SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“TÌM HIỂU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÔT MÔN TẬP
ĐỌC Ở LỚP 3”
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2010-2011, năm học tiếp tục “Đổi mới quản lí
và nâng cao chất lượng giáo dục”, năm học tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Hai không
với bốn nội dung” cùng với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích
cực” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở Tiểu học.
Trẻ từ khi bắt đầu đi học, các em đã được tiếp xúc với kiến thức đơn giản của môn
tập đọc rồi từ đó mở rộng ra, nâng cao dần, ngày càng phong phú và đa dạng hơn, cao
hơn, hay hơn. Qua đó dạy học tốt phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp ba nói
riêng là vô cùng quan trọng trong hệ thống các môn học. Dạy tốt phân môn tập đọc có thể
bồi dưỡng cho học sinh nhiều mặt vì nó có tính chất khởi đầu cho người đi học. Vì vậy
phân môn tập đọc ở tiểu học đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà
nghiên cứu và các giáo viên có nhiệt huyết đã bỏ nhiều công sức đi sâu nghiên cứu, tổng
kết những kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đang được quan tâm này.
Là một giáo viên tiểu học, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những
phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt môn học này,
đồng thời từ đó các em học tốt các môn học khác. Để có phương pháp dạy tốt môn tập
đọc ở lớp ba với địa bàn miền núi, vùng cao khi học sinh còn chậm hiểu cả tiếng phổ
thông này, đòi hỏi giáo viên phải làm thế nào giúp học sinh hiểu, yêu thích và hứng thú
trong giờ học tập đọc. Chính vì những lý do trên, tôi nghiên cứu viết đề tài này mong
muốn đem lại những kinh nghiệm, tôi đã thực hiện trong những năm dạy học, đặc biệt là
trong phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp ba để góp phần nâng cao chất lượng dạy
phân môn này nói riêng và môn Tiếng việt nói chung. Đến với hội thi Giáo viên dạy giỏi
cấp tỉnh đợt này tôi mạnh dạn báo cáo kết quả nghiên cứu “Sáng kiến kinh nghiêm: Tìm
hiểu một số phương pháp dạy học tôt môn tập đọc ở lớp 3”.
Đây là môt sáng kiến mà tôi đã dày công nghiên cứu từ năm học 2008- 2009 và đã
được áp dụng cho các đồng nghiệp giảng dạy tại trường đạt được kết quả tốt. Song trong
quả trình nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế tôi rất mong được sự giúp đỡ của Hội đồng
đánh giá các cấp xem xét và giúp đỡ, tạo điều kiện để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày
được hoàn thiện hơn.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp GD nói chung, GD tiểu học nói riêng ,đây là một bậc học vô cùng
quan trọng . Nó là một hệ thống hoạt động phân công lao động xã hội mà nhiệm vụ cơ
bản của nó là truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm thực tế có liên quan đến kiến thức ấy
là xã hôi hóa, là chuẩn bị cho các thành viên của xã hội đi vào lao động nghề nghiệp.
Song trước hết là việc truyền thụ có hệ thống những kiến thức cơ bản khoa học mà việc
nắm được những kiến thức ấychủ yếu là dựa trên trình độ nhận thức bằng trừu tượng và
lô gích những kiến thức và kĩ năng đó được quy định mà học sinh có thể đạt được.Ta biết
rằng khả năng trí tuệ của mỗi con người phụ thuộc vào sự nghiệp tinh thần trong thời kì
thơ ấu được kích thích có hiệu quả đến mức độ nào .Vì rằng mọi sự thiếu sót đó do sự
chăm lo phát triển trong thời kì thơ ấu không đầy đủ, đúng mức, sau này sẽ phải bù lại
một cách rất khó khăn thậm trí không thể bù lại được những năm đó. Trong giai đoạn từ 6
tuổi đến trường, nếu các em không được khen không được động viên kịp thời về những
năng lực đã đạt được thì các em sẽ có cảm giác về sự kém cỏi và tự ti .Do vậy người giáo
viên trong quá trình dạy học, nếu không nắm được tâm sinh lí của các em thì mắc phải
một khiếm khuyết lớn trong công tác giáo dục. Để phù hợp với những biến đổi về cơ cấu
trong giáo dục đã điều chỉnh và bổ xung chương trình và nội dung các môn học đảm bảo
9 môn học bắt buộc . Vì rằng học sinh tiểu học đã học đầy đủ các môn có ý nghĩa quan
trọng, điếu đó góp phần giáo dục toàn diện sự hình thành và phát triển những nền tảng cơ
bản của nhân cách con người. Chắc trong mỗi chúng ta ai cũng rõ trong 9 môn học, chỉ
có hai môn học nhiều tiết là Toán và Tiếng việt.
