Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.79 KB, 42 trang )

Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2009 đã và đang có những ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam. Thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này,
nhưng mức độ và phạm vi ảnh hưởng vẫn chưa được đánh giá đầy đủ do tình hình kinh tế
thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế mở phụ thuộc vào nhiều nền kinh tế khác và phụ
thuộc trực tiếp vào đâu tư nước ngoài nên rơi vào khủng hoảng là điều không thể tránh
khỏi. Năm 2007 tốc độ tăng trưởng Việt Nam là 8,46%, năm 2008 giảm xuống còn
6,31%. Cụ thể là trong nước sản xuất đình đốn, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng có dấu hiệu
chậm lại, tình trạng thất nghiệp gia tăng nhanh…Trước tình hình này, chính phủ phải đưa
ra biện pháp để giải quyết. Một là kích cầu và phải đương đầu với tình hình lạm phát gia
tăng, hai là không làm gì cả nhưng sự chờ đợi sẽ rất lâu và sự hồi phục có thể không xảy
ra. Và chính sách kích cầu được đánh giá nhanh và phù hợp trong thời điểm hiện tại. Do
thời gian cũng như lượng kiến thức có hạn nên nhóm kính mong Thầy sẽ góp ý để nhóm
hoàn thiện đề tài hơn.
1. Lý do chọn đề tài.
Kể từ cuộc Đại suy thoái 1929-1933, chưa từng có cuộc khủng hoảng nào có tác động
mạnh mẽ, nặng nề và lan tỏa tới nhiều quốc gia trên thế giới như cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2009; và Việt Nam lần đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc
khủng hoảng Đông Á năm 1997. Nhận thấy những tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới, nhóm quyết định phân tích các chính sách kích cầu để chính phủ
nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và lấy lại đà phát triển. Qua đó,
nhóm cũng chỉ ra các ưu và nhược điểm của các gói kích cầu và cuối cùng đưa ra những
bài học kinh nghiệm cho tương lai.
1
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
2. Mục tiêu nghiên cứu.


Nhóm tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết của khủng hoảng tài chính và chính sách
kích cầu, qua đó cho thấy được tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đến nền kinh tế Việt Nam trên mọi phương diện: đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, tăng
trưởng, Phân tích về các nguyên tắc để có một gói kích cầu kinh tế hiệu quả. Cùng với
đó là một số kinh nghiệm kích cầu của các nước phát triển trên thế giới.Đặc biệt, nhóm
nghiên cứu sâu vào hai gói kích cầu mà chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhằm tạo sự hồi
phục cho nền kinh tế, giúp nền kinh tế nước ta nhanh chóng vượt qua khó khăn và phát
triển. Cùng với đó là phân tích những mặt tích cực, tiêu cực mà hai gói kích cầu đem lại
và bài học kinh nghiệm nhằm hạn chế cũng như triệt tiêu những vấn đề còn tồn đọng
trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Nhóm sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả đóng vai trò chủ đạo trong
suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chính thế giới và
các chính sách kích cầu. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đền nền kinh
tế Việt Nam, các chính sách kích cầu của chính phủ để đối phó với cuộc khủng hoảng và
kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển đã phản ứng với cuộc khủng hoảng ra sao để
từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm cho kinh tế Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Cả nước; giai đoạn từ những tháng cuối năm 2008, năm 2009 và
những tháng đầu năm 2010.
2
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
5. Nguồn số liệu.
- Số liệu từ Tổng cục thống kê (GSO), IMF, Viet Capital Stock Company Research,
World Bank, Bộ Tài chính, Bộ Công thương,…
6. Kết cấu đề tài.
- Phần mở đầu.
- Chương I: Khủng hoảng tài chính thế giới và ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam.

- Chương II: Nguyên tắc và kinh nghiệm kích cầu trên thế giới.
- Chương III: Chính sách kích cầu của chính phủ Việt Nam trong tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới.
- Kết luận.
3
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI VÀ NHỮNG ẢNH
HƯỞNG ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
1.1 Cơ sở lý thuyết về khủng hoảng tài chính toàn cầu.
1.1.1 Khái niệm về khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn
đến sụp đổ. Nó chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc
đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung, nhu cầu về
tiền mặt của người dân hay các nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân
hàng và thị trường tài chính khiến cho hệ thống ngân hàng và tài chính có thể sụp đổ.
Trong nền kinh tế thế giới hiện đại, sự lây lan của khủng hoảng tài chính luôn đi kèm với
4
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
tình trạng nền kinh tế bị suy thoái bị kéo dài. Chính vì vậy khủng hoảng tài chính mang
đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong
nền kinh tế từ nhiều năm qua.
1.1.2 Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính.
- Các Ngân hàng trung ương (NHTW) không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người
gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả

đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Theo quy luật của sự phát triển, khi lên đến điểm phát triển cực đại chịu tác động
mạnh mẽ của nền kinh tế chính trị xã hội thì nền kinh tế đó sẽ chuyển sang thời kỳ đi
xuống suy thoái khủng hoảng.
1.1.3 Các hình thức khủng hoảng tài chính.
a) Khủng hoảng ngân hàng.
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng.
Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ
rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn
tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ
phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra
khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng,
nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong
ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài
chính.
5
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
b) Khủng hoảng nợ quốc gia.
Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài quá nhiều và sử dụng không hiệu quả
nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa
nợ, thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (VD: CHDCND Triều Tiên).
c) Khủng hoảng trên thị trường tài chính.
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do
các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng đầu cơ. Yếu tố đầu tiên
phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền
nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá
cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại
tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố

định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng”
đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô
đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất
động sản), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ,
với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng
hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những
nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và
bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo
những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt
giá, họ không cần hiểu biết nguyên do khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là
“tâm lý bầy, đàn”.
d) Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế.
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các
kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không
thanh toán được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ
6
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các dự
án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.
e) Khủng hoảng cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/cán cân vốn.
Cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/cán cân vốn(còn được gọi là tài khoản) là cấu
thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia. Khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm
hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng
lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập khẩu-xuất khẩu) bị thâm hụt và khủng
hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào.
1.1.4 Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính toàn cầu.
- Giá hàng hóa leo thang: Khi giá hàng hóa leo thang một cách chóng mặt, đặc biệt là giá
vàng và giá dầu sẽ khiến cho khủng hoảng tài chính dễ dàng xảy ra.
- Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt thua lỗ: Các ngân hàng và các định chế tài chính

có thể thua lỗ hàng tỉ đôla Mỹ từ cuộc khủng hoảng tín dụng do khủng hoảng nợ phế
chuẩn cho vay cầm cố. Do đó các ngân hàng sẽ thực hiện các chính sách thắt chặt việc
cho vay.
- Thị trường tín dụng bị đóng băng: Các khoản vay thế chấp đã giảm hẳn trong năm 2008,
trong đó khoản vay thế chấp thương mại hoàn toàn bị biến mất trên biểu đồ.
- Thị trường địa ốc sụp đổ: Thị trường nhà ở của Mỹ phát triển thành bong bóng từ năm
2001, người Mỹ đồng loạt đi vay tiền mua nhà ở cho dù năm 2004 – 2005 lãi suất các
khoản vay đã được đẩy lên cao, khi tình hình kinh tế khó khan thì giá nhà hạ xuống
mạnh, từ cuối năm 2008 bong bóng nhà ở bắt đầu xẹp hơi, khiến nền kinh tế chao đảo.
Hiện nay, nguyên nhân chủ yếu gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu là các vấn đề
liên quan đến thị trường nhà ở địa ốc, thêm vào đó, tình trạng hoản loạn trên thị trường
tài chính thế giới cũng là nguyên nhân quan trọng khiến giá cổ phiếu giảm mạnh và thị
trường tín dụng bị thu hẹp. Nói cách khác có thể thấy cuộc khủng hoản tài chính toàn cầu
7
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
hiện nay là do tỷ lệ cấp vốn vào thị trường so với GDP vượt quá giá trị có thể đảm bảo
một sự phát triển ổn định trong tương lai.
1.2 Sơ lược về cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2009.
Năm 2008 là một năm đầy những diễn biến xấu của nền kinh tế thế giới. Ngay từ đầu
năm 2008, để đối phó với nguy cơ suy thoái kinh tế, chính phủ Mỹ đã thực hiện gói kích
cầu thường được nhắc tới là với tên gọi gói kích cầu lần thứ nhất, trị giá khoảng hơn 150
tỷ USD. Trong năm 2008, cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn lan rộng với đỉnh cao là
việc phá sản của hàng loạt định chế tài chính lớn, buộc Cục dự trữ Liên bang Mỹ phải
can thiệp vào thị trường tài chính Mỹ với gói giải cứu tài chính (financial bailout) trị giá
hơn 700 tỷ USD. Lần này cuộc khủng hoảng ở Mỹ lan rộng và đẩy nền kinh tế thế giới
rơi vào cuộc suy thoái toàn cầu. Tiếp theo Mỹ là châu Âu và Nhật Bản rơi vào suy thoái.
Kinh tế thế giới bắt đầu suy giảm từ quý IV năm 2008. GDP quý IV năm 2008 của
Nhật Bản đã giảm 12% so với quý III năm 2008, con số này của Mỹ khoảng 6 %,
Singapore cũng khoảng 6%. Kinh tế Trung Quốc quý IV năm 2008 tăng 6.7%, thấp hơn

