Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Một số biện pháp giúp sinh lớp 5 học Tập làm văn tốt hơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.15 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH LỚP 5 HỌC TẬP LÀM VĂN
TỐT HƠN”

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong những môn học chiếm vị
trí quan trọng, chiếm thời lượng nhiều nhất so với các môn học khác. Trong đó phân môn
Tập làm văn lại chiếm thời lượng nhiều trong môn Tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy tập làm
văn có vai trò hết sức cần thiết và là nền tảng để học sinh học tốt các môn học khác. Trải
qua nhiều năm công tác, từ các thực tiễn, bản thân cũng đã có được một số kinh nghiệm
về dạy học tập làm văn lớp 5. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung và chất lượng phân môn tập làm văn nói riêng, bản thân tôi xin
trình bày một số kinh nghiệm mà mình đã tích luỹ được thông qua đề tài: “Một số biện
pháp giúp sinh lớp 5 học Tập làm văn tốt hơn”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm ra phương pháp để giảng dạy nhằm giúp
học sinh học tập làm văn tốt hơn, góp phần học tốt các môn học khác.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 5 Trường Tiểu học EaHiao
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu tình hình học tập của học sinh về phân môn tập làm văn.
- Nghiên cứu chương trình Sách giáo khoa hiện hành để từ đó xây dựng biện pháp
thích hợp.
- Nghiên cứu hệ thống các biện pháp để thực hiện.
V. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

Phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 5A
6


Trường Tiểu học EaHiao năm học 2009 –
2010 và năm học 2010 – 2011.
Phân môn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 có rất nhiều thể loại, đề tài này chỉ
trình bày về kinh nghiệm dạy tập làm văn miêu tả.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp thống kê mô tả.
- Phương pháp chọn lọc chi tiết.
- Phương pháp đọc lập suy nghĩ.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.CƠ SỞ KHOA H ỌC:
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác góp phần giáo dục và phát triển toàn
diện cho học sinh. Qua các bài học, học sinh hiểu biết thêm về thiên nhiên, cuộc sống
xung quanh, đất nước, con người Việt Nam . . . Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5 mới,
bên cạnh các phân môn Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu . . . Phân môn
Tập làm văn góp phần rèn cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe – nói - đọc
- viết. Bên cạnh, thông qua học Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của
con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập làm
văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân - thiện - mĩ được định hướng trong các đề bài.
Những cơ hội đó làm nảy nở tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người và

những việc xung quanh của các em, giúp cho tâm hồn, tình cảm của các em thêm phong
phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của các em.
Chính vì vậy, việc hình thành và rèn luyện kĩ năng làm tập làm văn cho học sinh là
một yêu cầu rất cần thiết.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong năm học 2009 – 2010 vừa qua, tôi được Ban giám hiệu Nhà trường phân
công giảng dạy lớp 5A

6
với sĩ số là 19 học sinh.
Qua kết quả thi khảo sát đầu năm, tôi thống kê được chất lượng học phân môn Tập
làm văn như sau:

TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
19 2 10,5% 3 15,8% 12 63,2% 2 10,5%
Qua một năm tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp rèn kĩ năng viết văn cho học sinh,
tôi nhận thấy các em có nhiều tiến bộ, kết quả đạt được cuối năm học như sau:
TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
19 5 26,3% 9 47,4% 5 26,3% 0
Năm học 2010 - 2011 này, tôi được BGH nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy
và phụ trách lớp 5A
6
với sĩ số 21 học sinh, trong đó 15 học sinh là nữ. Qua một thời gian
giảng dạy phân môn Tập làm văn theo chương trình sách giáo khoa mới, tôi nhận thấy
việc dạy và học phân môn Tập làm văn có một số khó khăn nhất định đó là:
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em còn nhiều hạn
chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay.
- Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn.