Từ đặc tâm lý của các em (lớp 1, lớp 2) dễ nhớ và cũng hay chóng quên đi phần
nào. Từ đó môn tập đọc góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở
bậc tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình. Việc giảng dạy bộ môn tập đọc trong nhả
trường nhằm tạo cho các em năng lực sử dụng Tiếng việt, văn hóa để suy nghĩ, giao
tiếp và học tập phát triển các kỹ năng đọc và nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt,
vốn văn học để phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ
thể. Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt. Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở
rộng hiểu biết về cuộc sống cung cấp mẫu để hình thành một số kĩ năng để phục vụ cho
đời sống và việc học tập của bản thân như điền vào các tờ khai ( đơn giản), làm đơn, viết
thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của lớp.
- Phát triển một số tư duy cơ bản như: phân tích, tổng hợp, phán đoán…
- Bồi dưỡng tư duy, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái đẹp,
cái thiện thái độ ứng xử đúng mức trong cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng
việt, cụ thể:
+ Bồi dưỡng trẻ yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ,
thầy cô, yêu trường yêu lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè ,vị tha nhân hậu.
+ Xây dựng và năng lực thể hiện những phép xã giao tối thiểu.
+ Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, hình thành
phát triển ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm thụ vể đẹp của
Tiếng việt.
Tất cả những lý do trên theo tôi nghĩ không phải là một vấn đề hoàn toàn đơn giản
của môn tập đọc nói riêng và môn tiếng việt nói chung, mà nó là cả một qúa trình tích
hợp theo chiều ngang giữa kiến thức tiếng việt, với các mảng kiến thức về văn học, về
thiên nhiên, con người và xã hội. Xây dựng các đơn vị kiến thức kỹ năng theo nguyên
tắc đồng tâm. Kiến thức và kỹ năng của bài học sau ở lớp trên bao hàm kiền thức, kỹ
năng của bài học trước của lớp dưới, nhưng được phát triển sâu rộng hơn. Xét về đặc
điểm tâm lý, mỗi học sinh tiểu học là một chỉnh thể nhận thức của các em mang tính tổng
hợp và thiên về cảm tính. Khả năng phân tích và nhận thức lý tính chưa cao, việc tiếp thu
kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ đối với lứa tuối các em cần được diễn ra trong một
mối liên hệ tương tác, trọn vẹn và liên tục bằng những hành động cụ thể và sống động.
Do vậy môn Tiếng việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho
học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động tương
ứng. Tương ứng với chúng là bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc, viết” là một dạng hoạt động
ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng từ hình thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và
thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc thành tiếng). Là quá trình chuyển trực tiếp từ hình
thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh ( ứng với đọc thầm ).
Trong đó đọc không phải là công việc giải bộ mã gồm hai phần chữ viết và phát
âm. Nghĩa là nó không chỉ là sự đánh vần lên tiếng theo những ký hiệu đúng chữ viết và
còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu khái niệm “ đọc” một cách đầy
đủ. Nhiều chỗ chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, còn việc từ sang
nghĩa đã không được chú ý đến.
Vì vậy phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học nói chung và phương pháp dạy tập đọc
ở lớp 3 nói riêng đều mang tính tổng hợp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là người giáo
viên phải hình thành được kỹ năng đọc cho học sinh, đó là một trong những kỹ năng cơ
bản nhất. Yêu cầu một học sinh đọc có chất lượng tốt là phải đọc đúng, ngắt nghỉ đúng,
đọc nhẩm, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa đồng đều,
một số đọc còn yếu, một số giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho học sinh tiểu học,
chưa tìm ra biện pháp dạy môn tập đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nguyên nhân của
đọc yếu và đọc chưa tốt của học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng dạy
của giao viên, ngôn ngữ địa phương, do tài liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung
chung, chưa đi sâu vào nội dung bài, cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế. Do
vậy giờ dạy chưa đạy kết quả cao, dẫn đến học tốt môn tập đọc còn hạn chế.