nhiều so với mức tăng trưởng năm 2007 (13%). Kinh tế Australia quý IV năm 2008 lần
đầu tiên đi xuống trong 8 năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các nước
Trung và Đông Âu năm 2008 chỉ còn 3.2% so với mức 5.4% năm 2007. Kinh tế Nga
đang khó khăn khi thị trường chứng khoán đã rớt khoảng 80%, đồng rúp mất giá tới 1/3
trong khi thất nghiệp tăng lên 10.5%(1). Những con số trên cho thấy, hầu hết các nền
kinh tế trên thế giới đang lún sâu vào suy thoái kinh tế.
Tại Mỹ, bong bóng nhà đất xuất hiện với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ
tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn phải hứng
chịu những khoản thua lỗ nặng.
Trong tháng Ba, nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là ngân hàng Bear Stearns.
Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán mình cho JP Morgan với giá 10 USD/cổ
phiếu, thấp hơn 10 lần mức giá niêm yết cách đó 10 năm. Ngay sau đó, cơn bão tài chính
gần như đã cuốn phăng hai đại gia cho vay lớn nhất Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac. Kế
8
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
đó, họ gánh vác 5 nghìn tỷ USD, chiếm gần nửa trong tổng số các khoản thế chấp tại Mỹ.
Đến tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã chi 200 tỷ USD làm phao cứu sinh cho hai
đơn vị này.
Tuy nhiên, tin xấu không chỉ dừng lại ở đó. Ngày 15/9, công ty tài chính khổng lồ
Lehman Brothers gục ngã. Trước khi sụp đổ, tiền nợ ngân hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là
30-1, cao gần gấp ba lần quy định luật pháp cho phép. Một số ngân hàng đầu tư khác
cũng đóng cửa, như Merrill Lynch, đơn vị sau đó được Bank of America mua lại. Tiếp
đó, nhiều ngân hàng lớn ở châu Âu như UBS và Ngân hàng Hoàng gia Scotland cũng lâm
vào tình cảnh nguy ngập.
Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Khi Iceland lâm
vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy
nền kinh tế. Vào cuối năm ngoái, thế giới cảm thấy ớn lạnh trước khủng hoảng. Thị
trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá trị so với năm liền trước với quy mô
thiệt hại 28,7 nghìn tỷ USD. Thất nghiệp đua nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại

buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa làm ăn.
1.3 Hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã, đang và sẽ ảnh hưởng
đến kinh tế nước ta; Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, nhưng mức độ tác
động không lớn như các nước khác.
1.3.1 Tác động đến hệ thống tài chính
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra không có nhiều tác động trực
tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam, do hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa
hội nhập chung với hệ thống tài chính toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở cửa tài khoản vốn
vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra, do vậy lượng tiền Việt Nam đầu tư ra bên ngoài
không đáng kể và dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam chưa nhiều nên hệ thống tài chính
9
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này so với các nước có
mức độ hội nhập tài chính sâu rộng. Tác động tới khu vực ngân hàng khó nhận thấy hơn.
Vì mức độ và trình độ liên kết của các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống
tài chính quốc tế còn rất hạn chế nên chúng sẽ ít chịu tác động trực tiếp. Những tác động
chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu là yếu tố
tâm lý. Thấy Dow Jones sụp thì VN-Index cũng xuống theo, trong khi hai thứ có vẻ
không liên quan nhiều với nhau.
1.3.2 Tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam thường cao hơn so với thế giới.
Tuy nhiên, dưới tác động ảnh hưởng cực mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng đã bắt đầu suy giảm từ quý 1 năm 2009.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2009 ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ
năm 2008, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,4%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 1,5%; khu vực dịch vụ tăng 5,4%. Trong tốc độ tăng trưởng
chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,1 điểm
phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,7 điểm phần trăm; khu vực dịch

vụ đóng góp 2,3 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước tuy thấp hơn
nhiều so với mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây, nhưng trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới bị suy giảm mạnh mà nền
kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng như trên là một cố gắng rất lớn.
Hình: Diễn biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2008 – 2009.
10
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Nguồn: Tổng cục thống kê.
1.3.3 Tác động đến tiêu dùng.
Khi sản xuất bị thu hẹp, đương nhiên nhiều người có khả năng sẽ mất việc làm,
hay chí ít thu nhập cũng rơi vào tình trạng bấp bênh cộng với dòng kiều hối chảy vào sụt
giảm sẽ kéo theo sụt giảm trong tiêu dùng của các hộ gia đình. Tiêu dùng cá nhân tuy có
giảm về tỷ trọng trong cơ cấu GDP, từ 85% vào những năm 90 xuống 65% vào năm
2007, nhưng vẫn là nhân tố chính đóng góp vào cơ cấu GDP. Hiện nay sức cầu tiêu dùng
đang giảm mạnh, một phần thể hiện ở việc sụt giảm liên tục của CPI trong các tháng cuối
năm 2008 và mặt khác doanh số bán lẻ cũng đang có xu hướng tăng chậm lại kể từ đầu
tháng 9 đến nay. Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng năm 2008 chỉ tăng 6.5% so với năm 2007. Trong khi đó, chỉ số CPI cũng bắt
đầu giảm mạnh từ tháng 9 và tăng trưởng âm trong 3 tháng cuối năm – trái ngược với xu
hướng tăng mạnh thường gặp vào cuối năm. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2009
tăng 1,17% so với tháng trước, tăng 1,49% so với tháng 12/2008 nhưng thực tế là sức
mua trong 2 tháng đầu năm 2009 đã giảm sút. Theo Bộ Công Thương, quy luật hàng
năm, những tháng có Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán mức tiêu dùng hàng hóa sẽ tăng
11
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
cao, nhưng năm 2009, do người dân có tâm lý thắt chặt chi tiêu trong điều kiện kinh tế
khó khăn nên sức mua 2 tháng đầu năm không tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng
1/2009 tăng 4,5% so với tháng 12/2008, tháng 2 sụt giảm mạnh 13,5% so với tháng

