốn tầng lớp: sĩ, nông, công, thương. Tuy nông nghiệp đặt
3
xuống hàng thứ yếu nhưng không chính quyền nào chối bỏ vai trò quan trọng
của nông nghiệp đối với sự tồn tại của xã hội, đã ban hành nhiều chính sách,
chủ trương nhằm bảo vệ, cải tiến nông nghiệp và hiệu năng hóa sản xuất.
Khuôn khổ gia đình đã mở rộng thành gia tộc. Xã thôn vẫn là đơn vị tự
trị, nhưng còn phải đóng vai trò liên hệ trong toàn bộ. cơ cấu xã hội, đó là quốc

gia. và ý thức quốc gia bắt đầu nẩy nở thành sức mạnh tinh thần của dân tộc.
Do đó, dân tộc Đại Việt đã hiên ngang đứng lên đánh đuổi những thế lực
cường bạo bao lần muốn xâm chiếm lãnh thổ của mình. Có thể ghi nhận những
võ công của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã
làm rạng danh quốc gia Đại Việt.
Khi xã hội phát triển thì các tổ chức nhằm củng cố xã hội cũng trở nên
phức tạp. Quan chế, binh chế, pháp chế được thiết lập. Nét tiêu biểu của nền
văn minh Đại Việt được biểu lộ khá rõ về mặt pháp chế, nhất là dưới triều Lý
và triều Lê.
Dưới triều Lý, bắt đầu có pháp luật thành văn với bộ Hình Thư, quy định
các hình phạt về tội thập ác (hình luật) và chỉ dụ của nhà vua về việc mua bán,
tranh tụng ruộng đất (hộ luật). Người phạm tội, trừ khi phạm tội thập ác, được
lấy tiền chuộc tội. Do ảnh hưởng Phật Giáo, pháp luật triều Lý mang nhiều tính
chất đặc biệt như: tôn trọng nhân quyền, áp dụng chính sách cải quả đối với tội
nhân ...
Dưới triều Trần, có bộ Quốc Triều Hình Luật quy định ba hạng tội nặng:
tội đồn, khắc chữ vào trán và bắt cày cáy công điền; tội lưu, đày đến châu Ác
Thủy (Quảng Yên); tội tử, bị chém. Pháp luật triều Trần nghiêm khắc hơn cả.
Dưới triều Lê, có bộ Luật Hồng Đức, mang nhiều tính chất dân tộc, phù
hợp với điều kiện xã hội và tôn giáo, tiến bộ về mặt kỹ thuật pháp lý, nên ảnh
hưởng còn tồn tại đến ngày nay.
Đa số luật pháp ở thời kỳ này chú trọng nhiều về hình luật, ít chú trọng
về hộ luật và dân luật.
4
Về mặt chính trị xã hội, Hồ Quý Ly đã có những công cuộc cách mạng
quốc gia tiến bộ và đi trước thời đại.
Về phong tục, dân Đại Việt đã có những cung cách trang nhã trong đời
sống, các tập quán, lễ nghi thuần hậu.
Về tín ngưỡng, đã có một sự hòa đồng kỳ diệu giữa ba tôn giáo Nhọ
Phật, Lão và sự hòa đồng này có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần

của dân Việt.
Khi đất nước độc lập thì văn tự cũng được hình thành một lối riêng, chữ
nôm là một sáng tạo của dân tộc để diễn đạt tư tưởng của mình. Vì vậy, có triều
đại muốn bảo vệ nền độc lập tư tưởng đã khuyến khích sử dụng văn nôm như
triều Hồ, tây Sơn.
Đặc sắc của nền văn minh Đại Việt, về mặt văn học là đã phát triển song
song hai bộ phận: văn học truyền khẩu và văn học thành văn. Hiếm thấy trên
nền văn học thế giới một nền văn học truyền khẩu như của Đại Việt, rất phong
phú ở nhiều phương diện: truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, ca dao. Về văn
học thành văn, có thể nói đó là một nền văn học bác học bởi đã tập trung nhiều
khối óc lớn và bao gồm các ngành như Lê Quý Đôn (văn học), Ngô Sĩ Liên (Sử
Học), những ngọn bút tài hoa (văn chương) như Đặng Trần Côn (Tác giả Chinh
Phụ Ngâm Khúc), Đoàn Thị Điểm (dịch giả chinh Phụ Ngâm), Nguyễn Gia
Thiều (tác giả Cung Oán Ngâm Khúc). Các thể văn được sáng tạo thích hợp với
ngôn ngữ Việt giàu âm điệu là thể lục bát và song thất lục bát.
Về các ngành nghệ thuật, tranh mộc bản Việt là một loại tranh dân gian
mang tính chất dân tộc độc đáo, cũng như một số nhạc khí dân tộc, tiêu biểu là
đàn Bầu (một dây).
Trong kịch nghệ, có loại hát chèo mang nhiều ưu điểm và tính chất dân
tộc rõ rệt.
Về khoa học, dù là một nền khoa học kinh nghiệm, Đại Việt cũng đã có
những nhân tài về y học như Tuệ Tĩnh với khoa y dược dân tộc, Hải Thượng
Lãn Ông với khoa đông y. Về thiên văn như Trần Nguyên Hãn soạn sách
5
nghiên cứu thiên văn và lịch pháp. Đặng Lộ chế ra dụng cụ xét nghiệm thiên
tượng. Hồ Nguyên Trừng chế ra súng hỏa mai.
Qua đến thế kỷ 19, xã hội Việt Nam lại biến chuyển và khai sinh một nền
văn minh mới, văn minh Việt Nam, trong buổi đầu mang tinh thần văn hiến Đại
Nam, đến thời Pháp thuộc tính chất Việt Nam mới nẩy sinh.
Ở thời kỳ này, công cuộc khẩn hoang lập ấp và dinh điền là một chính

sách kinh tế mới, cũng như nội thương và ngoại thương là hai mặt phát triển
của ngành thương mãi quốc gia.
Các công cuộc mở mang lớn được thực hiện: đường sá, cầu cống, kênh
ngòi, kho vựa, thành phố, thương cảng ...
Vua Gia Long là người đã có ý thức canh tân xứ sở theo đường lối Tây
Phương. Dưới triều vua này đã có một quân lực hùnhg mạnh nhất ở bán đảo
Đông Đương. Chính vua Gia Long đã thấy trước được Nhật Bản 60 năm là
khoa hoc. Tây Phương có thể giúp cho nước nhà chóng phát triển và ông đã
dùng những người Tây Phương ở bên cạnh như là những cố vấn kỹ thuật. Ông
cũng đã khuyên ngăn con là vua Minh Mạng nên hậu đãi người Âu (đặc biệt là
Pháp), song không cho họ một đặc quyền gì, nhưng đáng tiếc là vua này không
nghe lời khuyên ấy, cũng như các vua về sau, nhất là Tự Đức không lưu ý đến
các đề nghị cải cách quốc gia của Nguyễn Trường Tộ với những ý kiến sáng
suốt là hoài bão, là ý chí, niềm tin của người Việt thiết tha với tiền đồ xứ sở và
là tấm gương muôn đời cho hậu thế. Tinh thần Nguyễn Trường Tộ về sau, trong
thời kỳ Pháp thuộc đã biểu lộ ở các hoạt động của phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục (duy tân) và rộng ra ở tất cả mọi hoạt động cách mạng của
các chí sĩ yêu nước.
Một biện pháp cải tạo xã hội tốt đẹp ở thời kỳ này là vấn đề cứu tế xã hội
để chống nghèo đói và bệnh tật của các tầng lớp nhân dân.
Đặc điểm của thời kỳ văn hiến Đại Nam là kho tàng văn học, chữ Hán,
chữ Nôm và ở thời kỳ Pháp Thuộc là chữ quốc ngữ. Đáng lưu ý là Phan Huy
Chú với bộ Lịch Triều Hiến Chương, một bộ bách khoa toàn thư có giá trị lớn.
6

×