Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.03 KB, 32 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC DẠY CÁC DẠNG BÀI TẬP LUYỆN
TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 3 "
Mở đầu
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và cho bậc tiểu
học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy là mối quan tâm chúng của toàn xã hội.
Đã có nhiều những cải cách giảng dạy mới được đưa vào giảng dạy ở trường học. Chính
sự đổi mới phương pháp giáo dục ở bậc Tiểu học sẽ góp phần quan trọng cho việc thực
hiện mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục là đào tạo con người mới, con người lao động
tự chủ, năng động, sáng tạo, có kỷ luật, có năng suất cao trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xu hướng đối mới của phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên
không chỉ là người truyền thụ kiến thức, mà còn là người tổ chức, định hướng cho học
sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết để chiếm lĩnh tri thức mới. Làm sao
để người thầy là người chỉ đạo, học sinh hoạt động tích cực nhiều hơn. Trong phạm vi
môn Tiếng việt ở Tiểu học nhiều cơ hội về phương pháp, về nội dung kiến thức được đặt
ra từ thực tế lên lớp, đòi hỏi mỗi giáo viên phải tìm lời giải đáp nhằm phục vụ yêu cầu
giảng dạy.
Xuất phát từ mục đích đó mà trong từng môn học, tiết học, cần phải biết vận dụng,
kết hợp, đưa vào những phương pháp dạy học sao cho phù hợp, đấy là vấn đề thiết thực
hưởng ứng cuộc vận động sâu rộng trong toàn ngành về đổi mới phương pháp dạy học ở
Tiểu học.
1- Lý do chọn đề tài:
1.1/ Hiện nay để hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi Bộ
giáo dục và đào tạo triển khai đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục - đào tạo. Xu hướng
phát triển chương trình và đổi mới về sách giáo khoa của giáo dục phổ thông nói chung, ở
Tiểu học nói riêng theo 4 cột trụ giáo dục của thế kỷ XXI do UNESCO đề xướng: Học để
biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình. Chương trình
Tiểu học mới nhằm kế thừa và phát triển những thành tựu, khắc phục những tồn tại của
chương trình cũ. Đây là chương trình sẽ được áp dụng thống nhất trong cả nước để góp


phần thực hiện bình đẳng trong giáo dục. Cùng với những đổi mới về nội dung dạy học là
sự đổi mới về phương pháp dạy học và tăng cường thời lượng dạy học ở tiết học nhằm
khuyến khích các trường, lớp dạy học nhiều hơn 5 buổi trên tuần tiến tới dạy 2 buổi trên
ngày.
Chương trình tiểu học 2000 tập trung vào cách học điều này đòi hỏi phải đổi mới
cấu trúc và cách thể hiện nội dung sách giáo khoa. Những dấu hiệu đổi mới phương pháp
dạy học là học sinh phải hoạt động. Như vậy, nội dung học rất đơn giản đòi hỏi người học
phải tự tìm tòi khám phá, chiếm lĩnh và vận dụng.
Chương trình giáo dục Tiểu học khuyến khích giáo viên phải sử dụng đúng lúc,
đúng mức, đúng chỗ các phương pháp dạy học truyền thống cũng như các phương pháp
dạy học hiện đại. Để phát huy tối đa các mặt mạnh và từng phương pháp sự phối hợp các
phương pháp dạy học, đổi mới đồng bộ về nội dung, về sách và thiết bị dạy học về nâng
cao trình độ của giáo viên…
1.2/ Khái niệm ngữ pháp mang tính trừu tượng và khái quát cao. Việc tìm hiểu vốn
từ của học sinh Tiểu học là việc làm cần thiết. Luyện từ và câu là một phân môn khó, ít
lôi cuốn học sinh Tiểu học. Đây chính là khó khăn trong qúa trình hình thành ngữ pháp ở
học sinh. Quá trình hình thành các khái niệm ngữ pháp cũng đồng thời là quá trình học
sinh nắm những thao tác tư duy. Những học sinh gặp khó khăn trong việc tách ý nghĩa
ngữ pháp của từ ra khỏi ý nghĩa của từ vựng của nó, không đối chiếu được từ và tập hợp
được chúng một nhóm theo những dấu hiệu nội dung, bản chất sẽ gặp khó khăn trong
việc hình thành khái niệm và sẽ bị mắc lỗi.