1/2009; tháng 3/2009 tăng 3,8% so với tháng 2.
1.3.4 Tác động đến xuất nhập khẩu.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào xuất khẩu, thêm vào đó, thị trường xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và EU (chiếm khoảng gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu) -
là những nền kinh tế rơi vào suy thoái nặng nề nhất, nên xuất khẩu sẽ bị thu hẹp, tác động
xấu tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến hệ lụy là cầu đối với các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm, trong khi cung đối với các mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng
do các nhà sản xuất bị giảm thị trường ở các nước phát triển sẽ tìm cách mở rộng các thị
trường khác. Như vậy, khả năng xuất khẩu bị giảm mạnh là rất cao trong khi nhập khẩu
nếu có giảm cũng sẽ giảm ít hơn so với xuất khẩu. Điều này sẽ làm cho thâm hụt ngoại
thương của Việt nam gia tăng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã rất mở với
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vƣợt quá 160% GDP. Cũng có thể một số mặt hàng
của Việt Nam thuộc loại hàng khiếm dụng có nghĩa là khi thu nhập giảm xuống thì cầu sẽ
gia tăng. Tuy nhiên, có lẽ loại này không nhiều lắm. Nền kinh tế nước ta phát triển lệch,
thiên về xuất khẩu nên thị trường nội địa bị sao nhãng. Khi xuất khẩu khó khăn, thị
trường nội địa không đóng được vai trò là “phao” đỡ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong thời gian xuất khẩu gặp khó khăn, các doanh nghiệp lại cùng đẩy mạnh phát triển
thị trường nội địa, trong khi doanh thu nội địa cũng giảm do sức mua của người tiêu dùng
kém, thu nhập thực tế giảm, thất nghiệp tăng; xu hướng tiêu dùng hàng giá rẻ tăng nhanh
và, hàng nước ngoài giá rẻ có điều kiện thuận lợi tràn vào, gây sức ép cạnh tranh lớn đối
với hàng nội địa. Mặc dù gần đây chính phủ Việt Nam đã nới tỷ giá của đồng Việt Nam
với đồng USD, nhưng việc đồng tiền Việt Nam vẫn neo vào đồng USD ở mức độ như
hiện nay sẽ làm cho đồng Việt Nam lên giá, và làm ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
12
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu như Việt
Nam sẽ bị tác động nhiều khi nền kinh tế thế giới có biến động và suy thoái.
Hình: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ tháng 4/2008 đến tháng 4/ 2009.
Nguồn: Tổng cục thống kê, VDSC Database.

1.3.5 Tác động đến đầu tư nước ngoài
Môi trường đầu tư đang xấu đi do 2 yếu tố: thứ nhất về kinh tế, tăng trưởng đang
giảm, lạm phát cao, xuất khẩu giảm, thu nhập thực tế của khá đông dân cư bị giảm, tiêu
dùng trong nước thu hẹp Thứ hai về xã hội, hàng nghìn người lao động mất việc, chưa
năm nào đình công xảy ra nhiều như năm nay. Suy thoái kinh tế toàn cầu đã gây tác động
rõ nét nhất đến việc thu hút và giải ngân nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay
cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều
hối về Việt Nam tăng mạnh, với mức doanh số 8 tỉ - 10 tỉ USD/năm. Tuy nhiên, nguồn
hối kiều này xuất phát tư nước Mỹ, nơi đang có nền kinh tế sa sút và tình trạng thất
nghiệp gia tăng. Điều này khiến cho dòng kiều hối trong các năm tới có thể cũng sẽ suy
giảm.
13
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Hình: Nguồn vốn FDI đầu tư vào các nước đang phát triển và tỷ lệ giải ngân
FDI thực tế của Việt Nam.
Nguồn: Tổng cục thống kê, IMF
Hình: Tình hình FDI Việt Nam 2008 – 2009.
14
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Nguồn: Tổng cục thống kê.
CHƯƠNG II
NGUYÊN TẮC VÀ KINH NGHIỆM KÍCH CẦU TRÊN THẾ GIỚI.
2.1 Vấn đề kích cầu và một số nguyên tắc kích cầu.
2.1.1 Khái niệm kích cầu.
Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn gọi là tiêu
dùng công cộng), từ đó gia tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế. Kích cầu đôi khi
còn được gọi là chính sách Keynes vì biện pháp này tác động tới tổng cầu. Biện pháp

kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Kích cầu thường chỉ
được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy. Kích cầu đặc
biệt hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy thanh khoản, là khi mà chính
sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.
2.1.2 Một số nguyên tắc kích cầu.
Có thể nói rằng không có một công thức cụ thể cho một gói kích cầu áp dụng với
tất cả các nước trên thế giới, mà các nước tùy theo hoàn cảnh của mình thực hiện các gói
kích cầu khác nhau. Đối với một số nước như Mỹ và EU, thì gói kích cầu được hiểu là
15
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
gói kích thích kinh tế sử dụng các biện pháp tài khóa (bao gồm tăng chi tiêu của chính
phủ và cắt giảm thuế) – Điều này là do thông thường khi nền kinh tế gặp khó khăn, thì
các nước này thường hay sử dụng công cụ kinh tế là chính sách tiền tệ (điều chỉnh lãi suất
cho vay, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở), và chỉ cân nhắc sử dụng chính sách tài khóa
khi chính sách tiền tệ dường như không còn tác dụng, hoặc không thể thực hiện được (ví
dụ như khi lãi suất đã giảm xuống rất thấp). Nhưng với một số nước khác, thì gói kích
cầu lại được thực hiện đồng thời cùng với chính sách tiền tệ như một số chính sách khác.
a) Kích cầu phải kịp thời.
Kích cầu phải kịp thời ở đây không phải chỉ là việc kích cầu phải được chính phủ
thực hiện một cách nhanh chóng khi xuất hiện nguy có suy thoái, mà kịp thời còn có
nghĩa là một khi được chính phủ thực hiện thì những biện pháp này sẽ có hiệu ứng kích
thích ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh tế. Nếu để tự nền kinh tế phục hồi
thì việc phục hồi sớm muộn cũng sẽ diễn ra, mặc dù việc phục hồi có thể kéo dài, cho nên
mục tiêu của kích cầu là đẩy nhanh việc phục hồi của nền kinh tế. Do đó, việc kích cầu
chỉ có thể được thực hiện một cách có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định. Các
chính sách mất quá nhiều thời gian để thực hiện sẽ không có tác dụng, vì khi đó nền kinh
tế tự nó đã có thể phục hồi, và việc gói kích cầu lúc đó lại có thể có tác dụng xấu do có
khả năng làm hun nóng nền kinh tế dẫn đến lạm phát và những mất cân đối vĩ mô lớn .
b) Kích cầu phải đúng đối tượng.

Gói kích cầu có thành công hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào xu hướng chi
tiêu và đầu tư của các đối tượng thuộc diện nằm trong gói kích cầu. Để kích thích được
cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, thì gói kích cầu phải được nhắm tới nhóm đối tượng sao
cho gói kích cầu được sử dụng ngay (chi tiêu ngay), và qua đó làm tăng tổng cầu trong
nền kinh tế. Những biện pháp kích cầu đúng đối tượng là những biện pháp nhắm tới các
đối tượng sẽ chi tiêu hầu như toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ. Mục tiêu của gói kích
cầu là làm tăng cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp tiền cho những người (có
16
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
thể là các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và chính quyền) – sẽ sử dụng những đồng
tiền này, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế. Tiền kích cầu phải được sử dụng để
khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến hành các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế
việc các nhóm này cắt giảm chi tiêu.
c) Kích cầu chỉ nên thực hiện trong ngắn hạn.
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải
thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các biện pháp giảm thuế,
tăng chi tiêu chính phủ đều chỉ có tính tạm thời và sẽ chấm dứt khi nền kinh tế đã vượt
qua suy thoái. Và thông thường sau khi vượt qua suy thoái nên thực hiện các biện pháp
để hạn chế và giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý nghĩa: (1) Gói
kích cầu thực hiện trong ngắn hạn sẽ làm tăng hiệu quả gói kích cầu; và (2) Chỉ kích cầu
trong ngăn để không làm ảnh hưởng tới tình hình ngân sách trong dài hạn.
(i) Tính ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu;
Những chính sách mà vẫn còn hiệu lực sau khi nền kinh tế phục hồi, ví dụ như
chính sách cắt giảm thuế cố định là những biện pháp kích cầu kém hiệu quả bởi vì những
biện pháp kích thích này sẽ trở thành những khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất
thu khi mà thời gian cần kích thích đã kết thúc. Hơn thế nữa, các biện pháp như tín dụng
đầu tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi
được thực hiện là những gói tạm thời, ngắn hạn. Nếu là những biện pháp dài hạn sẽ
không kích thích được cầu. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ được thực hiện trong