- Chưa biết cách sử dụng câu nêu ý bao trùm của đoạn, chuyển ý giữa các đoạn, làm cho
các đoạn văn trong một bài văn rời rạc, chưa logic.
- Trong khi viết, các em chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình.
- Một số em có sử dụng biện pháp so sánh nhưng còn cứng nhắc.
Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em, tôi suy nghĩ làm sao

tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh học tập làm văn tốt hơn.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu chương trình tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn
trong chương trình lớp 5 mới gồm các tuyến kiến thức:
- Văn miêu tả: + Tả cảnh
+ Tả người
- Các loại văn bản khác: + Báo cáo thống kê.
+ Làm đơn.
+ Thuyết trình, tranh luận.
+ Làm biên bản. . .
Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong chương trình Tập
làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người. . . bằng
ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng
như mình đang “xem tận mắt, bắt tận tay”. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều này
quả là một điều không đơn giản. Việc làm trước tiên của tôi là tiến hành điều tra thực
trạng học sinh trong lớp qua kết quả chất lượng đầu năm, đánh giá kĩ năng làm văn theo 4
mức: Giỏi –khá – trung bình – yếu.

TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
21 2 9,5% 6 28,6% 11 52,4% 2 9,5%

I. Biện pháp tiến hành:
- Nghiên cứu sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến việc dạy và học
phân môn Tập làm văn lớp 5 mới.
- Dạy học bằng các phương pháp và hình thức phù hợp nhằm phát huy tính tích cực
học tập môn tập làm văn của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả ( Tranh ảnh, vật thật ).
- Quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp - đặc biệt là các đối tượng học sinh

yếu; trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ khi các em gặp lúng túng trong giờ học.
- Kết hợp với các môn học khác cung cấp thêm vốn từ cho học sinh.
- Bản thân giáo viên luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm qua sách báo, qua đồng nghiệp
để cải tiến, đầu tư cho mỗi bài dạy.
Công việc này được tôi tiến hành xuyên suốt ngay từ đầu năm học.
Đối với học sinh lớp 5 ở địa bàn tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngôn ngữ của các em
còn rất nhiều hạn chế - đặc biệt là các em chưa biết cách trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu
văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà đa số các em “nghĩ sao thì viết vậy”;
Cho nên việc trước tiên là giáo viên cần kết hợp với các phân môn trong môn Tiếng Việt
– nhất là phân môn luyện từ và câu - cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, uốn nắn cho các
em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự nhiên” thành “ngôn ngữ
nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là hiệu quả của những bài văn.

Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy,
trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này.
Ở lớp 5, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh hoặc tả người.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát, lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên và học sinh
lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên.
1. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
Để học sinh học tốt tập làm văn, trước khi thực hiện một yêu cầu của đề bài nào đó,
giáo viên cần giúp học sinh hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ để bài học để học sinh có
vốn từ ngữ mà vận dụng trong khi làm bài. Từ đó giúp các em đỡ phải lúng túng.
Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông nước ( Tiếng Việt
5 - Tập 1 – Trang 74 ).
Giáo viên cần giúp các em hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước.

Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung linh,
2. Mở rộng câu đúng thành câu hay:
Do kĩ năng đặt câu của học sinh còn nhiều hạn chế nên giáo viên cần giúp choi các
em ôn luyện cách đặt câu đúng và từ câu đúng biết cách mở rộng thành câu hay để sử
dụng trong bài văn.