Để học sinh nắm được những khái niệm ngữ pháp thuận lợi cần đảm bảo nguyên
tắc thống nhất giữa hình thức và nội dung khi dạy ngữ pháp đây cũng là một vấn đề khó
đối với giáo viên, phải làm thế nào để giúp học sinh nhận ra được dấu hiệu nội dung và
dấu hiệu hình thức của hiện tượng ngữ pháp được nghiên cứu đồng thời nắm được chức
năng của nó trong lời nới.
Việc hình thành kỹ năng nghe, đọc, nói, viết là một mục tiêu của phân môn luyện
từ và câu giúp cho học sinh có điều kiện và phương tiện cần thiết trong học tập. Việc hình
thành kỹ năng này là chìa khoá cho sự phát triển nhận thức đúng đắn. Nắm được ngôn
ngữ lời nói cũng là điều thiết yếu của việc hình thành tích cực xã hội hoá của nhân cách.

Mục đích dạy luyện từ và câu cũng nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về từ
vựng, ngữ pháp để thực hiện tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và viết.
Kết quả học tập củ học sinh phản ánh chất lượng của một nền giáo dục để học sinh
học tốt thì giáo viên phải dạy tốt. Trên cơ sở nắm vững nội dung chương trình người giáo
viên tổ chức cho học sinh tiến hành hoạt động học để chiếm những tri thức. Như vậy, mỗi
giáo viên phải tự biến quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình tự học của học
sinh, biết dạy học sinh cách học và tự học. Điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải có một
trình độ sư phạm lành nghề, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, có phát kiến mới trong dạy học,
nắm vững nội dung kiến thức lớp mình, trang bị cho mình một kiến thức và phương pháp
dạy học nhằm phát huy tính năng động và chủ động của học sinh, tạo cho học sinh khả
năng làm việc độc lập và tự giải quyết các tình huống nảy sinh trong cuộc sống.
1.3/ Để thực hiện được kết quả dạy học như mong muốn, phù hợp với xu thế hiện
đại của thế giới thì chương trình Tiếng việt năm 2000 đã đổi mới. Theo quan niệm mới
thì chương trình tiểu học là sự cụ thể hoá mục tiêu giáo dục tiểu học bằng một kế hoạch
hoạt động sư phạm. Mục tiêu cuối cùng của chương trình Tiểu học năm 2000 nhằm đem
lại.
- Chất lượng mới cho phổ cập tiểu học trong đó tập trung vào:
+ Các kỹ năng cơ bản về đọc, viết, tính toán và các cơ sở ban đầu
+ Trình độ học tập toàn diện, thiết thực ở Tiểu học.
+ Các năng lực chủ chốt để bước đầu thích ứng với cuộc sống.
- Phương pháp học tập dựa trên các hoạt động tích cực chủ động, sáng tạo của học
sinh nhằm: Thay đổi cơ bản về cách dạy thụ động hiện nay; nâng cao hiệu quả đào tạo
con người, đặc biệt về phương pháp suy nghĩ, làm việc khoa học đổi mới và sáng tạo.
- Góp phần bước đầu hình thành và phát triển hệ thống giá trị con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế.
Dạy Tiếng việt trong đó có luyện từ và câu thông qua hoạt động giao tiếp nhằm đạt
được mục tiêu đề ra là một trong những nguyên tắc chỉ đạo của việc xây dựng chương
trình mới vì vậy để khắc phục những hạn chế của chương trình cũ và đáp ứng những yêu
cầu của xã hội Bộ GD&ĐT đã chủ trương soạn thảo và đưa vào nhà trường bộ sách giáo

khoa mới và chương trình 2000 trong đó có sách giáo khoa môn Tiếng việt và được thực
hiện dạy trên khắp đất nước.
Là người làm công tác quản lý bản thân tôi thấy cần phải tìm hiểu và nắm vững nội
dung chương trình, sách giáo khoa đặc biệt là chương trình 2000 để trang bị ngày càng
nhiều hơn cho mình vốn kiến thức từ đó thực hiện tốt công tác quản lý nhằm đạt được
mục tiêu, yêu cầu của chương trình mới đề ra.
Qua việc tìm hiểu nội dung sách giáo khoa đặc biệt là phân môn luyện từ và câu
lớp 3 bản thân tôi cũng được trao đổi thêm vốn kiến thức Tiếng việt có thêm những nhận
định cụ thể (Ưu điểm, tồn tại) của sách giáo khoa để bộ sách hoàn thiện hơn.