ngắn hạn sẽ khuyến khích được các doanh nghiệp tiến hành, đẩy nhanh tốc độ đầu tư để
tận dụng những ưu đãi này (ví dụ như ưu đãi về thuế). Những biện pháp dài hạn, ví dụ
như giảm thuế quá lâu sẽ không phải là một biện pháp kích cầu tốt, bởi vì các doanh
nghiệp sẽ không cảm thấy cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ đầu tư trong giai đoạn nền kinh
tế cần được kích thích nhất.
(ii) Ngắn hạn để đảm bảo không làm ảnh hưởng tới ngân sách trong dài hạn.
17
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Thông thường khi thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế bằng việc mở
rộng chi tiêu (tạm thời) của chính phủ sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách. Trong năm 2009, dự
kiến một loạt các nước phát triển sẽ bị thâm hụt ngân sách trầm trọng. Tại Hoa Kỳ, thâm
hụt của năm 2009 lên tới hơn 1000 tỷ USD, tại Anh con số thâm hụt ngân sách dự kiến
lên tới 181 tỷ USD. Do đó một nguyên tắc vô cùng quan trọng là phải đảm bảo rằng các
chính sách kích thích nền kinh tế trong ngắn hạn không có tác động xấu tới nền kinh tế
trong dài hạn hoặc gây khó khăn cho ngân sách trong dài hạn. Do đó, các gói kích cầu
chỉ được phép mang tính tạm thời, và trong ngắn hạn có thể làm tăng thâm hụt ngân sách,
nhưng trong dài hạn phải không được phép làm thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn. Việc
đảm bảo rằng trong dài hạn tình hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố quan trọng để
gói kích cầu ngắn hạn đạt hiệu quả hơn. Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng
đồng nghĩa với suy giảm tiết kiệm trong dài hạn, dẫn tới giảm đầu tư và ảnh hưởng tới
tăng trưởng. Đó là chưa kể tới việc thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng tới tài khoản vãng
lai và lạm phát (trước mắt lạm phát không đáng lo ngại, giá năng lượng và nguyên liệu
trên thị trường thế giới vẫn ở mức thấp và cầu trên thế giới vẫn còn rất yếu, song khi nền
kinh tế toàn cầu phục hồi sẽ lại trở thành vấn đề lớn do lượng tiền hiện nay được các
ngân hàng trung ương bơm ra ào ạt, và vòng quay của tiền tệ khi đó sẽ tăng lên đáng kể
nhưng mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam trong nhưng năm qua đã lên tới
mức đáng báo động).
Khi cân nhắc xem xét các biện pháp kích cầu cụ thể của gói kích cầu, thì cả ba
nguyên tắc trên đều phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời. Nếu một biện

pháp kích cầu cụ thể mà vi phạm một trong ba nguyên tắc trên thì về cơ bản biện pháp
kích cầu đó chưa phải là một biện pháp kích cầu tốt. Để tăng hiệu quả của gói kích cầu,
cần có các chính sách bổ trợ khác (không vi phạm các cam kết thương mại quốc tế của
quốc gia) như không để tỉ giá bị định giá cao và tăng tính linh hoạt của tỉ giá nhằm sử
dụng công cụ này như vẫn tự động điều chỉnh thâm hụt thương mại ở mức hợp lý và bền
vững.
18
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
2.2 Kinh nghiệm kích cầu của một số quốc gia trên thế giới.
2.2.1 Chính sách kích cầu của Mỹ.
a) Gói kích cầu lần 1 (2008).
 Tổng quan.
Nền kinh tế Hoa kỳ từ cuối năm 2007 đã có những dẫu hiệu của suy thoái, và nhiều
dự báo đưa ra đều cho rằng năm 2008 là một năm khó khăn với Mỹ, và trên thực tế đã
diễn ra như vậy. Đầu năm 2008, khi phải đối mặt với một nền kinh tế có chiều hướng đi
xuống, chính phủ Bush đã đưa ra gói kích cầu trị giá 152 tỷ USD và được quốc hội Mỹ
thông qua ngày 13/2/2008 (Đạo luật kích cầu kinh tế năm 2008 – The Economic Stimulus
Act 2008).
 Chi tiết.
+ Hoàn thuế cho các cá nhân người nộp thuế (khoảng 300 USD/người) ở mức thu nhập
thấp.
+ Trợ cấp cho trẻ em dưới 17 tuổi 300 USD/trẻ em.
+ Ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp.
+ Ưu đãi cho phép khấu hao nhanh đối với doanh nghiệp .
+ Hỗ trợ người gặp khó khăn trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn.
b) Gói kích cầu lần 2 (2009).
 Tổng quan.
Ngay từ khi chưa chính thức nhậm chức nhưng Tổng thống đắc cử Obama đã đưa ra
đề xuất trong gói kích cầu của mình để giúp nền kinh tế Hoa Kỳ thoát khỏi khủng hoảng.