Trước những vấn đề trên tôi đã nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm “ Phương
pháp dạy học tốt môn tập đọc lớp 3 ở bậc tiểu học” để giúp các em học tốt, có khả năng
giao tiếp tốt, viết được bài văn hay, có cảm nhận về văn học, yêu thích môn tiếng việt và
tích cực đến lớp, đến trường học.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu phương pháp dạy học tốt ở môn tập đọc lớp 3 thuộc phân môn tập đọc
lớp 3 của tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nhắc lại các phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và phương
pháp dạy phân môn tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời đề xuất những biện pháp cụ thể ở
một số bài học cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập đọc học sinh lớp 3.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Tôi chọn học sinh lớp 3 trường tiểu học Phú Thượng II là lớp tôi chủ nhiệm và trực
tiếp giảng dạy năm học 2008- 2009 với:
Tổng số học sinh: 18 em. Trong đó:
Nam: 12; Nữ: 6; Dân tộc: 17; Khuyết tật: 4.
* Kết quả khảo sát môn Tiếng việt đầu năm như sau:
Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu
18 5 ( 27,78 %) 5 ( 27,78%) 4 ( 22,22%) 4 ( KT3 )
( 22,22%)
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp
sau:
- Thu thập các tài liệu như: sách tham khảo, các tập san báo giáo dục thời đại, giờ
dạy mẫu trên Ti vi, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy tiếng việt lớp 3.
- Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn về nội
dung và cấu trúc.
- Phương pháp trao đổi với giáo viên và gia đình học sinh.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi và phương pháp kiểm tra
đánh giá.
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Mục đích tác dụng của phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung
và phương pháp giảng dạy môn tập đọc ở lớp 3 nói riêng.
Mục đích dạy môn tập đọc:
Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là phân môn
thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các môn
học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở mức đầy đủ
và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc đúng, đọc nhanh, đọc
hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành cho trẻ thói
quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo khoa. Qua đó nhà
trường là thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua đọc giúp các em thích đọc
và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc sống và phát triển trí tuệ văn minh. Qua
đó giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của các em.
II. Phân tích tài liệu dạy học.
1- Quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới.
Dựa theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm phân tích và quan điểm tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh.
* Quan điểm giao tiếp.
Để thực hiện mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng
tiếng việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi”. Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ
bản.
Có thể hiểu giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm thiết
lập quan hệ, sự hiểu biết và sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội. Người ta giao
tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan trọng
nhất là ngôn ngữ. Vì hành động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mã nhận thông tin và
ký mã phát thông tin, trong ngôn ngữ mỗi hành vi đều có thể thực hiện bằng hai hình
thức là khẩu ngữ nghe, nói và bút ngữ đọc viết.
Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện, nội dung và phương
pháp dạy học. Về nội dung thông qua phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và
câu, tập viết, tập làm văn. Tiếng việt lớp 3 tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc
để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những kiến thức nền tảng và phát
triển các kỹ năng tiếng việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kỹ năng nói
trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những giao tiếp
tự nhiên.
* Quan điểm tích hợp.
Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm trí một tiíet học hay một bài tập
nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục
và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. có thể thực hiện tích hợp theo chiều ngang
và chiều dọc. Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp tiếng việt với các mảng kiến thức về
văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích hợp này
được sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 thực hiện thông qua các chủ điểm học tập. Theo
quan điểm tích hợp, các phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ và câu,
tập làm văn trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xoay quanh trục chủ điểm
và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt
chẽ với nhau hơn trước.
Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng đã học
trước đó theo nguyên tắc đồng tâm đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc, cụ thể là kiến
thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kỹ năng của lớp dưới,
bậc học dưới nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới.