Ví dụ : Khi dạy bầi : Viết đoạn văn tả cảnh một buổi sáng ( hoặc trưa, chiều ) trong
vườn cây ( hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy ).
( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 22 ). Sau khi giúp học sinh xác định đề bài, giáo viên cần
giúp các em cách đặt câu đúng và từ câu đúng mở rộng thành câu hay để vận dụng vào
bài văn.
Chẳng hạn: Mặt trời mọc. ( Câu đúng )
Mở rộng : Ở chân trời phía đông, Ông mặt trời từ từ dâng cao trên đỉnh núi.
Chim hót. ( Câu đúng )
Mở rộng : Trong vòm là xanh, con chim chào mào hót líu lo như đón chào ngày
mới.
3. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người:
- Từ một văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định mở bài, thân bài, kết
bài cua bài văn tả cảnh, tả người.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh ( tả người ).
- Sau đó lưu ý cho học sinh về cách trình bày bài văn sao cho tách bạch rõ 3 phần của
một bài tập làm văn.
4. Phân tích các văn bản mẫu:
- Với các văn bản mẫu, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tập trung vào việc tìm hiểu
cái hay, cái đẹp trong bài văn. Đồng thời cũng chú tâm vào việc tìm hiểu cách sử dụng
các giác quan khi quan sát và cách chọn lọc chi tiết để tả. Ngoài ra còn có thể kết hợp với
việc quan sát các cảnh thông qua tranh, ảnh,
Ví dụ:
• Bài “Luyện tập tả cảnh”- Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14.


- Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào ?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy nghệ
thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn.
* Bài “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và “Chiều tối”
để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.
- Cách tiến hành bài này là:
+ Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài văn. Có thể
yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những em tìm
được những hình ảnh đẹp.
+ Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và hướng cho học
sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
5. Quan sát, lập dàn ý chi tiết:
- Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh có sự chuẩn bị
bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật, sự vật hoặc một người nào
đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc nhở các em trong phần dặn dò

cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với cảnh vật quen thuộc hằng ngày thì không
cần phải quan sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta
những nhận biết hời hợt, chung chung, chưa toàn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều
lượt, bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác.
Quan sát trực tiếp còn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được
sự tẻ nhạt.

- Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ ngữ để
diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
- Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là
thích hợp hơn cả.
- Khi vào học bài mới, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố
cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu
cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về
vấn đề chính trong đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ?
- Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú
ý.
- Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (tả cảnh con sông, tả
cảnh ở công viên, …) thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa cho học
sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
Ví dụ:
* Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu
tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ).

- Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý:
+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điểm nhất định ( sáng – trưa - chiều; mùa
đông - mùa hè…); Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo thời gian ( Từ
sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè…).
+ Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong…hoặc ngược
lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngoài…
+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy nhiên chỉ nên tả
lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn tả cảnh sinh hoạt.
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách
lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.

- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
+ Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng nào?
+ Đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý:
+ Tả từng phần của cảnh trường:
Cổng trường ( cổng như thế nào ? Bản tên trường ra sao ? ).
Sân trường ( sân trường ra sao ? Cột cờ, cây cối như thế nào? ).
Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao? ).
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý chính.
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:

Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các
em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phàn dàn ý thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một phần của thân
bài.
- Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu đúng thành
câu hay để đưa vào bài văn
* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng một câu
nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung
đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không
nên gò bó, áp đặt.
Ví dụ:
Đề bài: “… Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con sông, một con
suối hay một hồ nước ) ( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 62)
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê hương tôi
có dòng suối hiền hoà quanh năm nước chảy”.

Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau mà
vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
- Đa phần các em học sinh rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh hoặc của
người. Ví dụ: Mẹ em có mái tóc dài, dáng người cao, hàm răng trắng, Vì vậy giáo viên
cần lưu ý việc cách mở rộng câu đúng thành câu hay để học sinh vận dụng thì bài văn sẽ
hay hơn.

- Điều quan trọng là phải lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết đã lập ở dàn
bài để chuyển thành bài văn, đoạn văn, tránh một số trường hợp, học sinh viết bài văn
một cách ngẫu hứng không bám theo dàn ý đã lập làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính
logic hay tính cân đối do không chủ động được thời gian
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở rộng, nhưng
tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần giúp các em nêu cảm
xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm
giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực.
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
* Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu văn có hình
ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân hóa… trong các kiểu bài
tập làm văn.
Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa- đôi khi học sinh dùng
những hình ảnh chưa chính xác.
Chẳng hạn với đề bài “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em chọn tả chị
gái của mình. Tôi hỏi:
+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da…) của chị tả như thế nào ?
- Học sinh nêu:

+ Mái tóc của chị đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của chị đen như mun.
+ Răng của chị rất trắng; …

- Chính vì thế, giáo viên cần hướng cho học sinh biết cách dùng những hình ảnh so
sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chị gái em đen và mượt mà như dòng suối xoã cuống ngang vai.
Mỗi khi chị cười để lộ ra hàm răng trắng đều như hạt bắp. Chị em có làn da ngăm đen
nhưng trông chị rất có duyên.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các em :
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Mái tóc của bà trắng như mái tóc của các diễn viên trong tuồng chèo.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh bổ sung,
sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật.
Bộc lộ cảm xúc trong bài văn :
- Ngoài việc giúp HS sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn, giáo viên
cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một bài văn hay không thể thiếu
được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể
hiện trong từng câu, từng đoạn của bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một
cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ:
- Được sống với bà, em thấy như thế nào ?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu; em luôn giúp bà làm
mọi việc để bà đỡ vất vả).
+ Được bà chăm sóc hàng ngày em nghĩ gì ?
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà như chắp cánh cho em vững bước trong cuộc
đời).

Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc nhận xét
trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh tránh được nhược điểm khô

khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết.
II. Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên, đến nay tôi nhận thấy các
em có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu về kĩ năng viết văn miêu tả
nay đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú hơn trong giờ học Tập làm văn. Còn những em
học lực trung bình và khá đã tự mình viết được một bài văn, một đoạn văn theo yêu cầu
của đề bài. Tuy những bài văn, đoạn văn đó có thể chưa hay, chưa sinh động nhưng các
em đã tự viết bằng chính tư duy của mình.
Qua một thời gian áp dụng giảng dạy môn tập làm văn theo các biện pháp trên, đến
nay tôi thống kê kết quả đạt được như sau:
TSHS
GIỎI KHÁ TB YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
21 6 28,6% 9 42,8% 5 23,8% 1 4,8%
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu bước thành
công là làm cho học sinh có kĩ năng làm văn miêu tả tốt hơn, giúp các em tự tin hơn trong
môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi luôn
cố gắng phát huy, tìm tòi và vận dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất
lượng tốt hơn.
PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN

Tập làm văn là phân môn tổng hợp của tất cả các phân môn trong môn Tiếng Việt.
Học tốt tập làm văn sẽ giúp các em có nền tảng vững chắc để học tốt các môn học khác.
Với việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp của đề tài này tôi thấy bước đầu mang
lại kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên học tập là một quá trình, muốn đạt được kết quả cần có sự
hợp tác từ nhiều phía mà đặc biệt là học sinh và giáo viên. Hơn nữa, học tập làm văn cần
có sự tích hợp của nhiều môn học, các em phải có vốn hiểu biết về các hiện tượng tự
nhiên và xã hội xung quanh chúng ta thì các em mới đưa các hình ảnh, các dẫn chứng vào
bài văn của mình để bài văn sinh động hơn, hấp dẫn hơn.

Tuy nhhiên, do khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế, cũng như điều kiện công
tác, những biện pháp của đề tài này chắc hẳn chưa thể nào đáp ứng được một cách chu
toàn cho mọi nơi mọi lúc. Chính vì vậy, trong quá trình áp dụng, đôi chỗ còn khập khiễn,
chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Rất mong nhận được sự quan tâm, chia sẻ và
đóng góp ý kiến để đề tài mang tính khả thi rộng khắp hơn và ngày càng hoàn thiện hơn.
Từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập làm văn của học sinh lớp 5 làm nền tảng cho
việc học tốt các môn học khác, đáp ứng nhu cầu về chất lượng mà xã hội đặt ra cho
ngành Giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
NGƯỜI VIẾT

Hà Văn Trung

×