Hiện tại gói kích cầu trị giá gần 825 tỷ USD vừa được Quốc hội Mỹ phê duyệt.
 Chi tiết.
19
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm 2,5 triệu công ăn việc làm thông qua một số biện
pháp như cho các doanh nghiệp nợ thuế khoảng 3000 USD đối với mỗi lao động thuê
mới; xóa bỏ thuế đối với lãi trên vốn cho các doanh nghiệp SME.
+ Đầu tư vào công trình công cộng (công nghệ cao, băng thông rộng, y tế, đường xá, các
tiện ích công cộng v.v.v).
+ Hỗ trợ các gia đình khó khăn (giảm thuế cho các cá nhân và gia đình), nâng bảo hiểm
thất nghiệp.
+ Hỗ trợ các chủ sở hữu nhà gặp khó khăn.
+ Quỹ dự trữ chống khủng hoảng tài chính.
2.2.2 Chính sách kích cầu của EU.
 Tổng quan.
Mặc dù Mỹ và một số nước châu Á khác khá nhanh chóng trong việc đưa ra và thực
hiện chính sách kích cầu, nhưng do bất đồng nên các nước thuộc khối EU có chậm trễ
hơn đôi chút trong việc đi tới thống nhất về gói kích cầu của khối. Một phần là do một số
nước trong khối có nguy cơ bị suy thoái và đã tuyên bố và thực hiện kế hoạch kích cầu
riêng của mình như (Anh, Ý, Pháp, Đức), trong khi đó một số khác thì lại vẫn có tăng
trưởng (Slovakia, Bulgaria, Romania và Ba Lan). Tuy nhiên, theo tờ Telegraph ra ngày
26/11/2008 thì các nước EU đã đi tới thống nhất về một gói kích cầu trị giá 200 tỷ Euro
(tương đương 170 tỷ Bảng Anh, 260 tỷ).
 Chi tiết.
Chưa có nhiều thông tin chi tiết về chính sách kích cầu của EU.
2.2.3 Chính sách kích cầu của Nhật Bản.
 Tổng quan
20
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài

chính toàn cầu.
Tháng 8/2008 Chính phủ Nhật bản đã có kế hoạch kích thích nền kinh tế lần thứ nhất
trị giá khoảng 18-27 tỷ USD. Gói kích thích này chủ yếu nhằm vào việc giúp người dân
vượt qua tác động của giá xăng dầu và hàng hóa tăng cao.
Ngày 12/12/2008 Thủ tướng Nhật bản công bố một kế hoạch mới để kích thích nền
kinh tế trị giá 255 tỷ USD và gói này có thể lên tới hơn 500 tỷ USD.
Lưu ý: Gói kích thích của Nhật Bản gồm 2 phần là giải quyết vấn đề tín dụng và kích
cầu (111 tỷ dưới dạng miễn thuế và chi tiêu chính phủ, 144 tỷ để bơm tiền cho các tổ
chức tài chính).
 Chi tiết
- Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chính sách này được thực hiện thông qua việc trợ cấp cho các cá nhân (người lớn) một
khoản tiền khoảng 12000 Yên. Chính sách này được cho là thất bại và thực hiện vì mục
đích chính trị. Năm 1999, khi đó chính phủ kích thích nền kinh tế thông qua việc phát
phiếu tiêu dùng (coupon) cho người dân.
- Miễn thuế cho người lao động, người mua nhà gặp khó khăn do suy thoái kinh tế.
- Trợ cấp trực tiếp cho các hộ gia đình.
- Bơm tiền vào thị trường tài chính.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Giảm thuế đường xá.
- Các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp thuê và sử dụng lao động.
2.2.4 Chính sách kích cầu của Trung Quốc.
 Tổng quan.
21
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Chính phủ Trung Quốc đã thông qua kế hoạch chi tiêu để kích thích nền kinh tế trị giá
586 tỷ USD trong vòng 2 năm (mỗi năm tương đương khoảng 7% trị giá GDP).
 Chi tiết.
+ Xây dựng các chương trình hỗ trợ đối với nông dân.

+ Cải thiện hệ thống phúc lợi xã hội .
+ Tăng chi tiêu của chính phủ: chi cho khu vực Tứ Xuyên bị động đất tàn phá; đầu tư vào
giao thông vận tải.
+ Ngoài ra đang có kế hoạch tăng chi tiêu vào đào tạo dậy nghề.
+ Tăng hoàn thuế XK đối với một loạt mặt hàng, từ những mặt hàng sử dụng nhiều lao
động như dệt-may, đến những mặt hàng có giá trị cao như các mặt hàng điện tử.
+ Khuyến khích các ngân hàng tăng cường cho vay đối với khối doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
CHƯƠNG III
CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
TRONG TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU.
Thị trường tài chính Việt Nam ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài
chính so với các nước khác trong khu vực do các tổ chức tài chính trong nước chưa hội
nhập sâu hệ thống tài chính thế giới. Các tổ chức trong nước chưa nắm giữ nhiều chứng
khoán nước ngoài, đặc biệt các chứng khoán có tài sản gốc là bất động sản. Tuy nhiên,
22
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
kinh tế nước ta cũng chịu ảnh hưởng do tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào hoạt
động xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Trước tình thế trên, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cùng các bộ, ngành
đã có nhiều biện pháp can thiệp, ổn định thị trường và giảm thiểu tác động từ khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Chính sách tiền tệ được điều chỉnh linh hoạt kết hợp với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác để thực hiện nhiệm vụ này. Về cơ bản, chính sách tiền tệ
áp dụng đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát leo thang và chống suy giảm kinh tế, chính
sách tài khóa với điểm nổi bật là gói kích cầu 8 tỷ đô đã có những tác động trong ngắn
hạn và nhận được sự quan tâm cũng như nhiều phản ứng trái chiều của xã hội. Vì vậy,
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi, việc tìm hiểu và đánh giá thực hiện các công cụ của
chính sách tiền tệ và sự phối hợp với chính sách tài khóa là rất cần thiết.