Dĩ nhiên trong tích hợp vẫn có điểm nhấn, không nắm được điểm nhấn này giáo
viên hiểu lệch yêu cầu tích hợp, dẫn tới sa đà. Ví dụ: bây giờ tập đọc thành giờ dạy đạo
đức hay luyện từ và câu…Để nắm vững trọng tâm của mỗi tiết học, bài học, giáo viên
cần đọc kỹ phần mục đích, yêu cầu của mỗi tiết học, mỗi bài học nêu trong sách giáo
viên.
* Quan điểm tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình và sách giáo
khoa lần này là đổi mới phương pháp dạy và học. Chuyển từ phương pháp truyền thụ
sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó thầy cô đóng vai trò
người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh
đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Để theo phương pháp tích cực hóa các hoạt động của học sinh, sách giáo khoa
Tiếng việt không trình bày kiến thức như là những kết quả sẵn có mà xây dựng hệ thống
câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức
và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng việt, sách giáo khoa Tiếng việt 3 hướng dẫn giáo viên
cách thức cụ thể tổ chức các hoạt động này.
2. Nội dung sách giáo khoa Tiếng việt 3.
a. Các đơn vị học.
Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với
một chủ điểm, học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học trong 3 tuần, cả năm
học 35 tuần. Cụ thể như sau:
Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường học);
Cộng đồng ( sống với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung – Nam (các
vùng miền trên đất nước ta); Anh em một nhà (các dân tộc anh em trên đất nước ta);
Thành thị - Nông thôn.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa học,tri thức);
Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số vấn đề toàn cầu như hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời và mặt đất (các hiện tượng thiên
nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ trụ).
b. Các phân môn.
Môn tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe và nói. Bên cạnh đó thông qua hệ
thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc;
phân môn tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con
người, cung cấp vốn từ, vốn, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học, đề tài,
cốt chuyện, nhân vật…góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.
- Phân môn Kể chuyện: Rèn luyện kỹ năng nói, nghe.
- Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con
đường quy nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, nói, viết.
- Phân môn tập làm văn: Rèn luyện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
c. Cấu trúc của một đơn vị học:
Trong một tuần học gồm:
- Tập đọc, kể chuyện ( 2 tiết ).
- Chính tả.
- Tập đọc (1 tiết): 1 bài thơ, hoặc một bài văn thông thường.
- Luyện TVC: 1 tiết.
- Tập viết (1 tiết).
- Tập làm văn ( 1tiết).
* Ưu điểm sách giáo khoa:
Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình độ của
học sinh. sách giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu trúc rõ ràng
nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân môn trong tiếng việt, tạo ra tính tổng
hợp, tính thống nhất của các phân môn. Nội dung sách giáo khoa cũng thể hiện được yêu
cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo một hệ thống,
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện rất rõ tính khoa học của sách.
* Hạn chế của sách giáo khoa:
Một số kiến thức còn trìu tượng, tranh ảnh trong sách phục vụ bài còn sơ sài. Phần
hướng dẫn tìm hiểu bài ở sách giáo khoa là những câu hỏi, mà câu hỏi lại mang tính khái
quát trìu tượng, làm cho học sinh khó hiểu ngay. Đồng thời câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh
dùng một phương thức hành động duy nhất là “ dùng lời”. Điều này có những hạn chế số
lượng học sinh làm việc trên lớp còn ít, tại vì tại thời điểm đó chỉ có một em trả lời câu
hỏi, các em khác chỉ được nghe, giáo viên hầu như không kiểm soát được hết lớp, các em
đã nghe và hiểu nội dung như câu hỏi các em đã trả lời. Chính vì thế giờ dạy tập đọc chưa
thực sự tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh. Tất cả những điếu đó đều tác
động vào làm hạn chế trong giờ dạy tập đọc, chất lượng thấp hơn giờ toán.
* Khắc phục hạn chế này:
- Một số kiến thức trìu tượng này theo tôi, giáo viên nên cho tất cả học sinh đều
được hoạt động tự khám phá bằng cách giáo viên gợi mở cho học sinh hoạt động theo
nhóm để hiểu được hình thức trìu tượng đó.
- Với phần câu hỏi trìu tượng, giáo viên chia câu hỏi ra thành nhiều câu hỏi nhỏ và
cũng cho học sinh hoạt động theo nhóm, rồi giáo viên chốt ý bằng câu hỏi trìu tượng
trong sách.