Với lýdo cơ bản trên đây nên tôi đã chọn đề tài: “Dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết
về từ loại qua phân môn luyện từ và câu lớp 3 - Chương trình năm 2000”.
Qua nghiên cứu đề tài này bản thân đã định ra được mục đích sau:
+ Tìm hiểu nội dung luyện từ và câu chương trình lớp 3 để thấy được sự thay đổi so
với chương trình 165 tuần kể cả nội dung cấu trúc phương pháp.
+ So sánh nội dung giữa các lớp trong cùng một chương trình để thấy tính liên tục
và sự kế thừa các nội dung Tiếng việt ở các lớp tiểu học.
+ Thấy được những ưu điểm, những bất cập, bất hợp lý (nếu có) của sách giáo khoa
Tiếng việt chương trình 2000 và đề ra phương pháp dạy học phù hợp với mục đích yêu
cầu của từng bài học.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1/ Cơ sở lý luận:
- Trong điều kiện đất nước đang ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp
người mới biết sử dụng thành thạo, điêu luyện ngôn ngữ để diễn đạt cái mới, sáng tạo của
tư duy là cần thiết. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, tư duy là hiện thực trực tiếp của
ngôn ngữ. Việc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với việc rèn luyện tư duy. Quá trình chiếm
lĩnh Tiếng việt văn hoá ở học sinh là quá trình dần dần thông hiểu cấu trúc Tiếng việt,
trên cơ sở đó hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
- Trong dạy học phân môn luyện từ và câu, giáo viên tạo cho học sinh sử dụng tốt
các phương pháp tư duy như: Phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Tiếng

việt có vị trí ngang hàng với các ngôn ngữ phát triển khác trên thế giới, vì thế vị trí, vai
trò của Tiếng việt ngày càng được khẳng định và đề cao. Tiếng việt là ngôn ngữ, là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội. Đồng thời thể hiện chất liệu nghệ thuật
người viết, là công cụ nhận thức, tư duy của con người, là phương tiện tổ chức và phát
triển của xã hội. Do vậy Tiếng việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với
lượng kiến thức và thời gian nhiều. Đây là môn học quan trọng trong quá trình giúp học
sinh có thể sử dụng Tiếng việt như một phương tiện sắc bén để giao tiếp.
- Môn Tiếng việt là một trong những bộ môn trong nhà trường nên phải được thực
hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Nguyên tắc dạy vàv học Tiếng việt phải cụ thể hoá
mục tiêu và nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ môn cuả mình. Ngoài ra, việc dạy từ
loại trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh cần dựa trên cơ sở quy luật chi phối
quá trình dạy học Tiếng việt. Bởi vì, môn Tiếng việt có những quy luật riêng được khái
quát từ thực tiễn dạy học bộ môn này. Trên cơ sở những quy luật nguyên tắc để đề ra một
phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy và Tiếng việt xác định nội
dung dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn.
- Sự phát triển tâm lý ở từng lứa tuổi, từng giai đoạn có liên quan đến việc tiếp
nhận tiếng mẹ đẻ. Phương pháp dạy học Tiếng việt đã vận dụng quy luật tiếp thu tri thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo của học sinh Tiểu học vào bộ môn của mình. Ở giai đoạn đầu
của bậc tiểu học, tri giác của trẻ mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết mang tính không
chủ định, phân biệt đối tượng chưa chính xác. Vì vậy trong dạy học giáo viên cần sử
dụng đồ dùng trực quan, tài liệu học sinh động, tổ chức nhiều hình thức dạy học phong
phú, hấp hẫn.
1.1/ Mục tiêu môn Tiếng việt chương trình 2000:
Giáo dục trong nhà trường tiểu học hiện nay nhấn mạnh mục đích đào tạo con
người phát triển toàn diện: Có đức, có tài, có khả năng thích ứng với cuộc sống. Mục tiêu
của môn Tiếng việt ở nhà trường tiểu học nói chung là:
a/ Hình thành và phát triển các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh nhằm
giúp các em sử dụng Tiếng việt có hiệu quả trong học tập và giao tiếp ở gia đình, nhà
trường và xã hội.
b/ Góp phần cùng với môn học khác phát triển năng lực tư duy cho học sinh.

