Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Cơ sở lí luận về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.84 KB, 9 trang )

BÀI TẬP NHÓM CHUYÊN ĐỀ 5
Nhóm thực hiện: Nhóm 2. CH18 - Luật Dân sự.
Đề bài tập:
Cơ sở lí luận về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
của cá nhân.
Giải quyết vấn đề:
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều
24 BLDS).
Một xã hội càng tiến bộ, phát triển bao nhiêu thì quyền nhân thân của cá
nhân càng được pháp luật tôn trọng và mở rộng bấy nhiêu. Cùng với sự phát
triển của đất nước, quyền nhân thân của cá nhân cũng ngày càng được công
nhận và bảo vệ cao hơn trong pháp luật Việt Nam. Từ BLDS 1995 đến BLDS
2005, pháp luật đã mở rộng thêm quyền nhân thân của cá nhân từ 20 quyền
lên thành 26 quyền nhân thân. Trong các quyền nhân thân được bổ sung có
quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân được ghi nhận
tại Điều 33 và 34 BLDS 2005. Quyền này cũng đã được cụ thể hóa tại Luật
Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân thuộc
nhóm quyền nhân thân thể hiện sự tự do của cá nhân. Việc ghi nhận quyền
này trong BLDS 2005 là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với xu thế phát triển
chung của xã hội hiện đại, đáp ứng đòi hỏi của lí luận và thực tiễn.
1. Khái niệm quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của
cá nhân.
Điều 33 BLDS 2005 quy định như sau:
“Cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích chữa
bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.
1
Việc hiến và sử dụng bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của
pháp luật.”
Điều 34 BLDS 2005 quy định như sau:


“Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục
đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện
theo quy định của pháp luật.”
Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
năm 2006 quy định:
Khoản 1: Mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hay nhiều loại khác
nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người.
Khoản 2: Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành
từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định.
Khoản 6: Hiến mô, bộ phận cơ thể người là việc cá nhân tự nguyện hiến
mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc sau khi chết.
Điều 5 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
năm 2006 quy định:
“Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến
xác.”
Như vậy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến mô, bộ
phận cơ thể và hiến xác. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước
ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý
cũng như về mặt pháp lý, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có
thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định
theo quy định của pháp luật.
2. Cơ sở lí luận của quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
của cá nhân.
2
Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá
nhân trọng BLDS 2005 không chỉ đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xã hội mà
còn phù hợp với các quan điểm lí luận về quyền con người nói chung và
quyền nhân thân nói riêng, đồng thời không đi ngược lại truyền thống văn

hóa, đạo đức của dân tộc. Việc ghi nhận quyền này xuất phát từ những cơ sở
lí luận sau đây:
2.1. Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
của cá nhân xuất phát từ nhu cầu về việc ghi nhận và mở rộng hơn nữa
quyền tự do của con người trong xã hội hiện đại.
2.1.1. Lí luận về quyền tự do của con người.
Tự do của con người là khả năng của con người có thể hành động theo
đúng ý chí, nguyện vọng của mình, trên cơ sở nhận thức được quy luật của tự
nhiên và xã hội. Tự do của con người là sản phẩm của lịch sử. Có thể nói, lịch
sử nhân loại thực chất là một cuộc kiếm tìm tự do. Mỗi bước tiến của xã hội
là một bước tiến tới tự do rộng hơn.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhu cầu đảm bảo và
mở rộng hơn nữa các quyền tự do của con người đang ngày càng gia tăng.
Con người chỉ thực sự tự do khi được đảm bảo đầy đủ các quyền con người.
Và quyền con người cũng chỉ được bảo vệ một cách toàn diện khi nó được
pháp luật ghi nhận.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền con người, quyền của cá
nhân trong đó có quyền nhân thân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Một xu hướng đang diễn ra phổ biến
hiện nay là các giá trị nhân thân ngày càng được đề cao và được ghi nhận
ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế. Sở
dĩ như vậy vì xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội càng đa dạng, phức
tạp, nhu cầu của con người cũng ngày một tăng lên cả về vật chất và tinh thần,
đặc biệt là nhu cầu về tinh thần.
3
Vì vậy, việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
của cá nhân chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của
các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên, cũng
cần lưu ý là quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, quyền hiến của cá nhân
không phải là quyền tự do tuyệt đối, không có giới hạn. Việc hiến mô, bộ

phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân cần phải được thực hiện trong
khuôn khổ của pháp luật.
Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác trong
BLDS 2005 đã mở rộng quyền tự do của con người. Con người có quyền tự
do định đoạt việc hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống và hiến mô, bộ
phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết. Việc ghi nhận này là hoàn toàn cần
thiết, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, quyền này
không phải là tuyệt đối mà phải tuân theo quy định của pháp luật. Việc hiến
mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân chỉ được thực hiện vì mục
đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học và phải tuân theo
trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định. Quy định như vậy nhằm loại trừ
hành vi lợi dụng quyền này để thực hiện nhằm mục đích thương mại.
2.1.2. Lí luận về quyền được sống của con người.
Con người là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp
luật, tất cả là vì con người và cho con người, trong đó, quyền sống là một
trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực hiện các
quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho
con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y
học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy,
mục đích chữa bệnh của việc hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác cần
được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến
xác còn nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học để ngày càng tìm ra
các phương thức chữa bệnh hiệu quả hơn, và suy cho cùng cũng là vì con
người.
4
2.2. Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
của cá nhân dựa trên cơ sở truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo,
phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam.
2.2.1. Những truyền thống quý báu của dân tộc làm cơ sở cho việc ghi
nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân.

Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của cá nhân được ghi
nhận dựa trên cơ sở những truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc. Những
truyền thống đó có nguồn gốc sâu xa và bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lí,
môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội cụ thể nhất định. Trên nền tảng của văn
hóa bản địa, Việt Nam còn tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc
biệt là văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và
Đạo giáo. Những yếu tố tích cực của các tôn giáo này như: việc đề cao chữ
Nhân, lòng thương người trong Nho giáo; tư tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo;
tinh thần đoàn kết, hữu ái của Đạo giáo… kết hợp với văn hóa bản địa đã tạo
nên những truyền thống đạo đức vô cùng quý báu của dân tộc.
Tình thương yêu con người là giá trị đạo đức đặc trưng của dân tộc Việt
Nam. Đối với người dân Việt Nam, lòng thương người đã trở thành một nếp
nghĩ, một cách sống, một giá trị đạo đức trong đời sống của mỗi người.
Truyền thống đó được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ vô cùng quen
thuộc:
“Thương người như thể thương thân”
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
“Lá lành đùm lá rách”
Yêu thương con người, làm việc thiện để tu nhân tích đức là bài học
đạo lí mà bất cứ người Việt Nam nào cũng được dạy dỗ từ thuở bé thơ:
“Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức Trời dành phần cho”
“Cây xanh thì lá cũng xanh
5

×