3.1 Gói kích cầu thứ nhất của Việt Nam.
3.1.1 Giới thiệu gói kích cầu lần thứ nhất.
Trong năm 2009, chính phủ Việt Nam đã thực hiện biện pháp kích cầu thông qua
chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh nghiệp, các chương trình miễn, giảm và
giãn thuế, bảo lãnh cho các DN vay vốn tại các Ngân hàng thương mại, … Cụ thể như
sau:
Gói hỗ trợ lãi suất 4% thuộc về nhóm biện pháp kích thích chi đầu tư đối với
doanh nghiệp. Có 3 loại hình hỗ trợ lãi suất vốn vay chính: cho vay ngắn hạn, cho vay
trung & dài hạn, và cho vay phục vụ nông nghiệp & làm nhà ở. Đối tượng cho vay phải
không nằm trong danh sách 13 ngành, lĩnh vực.
Chương trình giảm, giãn thuế bao gồm: giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập và giảm
thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ.
Ngày 12/5/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố chính thức về gói kích cầu có
giá trị 143.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD) của Chính phủ, sau đó tăng lên 160
23
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD). Theo đó, gói kích cầu tương đương 8 tỷ USD
được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau. Cụ thể các phần của gói kích cầu này
bao gồm:
- Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng.
- Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng.
- Ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách khoảng 37.200 tỷ
đồng.
- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỷ đồng.
- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng.
- Thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng.
- Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ đồng.
- Các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội
khoảng 7.200 tỷ đồng.

3.1.1 Chính sách tiền tệ.
Một phản ứng chính sách thích hợp sẽ phụ thuộc vào đặc điểm và qui mô của
khủng hoảng. Trong bối cảnh nhiều biến động quốc tế phức tạp và khó dự báo, ổn định
giá cả là mấu chốt, theo đó mục tiêu lạm phát được coi là hạt nhân của CSTT hiệu quả.
NHTW xác định mục tiêu rõ ràng về ổn định giá cả, góp phần đạt được những mục tiêu
khác như tăng trưởng bền vững và tạo thêm nhiều việc làm. Đối với Việt Nam, cuối năm
2008 cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong
nước, áp lực giảm phát bắt đầu xuất hiện, kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh và GDP đạt
thấp. Để phục hồi kinh tế, chủ động ngăn ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống
ngân hàng, NHNN đã thực hiện CSTT nới lỏng theo hướng giảm các mức lãi suất chủ
đạo (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu), đồng thời điều chỉnh
24
Chính sách kích cầu của Việt Nam trong tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với VND nhằm giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tăng
cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Theo đó,
lãi suất cơ bản giảm từ 14% xuống còn 13%/năm kể từ ngày 21/10/2008 và ngày
05/12/2008 chỉ còn 10%, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn
14% kể từ ngày 21/10/2008 và xuống 11%/năm kể từ ngày 05/12/2008. Mặt khác, nhằm
thực hiện Nghị quyết số 30/CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp ngăn
chặn suy giảm kinh tế, đặc biệt là gói kích cầu qua hình thức hỗ trợ lãi suất 4%, từ tháng
2/2009 NHNN đã tiếp tục điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất với lãi suất cơ bản giảm
xuống còn 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu còn 5%/năm. Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cũng được điều chỉnh giảm. Ngoài ra, NHNN cũng điều hành linh hoạt
nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu chào mua tờ có giá với kỳ hạn và lãi suất hợp lý nhằm
đưa tiền ra lưu thông; điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá giữa VND và USD, chấn chỉnh hoạt
động mua bán, thu đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn
biến mới của nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống còn ±
3 kể ngày 26/11/2009, đồng thời điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho
ngày 26/11/2009 tăng thêm 5,4% so với ngày 25/11/2009; lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp

vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng thêm 1% kể từ tháng 12/2009. Kết
thúc năm 2009, tổng mức tín dụng tăng 37,73%, nguồn vốn huy động vốn tại các tổ chức
tín dụng tăng 28,7%, tổng phương tiện thanh toán tăng 28,67%, lạm phát đuợc kiềm chế
ở mức 6,88%.
Có thể thấy, ở Việt Nam, cho đến thời điểm Chính phủ tuyên bố thực hiện gói kích
cầu trị giá 1 tỷ USD, thì một điều khá lạ là vai trò của chính sách tiền tệ (giảm lãi suất)
dường như ít được đề cập tới. Có lẽ do âm hưởng của cuộc chiến chống lạm phát trong
năm 2008, nên Ngân hàng Nhà nước vẫn khá thận trọng, chua có những hành động mạnh
mẽ hơn để giảm lãi suất để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tuy không gây quá nhiều phản
ứng mạnh mẽ từ xã hội nhưng về cơ bản, mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh
tế vĩ mô và chúng ta đã công bố những biện pháp kinh tế vĩ mô quan trọng mà tất cả đều
đúng hướng xét về mặt bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, vốn là tiền đề vững chắc cho tăng
25

×