c/ Trang bị cho học sinh những hiểu biết ban đầu về văn học, văn hoá và ngôn ngữ
văn hoá thông qua một số sáng tác văn học và một số loại văn bản khác của Việt Nam và
thế giới, nhằm hình thành ở các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng rung cảm
trước cái đẹp, những buồn vui, yêu ghét của con người.
d/ Góp phần hình thành nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi đúng đắn của con
người Việt Nam hiện đại trong quan hệ gia đình và xã hội.
So với chương trình cải cách giáo dục, mục tiêu chương trình 2000 được diễn đạt
súc tích, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Ở mục tiêu thứ nhấ, các soạn giảng đã đặc biệt chú
trọng việc hình thành và phát triển các kỹ năng lời nói, kỹ năng giao tiếp, ở mục tiêu hai
đã được hiểu và phát triển cả tư duy lôgíc lẫn tư duy trừu tượng.
Chương trình Tiếng việt Tiểu học năm 2000 đặc biệt chú trọng nhiệm vụ hình
thành và phát triển 4 kỹ năng sử dụng Tiếng việt. Phát triển 4 kỹ năng lời nói làm cơ sở
để phát triển tư duy cho trẻ và giúp trẻ sử dụng tốt Tiếng việt trong giao tiếp.
So với chương trình cải cách giáo dục, chương trình 2000 tuy vẫn coi trọng các kỹ
năng nghe, đọc, nói, viết những đã chú ý đúng mức hơn tới nhiệm vụ rèn luyện các kỹ
năng nghe, nói. Các bài tập thực hành trong chương trình có nhiều cái mới như: Tập đóng
vai, tập phát biểu ý kiến, nói viết theo tưởng tượng, trí nhớ. Chương trình cải cách giáo
dục có chú ý dạy giao tiếp và hình hành phát triển các kỹ năng lời nói nhưng sự chú ý
chưa đầy đủ, đúng mức và coi nhẹ việc rèn luyện kỹ năng nghe, nói. Cụ thể là nặng về
dạy lý thuyết, chưa có bài tập dạy cho học sinh biết nghe, tổ chức dạy nói học sinh nói
chưa tốt, kỹ năng đọc được rèn qua các bài tập đọc song chú ý đến số lượng bài hơn là
chất lượng, đọc diễn cảm có được dạy song dựa vào kinh nghiệm của mỗi giáo viên chưa
có bài tập dạy cho học sinh đọc thầm, đọc lướt, nắm ý. Kỹ năng viết được dạy nhiều ở
các dạng bài tập làm văn song lại có xu hướng chỉ chú ý đến những thể văn mang sắc thái
nghệ thuật….
Chương trình 2000 đạt được mục tiêu rèn luyện kỹ năng lên hàng đầu nhưng không
coi nhẹ việc dạy tri thức Tiếng việt. Những tri thức được chọn lọc đưa vào chương trình
là những tri thức làm cơ sở cho việc hình thành kỹ năng, đồng thời cũng cung cấp cho
học sinh một số vốn ban đầu để các em nắm vững vàng học lên cấp 2, chuẩn bị cho việc
phổ cập THCS ở Việt Nam vào năm 2010.

1.2/ Nguyên tắc xây dựng chương trình:
Bộ môn Tiếng việt tong nhà trường tiểu học là sự kết hợp của 6 phân môn từng
phân môn đều tuân theo nguyên tắc dạy học nói chung… Song việc chỉ đạo xây dựng
chương trình Tiếng việt 2000 tuân theo 3 nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc dạy học
Tiếng việt thông qua hoạt động giao tiếp; Nguyên tắc tận dụng những kinh nghiệm sử
dụng Tiếng việt của học sinh; Nguyên tắc tích hợp.