III. Phương pháp dạy học môn tiếng việt nói chung và phương pháp dạy môn tập
đọc lớp 3 mới nói riêng.
1. Phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 mới:
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung
đòi hỏi một phương pháp thích hợp các kỹ năng giao tiếp không thể được hình thành và
phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này, học sinh
phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của người thầy. Các
kỹ năng về ngôn ngữ, văn hóa, tự nhiên và xã hội đều có thể được tiếp thu qua lời giảng,
nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng
chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy những tư tưởng tình cảm và nhân
cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện thực tế. Đó là
những lý do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương pháp tích cực
hóa của người học.
- Tích cực hóa họat động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy
người học làm trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò người tổ chức hoạt động của
học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được
phát triển.
Hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp dạy mới. Trong môn
tiếng việt, hoạt động của học sinh có thể là hoạt động giao tiếp là đặc thù của môn tiếng
việt, hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết như ở các môn học khác. Cả hai
loại hoạt động trên có thể được ttổ chức theo nhiều hình thức khác nhau:
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập đề ra rất
cụ thể, học sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi, bài tập tương
đối trìu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định và trong trường hợp nếu làm việc
chung theo đơn vị lớp sẽ có ít học sinh được hoạt động thì làm việc theo nhóm là giải
pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu trong
trường hợp giáo viên thực hiện các khâu: giới thiệu bài, củng cố bài, nêu những câu hỏi
không yêu cầu phải suy nghĩ lâu hoặc để học sinh trình bày kết quả làm việc.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về phần
giáo viên chủ yếu là:
- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho học sinh
làm mẫu một phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.
- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh có hiểu
việc phải làm không? và trả lời thắc mắc của học sinh.
- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:
Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong nhóm,
báo cáo trước lớp.
Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng con, bằng bảng trên lớp, bằng
phiếu học, bằng giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.
- Tổ chức đánh giá.
Các hình thức đánh giá:
+ Tự đánh giá.
+ Đánh giá nhóm.
+ Đánh giá trên lớp.
Các biện pháp đánh giá như: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.
2. Phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp 3 mới.
* Nội dung dạy học:
- Rèn luyện kỹ năng đọc: Rèn luyện năng đọc thành tiếng và đọc thầm thông qua
93 bài tập đọc thuộc các loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính,
văn bản báo chí vv… Trong đó có 30 bài thơ từ 4 - 5 đến 7 tiếng, thơ lục bát, thơ tự do,
63 bài văn xuôi, chuyện, văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông
thường.
Rèn kĩ đọc hiểu văn bản thông qua phần hướng dẫn văn bản sư phạm cuối bài tập
đọc chú thích và giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài, giúp học sinh nắm được ý
chính của đoạn, tập nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật, chi tiết trong bài tập đọc.
Kết hợp rèn kỹ năng nghe, nói.
Qua việc hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài, giáo viên giúp các em có
cơ hội rèn luyện kỹ năng nghe nói, nghe giáo viên và các bạn đọc, nghe giáo viên hướng
dẫn bài học hoặc các bạn trả lời câu hỏi, nói trước lớp hoặc trao đổi với bạn bè về nội
dung bài học.
Cung cấp và mở rộng vốn sống.
Các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 phản ánh nhiều lĩnh vực
khác nhau là gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh em trên
đất nước ta đến hoạt động các văn hóa giáo dục, khoa học, thể thao và các vấn đề lớn của
xã hội như bảo vệ hòa bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ
môi trường sống, chinh phục vũ trụ.
Thông qua hệ thống bài tập đọc qua chủ điểm và các lĩnh vực khác nhau qua
những câu hỏi, bài tập khai thác nội dung bài, phân môn tập đọc còn cung cấp cho học
sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt,
những hiểu biết về tác phẩm văn học như đề tài, cốt truyện, nhân vật, qua đó rèn luyện
nhân cách cho học sinh.
* Phương pháp tập đọc.
1- Phương pháp đàm thoại :
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ ở lứa tuổi tiểu học, các em thích hoạt
động và hoạt động bằng lời nói, giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, học
sinh tự trả lời toát ra nội dung bài, muốn đọc diễn cảm được bài thì trước hết phải cảm
thụ được bài văn, phải tái hiện được các nhân vật có hình tượng đẹp, hoặc nhân vật, nội
dung chính trong bài. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn các em bằng câu hỏi dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ trả lời.
2- Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Giáo
viên có thể dùng nhiều hình thức trực quan: trực quan bằng lời nói, trực quan bằng dáng
điệu, trực quan bằng nét mặt, trực quan bằng các động tác hình mẫu, trực quan bằng vật
thực, trực quan bằng tranh ảnh, trực quan bằng băng hình.
- Trong đó trực quan bằng giọng điệu của giáo viên là hình thức trực quan sinh
động và có hiệu quả cao nhất có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc, mỗi bài thơ,
bài văn viết ở thể loại khác nhau, nên mỗi bài có giọng đọc khác nhau, có bài giọng
nghiêm trang, trầm lắng, có bài giọng đọc tình cảm, âu yếm, có bài đọc với giọng phấn
khởi, náo nức. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại, ngữ điệu, tránh đọc một cách đều
đều. Khi đọc phải biểu hiện tình cảm qua ánh mắt, nụ cười.
- Trực quan bằng dáng điệu: Giáo viên thể hiện được dáng điệu đúng nội dung bài
học, giúp học sinh hiểu và dễ nhớ.
- Trực quan bằng nét mặt: Nét mặt giáo viên bộc lộ vui buồn theo giọng đọc và
theo nội dung bài.
- Trực quan bằng vật thực: Khi giảng giáo viên dùng vật thực để học sinh minh
họa theo bài.
- Trực quan bằng tranh ảnh: Giáo viên đưa tranh ảnh mẫu phù hợp với nội dung
bài.
- Trực quan bằng băng hình: Giáo viên cho học sinh nghe giọng đọc của học sinh
đọc, có thể cho học sinh luyện đọc theo.
3- Phương pháp luyện đọc thực hành:
Là phương pháp chủ yếu trong giờ tập đọc. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh được rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo về đọc, có thể đọc đồng thanh, đọc cá nhân, đọc
nhóm để phát hiện từ quan trọng, những hình ảnh tiêu biểu, làm các bài tập để xác định
cách đọc và trhông hiểu về nội dung, nắm ý chính. Thông qua đọc đoạn, nắm được mục
đích đọc chủ yếu, đọc cá nhân, trả lời câu hỏi để thấy được kết quả ngay tại lớp.
4- Phương pháp trò chơi:
Đây là một phương pháp mới giúp cho học sinh có hứng thú khi đọc bài. trong
cuối mỗi tiết tập đọc giáo viên tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức chơi trò chơi
bằng cách: thi đọc phân vai theo nhân vật; thi đọc diễn cảm một đoạn văn hoặc một đoạn
thơ. Trước khi học sinh tham gia trò chơi thi đọc giáo viên đưa ra tiêu chuẩn đánh giá để
giúp học sinh nắm được cách chơi, luật chơi, cách nhận xét đánh giá cho điểm để tạo cho
học sinh tham gia chơi một cách tích cực, vui vẻ, bổ xung cho giờ học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại: Muốn để phân môn tập đọc đạt kết quả cao, thì người giáo viên phải kết
hợp một cách linh hoạt các phương pháp trên thì giờ dạy mới không ngắt quãng, gián
đoạn. Người giáo viên phải luôn biết lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của người giáo
viên trong tiết học chỉ là người hướng dẫn, tổ chức tiết học sao cho phù hợp với đối
tượng của học sinh mình, giúp học sinh tìm ra cách đọc tốt nhất, đọc hiểu nội dung trong
bài tập đọc trong giờ tập đọc.
II. CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
* Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình viết đề tài.
1. Thực trạng nhà trường và địa phương.
Trường Tiểu học Phú Thượng II đóng tại địa bàn xóm Ba Nhất, xã Phú Thượng,
là một xã miền núi đặc biệt khó khăn, diện tích tương đối rộng, dân cư thưa thớt, toàn bộ
là dân tộc ít người (dân tộc Dao) và làm nghề nông nghiệp do đó kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn, trình độ dân trí thấp, cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em mình, do
vậy việc học tập của học sinh còn nhiều hạn chế.
Năm học 2008 – 2009 trường chỉ có 6 lớp( một lớp lẻ ở phân trường), trong đó chỉ
có một lớp 3. Nhưng được sự quam tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục – đào tạo, trực tiếp
là Ban giám hiệu nhà trường, tập thể luôn đoàn kết, đoàn kết giúp nhau hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
2. Điều tra khảo sát lớp 3.
Lớp 3 có 18 học sinh, trong đó nam: 12; nữ: 6; có 4 học sinh khuyết tật, 17 em là
dân tộc Dao. Do học sinh không đồng đều về độ tuổi nên trình độ nhận thức của học sinh
cũng không đồng đều. Vào đầu năm học nhà trường tiến hành kiểm tra khảo sát chất
lượng học sinh. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3, qua khảo sát chất lượng học sinh
cho thấy: số học sinh đọc được lưu loát chỉ có 4 em, 5 học sinh đọc được nhưng chậm,
còn lại số học sinh khi đọc còn đánh vần…80% số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ
giọng khi cần thiết, đọc chưa biết ngắt nghỉ câu, nhất là đọc các câu thơ. Ví dụ: ngọng
phụ âm đầu: ch/tr; r/gi/d hoặc vần: ương/ ươi; an/at; các dấu sắc, ngã vv…và hầu như các
em không hiểu nội dung bài.
3. Dự giờ của giáo viên.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một số đồng
nghiệp khác dạy phân môn tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện đủ các bước lên
lớp, nhưng phần luyện đọc chưa thích đáng, chưa đưa ra được phương pháp cách đọc cho
học sinh, chủ yếu là quam tâm đến đọc đúng câu, đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi nhận
xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thể
hiện cách đọc bài văn, bài thơ này cần đọc như thế nào? tại sao phải đọc như vậy? hoặc
giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của bài để khi đọc phô diễn
nội dung bài đọc. Chính vì những thiếu xót trên mà giờ học chưa đạt kết quả cao, học
sinh chưa đọc được tốt.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP.
1. Nhu cầu đổi mới phương pháp nói chung.
Thực tế dạy học đòi hỏi phải đổi mới theo xu hướng chung của Việt Nam và thế
giới trong mục đích đào tạo con người. Nhu cầu đổi mới ấy được đặt ra rất cấp thiết trong
các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Trường tiểu học phải rèn luyện
tính cách cơ bản cho trẻ.Vì vậy đòi hỏi phải dạy học theo hướng tích cực hóa này, đó là
dạy tập trung vào người học. Vì nền kinh tế, văn hóa xã hội đang đổi mới từng giờ, từng
ngày, nên đòi con người phải năng động, sáng tạo, do đó mục tiêu đào tạo phải đồng thời
đổi mới về phương pháp giảng dạy.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và
cũng là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục có chất lượng ở tiểu học, điều đó cũng đòi
hỏi phải nâng cao trình độ của giáo viên.
2. Vấn đề nâng cao trình độ của giáo viên.
Trong thời kỳ giáo dục đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải đạt
một trình độ chuẩn về nhận thức văn hóa và phương pháp thì mới có thể có những câu
hỏi xác đáng, dễ hiểu, phải kết hợp hài hòa giữa hỏi và giảng. Giáo viên cần hiểu rõ mục
đích của bài giảng thì mới có thể xây dựng được phương pháp đúng.
3. Biện pháp dạy học chủ yếu của phân môn tập đọc đã ứng dụng trong thực tế và
có hiệu quả.
- Đối với học sinh vùng miền núi, dân tộc ít người, biện pháp dạy tập trung cần
thực hiện yêu cầu tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc từ 60-> 70 tiếng/
phút, nắm được ý cơ bản của bài học, để đạt được yêu cầu này giáo viên cần chú trọng
hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn học sinh kết hợp hình thức đọc theo nhóm để
học sinh tham gia nhiều lần đọc trong một tiết học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không
khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh còn rụt rè vào hoạt động học, đảm bảo toàn bộ học
sinh được tham gia luyện đọc và đọc được càng nhiều càng tốt, giáo viên hạn chế đọc
phân vai, đọc thầm.
Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó chưa gần gũi với học sinh
dân tộc. Tận dụng tối đa tranh minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên cần giải nghĩa một
cách cụ thể để học sinh dễ nhận biết, cũng vì vốn từ tiếng việt của các em còn hạn chế,
giáo viên cần phải chú ý ghi rõ lên bảng các từ khó khi phát âm để học sinh theo dõi một
số câu hỏi khó giáo viên chia nhỏ và gợi mở cho học sinh, dành nhiều thời gian vào đọc
rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” tuần 13, giáo viên cần tập trung
cho học sinh học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 và 4 dễ ngắt hơi.
Những học sinh khá giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ biểu cảm. Để tăng thời
gian cho việc đọc rõ ràng, mạch lạc giáo viên phải giảm bớt phần tìm nội dung bài,
những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2 câu hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng
Kông Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh theo dõi sách giáo khoa và nên gọi học sinh
đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng Kông Hoa một ảnh Bác Hồ vác cuốc đi làm rẫy…cho
Núp”. Khi xem những vật đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu cầu học sinh đọc
đoạn: “ Khi xem những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem đó là những
vật tặng thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng thứ, coi đi coi
lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những câu hỏi khác được
giáo viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích… Đó cũng chính là những kinh nghiệm của
tôi dạy môn tập đọc mới lớp 3 đối với vùng miền núi. Còn những biện pháp dạy học chủ
yếu vẫn là theo mục đích đề ra. Đó là:
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học sinh nhận
xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình dạy học.
- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần nâng cao
về ý thức viết đúng cho học sinh.
Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Giáo viên phải xác định những từ ngữ trong bài
cần tìm hiểu, đó là những từ ngữ chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học
sinh chưa quen, vì từ ngữ đóng vai trò quan trọng để học sinh hiểu nội dung bài đọc, nên
giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại phần giải nghĩa trong sách giáo khoa hoặc giáo viên
dùng đồ dùng dạy học như: tranh, ảnh,vật thật, mô hình để giải nghĩa từ giúp học sinh
hiểu hơn, song không nên giải nghĩa quá nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp kồng kềnh
làm cho giờ tập đọc thiên về học từ ngữ một cách nặng nề.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Giáo viên căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh
tìm hiểu nội dung bài, có thể nêu nguyên văn hoặc gợi dẫn bằng 1,2 câu hỏi phụ để học
sinh dễ trả lời, tùy thuộc vào học sinh trong lớp, tránh đặt thêm câu hỏi khai thác nội
dung một cách quá yêu cầu bài học và không phù hợp với trình độ học sinh lớp 3.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc thầm và trả lời
đúng nội dung, đôi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác
đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận những vấn đề giáo viên nêu ra.
Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh
luyện tập một cách tích cực như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp để trả lời.
Trong quá trình trả lời câu hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả lời ngắn gọn, diễn
đạt lưu loát, sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại ý chính.
3. Những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng học sinh cần đạt được khi học môn tập
đọc.
- Trau dồi về kiến thức văn học.
- Yêu cầu kĩ năng khi học môn tập đọc.
- Môn tập đọc là môn thực hành tiếng việt, do vậy khi dạy môn tập đọc cần rèn
cho học sinh 4 kỹ năng đọc như sau:
+ Đọc đúng.
+ Đọc nhanh.
+ Đọc thầm, đọc hiểu.
+ Đọc diễn cảm.
4. Các biện pháp thực hiện.
Để thực hiện được tốt 4 kỹ năng trên, người giáo viên cần phải có những biện
pháp thực hiện như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Mọi sự thành công trong tiết học
phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bài dạy tùy từng nội dung của từng bài, từng tiết
học. Do đó giáo viên cần thiết kế giáo án cho phù hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ, những kinh nghiệm đã từng
vận dụng xen lẫn vào các tiết dạy.
a. Luyện đọc đúng.
Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần , tiếng, đọc đúng
phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói
cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm
đọc đúng, thanh, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ( đọc đúng ngữ điệu). Luyện đọc đúng phải rèn
cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng việt. Học sinh trường tôi thường khi đọc