Dạy Tiếng việt phải qua hoạt động giao tiếp thì nói, nghe, đọc, viết là 4 kỹ năng
giao tiếp chỉ được hình thành và phát triển thông qua giao tiếp mà không thể qua con
đường nào khác. Việc lựa chọn nội dung chương trình đã coi trọng quan điểm “dung hoà”
tức là đưa vào chương trình sách giáo khoa những văn bản có sẵn để rèn kỹ năng tiếp
nhận và sản sinh văn bản, đồng thời vẫn có một tỷ lệ cần thiết những bài dạy gắn với
những tình huống giao tiếp tự nhiên mà vẫn là điển hình và giàu tính sư phạm. Dựa trên
mối quan hệ qua lại giữa 2 quá trình lĩnh hội và sản sinh văn bản trong giao tiếp, chương
trình sắp xếp nội dung học đọc, học viết song song với nội dung học nghe, học nói ở tất
cả các lớp. Nội dung học đọc, học viết chiếm tỷ lệ cao hơn sơ với nội dung học nghe, học
nói ở các lớp 1, 2, 3 nội dung học nghe chiếm tỷ lệ cao hơn so với nội dung học nghe,
nói ở lớp 4, 5. Sự sắp xếp đó có dụng ý: Dùng hình thức giao tiếp bằng lời (nghe nói)
làm cơ sở để học cách giao tiếp bằng chữ (đọc, viết) sau đó dùng hình thức giao tiếp bằng
chữ làm cơ sở để hoàn thiện hình thức giao tiếp bằng lời
Những học sinh coi Tiếng việt là tiếng mẹ đẻ bước vào lớp 1 đã có trong hành trang
một số vốn từ, một số kiểu câu, quy tắc giao tiếp và các em đã biết sử dụng chúng trong
giao tiếp ở mức tự giác còn thấp, giáo viên dạy Tiếng việt trong nhà trường Tiểu học
không thể quen đặc điểm này để khai thác cái vốn mà trẻ đã có.
Môn Tiếng việt đặc biết chú trọng dạy Tiếng việt tích hợp với dạy văn hoá các bài
học dùng ngữ điệu là các tác phảam hay đoạn trích tác phẩm văn học có giá trị nội dung
nghệ thuật cao. Nhờ đó trẻ em bước đầu được tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, rung cảm
trước vẻ đẹp của nó, nắm được một số đặc điểm chính của nó. Để vận dụng trong việc
tiếp nhận các tác phẩm văn học phù hợp với lứa tuổi và trong việc sáng taọ lời nói. Nhờ
dạy Tiếng việt tích hợp với dạy học sinh còn được bước đầu làm quen với một số khái
niệm (Tác phẩm, tác giả, nhân vật, thể loại…) có một số kỹ năng cơ bản, kể chuyện, tóm

tắt, tìm đại ý… để vận dụng trong học tập trên lớp, thưởng thức nghệ thuật ngoài lớp;
Bước đầu tiếp xúc với các hình tượng văn học, rung cảm trước những buồn, vui, yêu,
ghét của con người, hình thành và phát triển nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi đúng
đắn trong cuộc sống.
1.3/ Các phương pháp dạy học Tiếng việt chủ yếu:
Chương trình Tiếng việt năm 2000 coi trọng hình thức học cá nhân và học theo
nhóm ngay trong giờ học với những tài liệu học tập phong phú về thể loại và hấp dẫn
học sinh. Coi trọng phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tiếng việt là dạy học theo
tình huống nhằm kích thích những ứng xử bằng ngôn ngữ mang tính sáng tạo của trẻ em,
đồng thời phát huy những ưu thế của các phương pháp dạy học truyền thống (nêu vấn đề,
đàm thoại, gợi mở…)
Ở giai đoạn đầu của bậc tiểu học, việc sử dụng hình ảnh minh họa, trò chơi ngôn
ngữ, trò chơi đóng vai, hình thức học bằng thảo luận, đàm thoại có vai trò quan trọng, ở
giai đoạn thứ hai cần phối hợp thêm nhiều phương pháp và hình thức khác khi tổ chức
dạy các bài học, như phương pháp chương trình hoá nêu vấn đề, thực hành giao tiếp, tổ
chức học nhóm, cá nhân tự học… nhằm phát triển năng lực năng lực tư duy, nâng cao
năng lực ứng xử bằng Tiếng việt cho học sinh, giúp các em nắm được phương pháp học,
tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Cá thể hoá việc học và đảm bảo nhịp độ phát
triển của mỗi cá nhân. Với các phân môn tích hợp dạy Tiếng việt với văn học như tập
đọc, kể chuyện, tập làm văn, giáo viên cần đặc biệt tôn trọng và khuyến khích cái riêng,
cái mớu, cái độc đáo, sáng tạo trong suy nghĩ và cảm thụ của mỗi em. Việc sử dụng các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên cần đạt được mục đích. Làm cho giờ học
được thực hiện vui, nhẹ nhàng, thiết thực làm cho mỗi học sinh đều có niềm vui vì đã
thành công.
Đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ trọng tâm. Sách giáo khoa có
nhiệm vụ thể hiện và tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích
cực hoá hoạt động của người học; Trong đó thầy cô đóng vai trò tổ chức hoạt động của
học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, được bộc lộ ý kiến của mình và được phát
triển.
So với sách giáo khoa cải cách giáo dục và các phương pháp dạy Tiếng việt mà

sách giáo viên hướng dẫn, các phương pháp dạy Tiếng việt, đặc biệt là dạy luyện từ
và câu chương trình 2000 mang tính ưu việt hơn, điểm nổi bật nhất là phát huy tính
tích cực, chủ động và gây hứng thú học tập cho học sinh, góp phần đào tạo thế hệ
mới năng động, sáng tạo, tích ứng với sự phát triển của xã hội.
1.4/ Phân bố chương trình sách giáo khoa:
Tuân theo những mục tiêu và nguyên tắc đã trình bày trên đây nội dung chương
trình Tiếng việt ở Tiểu học bao gồm những bộ phận sau:
- Kỹ năng sử dụng Tiếng việt (nghe, đọc, nói, viết)
- Tri thức Tiếng việt (Một số hiểu biết, tối thiểu về hữu ích, về ngữ âm, chính tả,
ngữ nghĩa, ngữ pháp…)
- Tri thức về văn học, về xã hội và tự nhiên (một số hiểu biết tối thiểu về sáng tác
văn học, các tiếp cận chúng về con người và đời sống tinh thần, vật chất của học sinh, về
đất nước và dân tộc Việt Nam).
Nội dung này được sắp xếp theo 2 giai đoạn phát triển:
a/ Giai đoạn 1 (các lớp 1, 2, 3).
Nội dung có nhiệm vụ hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết,
định hướng, việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn Tiếng việt mà trẻ em đã có. Những bài
học ở giai đoạn này chủ yếu là những bài thực hành: Đọc, viết, nghe, nói. Tri thức Tiếng
việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra từ bài thực hành, được thấm vào học
sinh một cách tự nhiên qua hoạt động thực hành. Phần “tri thức” có trong nội dung
chương trình của lớp 1, 2, 3 chỉ có ý nghĩa xác định những tri thức cần học sinh làm
quen.
b/ Giai đoạn 2 (các lớp 4, 5)
Nội dung chương trình nhằm phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói lên một
mức độ cao hơn, trong đó có yêu cầu: Viết hoàn chỉnh một số văn bản và đọc hiểu được
đặc biệt coi trọng. Học sinh ở giai đoạn này đã bước đầu được cung cấp những khái niệm
cơ bản về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng việt, làm nền móng vững
chắc cho sự phát triển kỹ năng. Bên cạnh những bài học thực hành các em còn học về
những bài tri thức Tiếng việt (từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách…) những bài học
này cũng không phải là lý thuyết đơn thuần trực tiếp nhận hoàn toàn bằng con đường tư

duy, trừu tương mà chủ yếu bằng nhận diện phát hiện trên những ngữ điệu đã học, viết,
nghe, nói rồi mới khái quát bằng khái niệm ban đầu.
Chương trình sách giáo khoa 2000 với lượng kiến thức không nhiều nhưng đa
dạng, phong phú trong khi đó chương trình cải cách giáo dục nặng phần kiến thức, nhấn
mạnh kiến thức làm cho việc dạy Tiếng việt của học sinh Tiểu học có phần nặng nề và trở
thành việc đào tạo những nhà nghiên cứu.
Chương trình sách giáo khoa 2000 vận dụng sâu sắc quan điểm tích hợp. Tích cực
trong nội bộ môn Tiếng việt, kết hợp các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong từng bài học,
kết hợp dạy thực hành với các kỹ năng trên và dạy kiến thức Tiếng việt, tích hợp Tiếng
việt với kiến thức văn học nhờ đó các phân môn Tiếng việt nay được tập hợp lại xung
quanh trục chủ điểm và các bài học, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ
năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Việc phân bố nội dung chương trình sách
giáo khoa Tiếng việt tiểu học 2000 vẫn được tuân theo nguyên tắc đồng tâm, kiến thức kỹ
năng lớp trên bao hàm kiến thức kỹ năng lớp dưới nhưng cao hơn, sâu hơn.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình dạy học chúng ta thường quan tâm đến 3 vấn đề quan trọng đó là
sách giáo khoa và các tài liệu khác, trình độ giáo viên, trình độ học sinh.
Sách giáo khoa có chức năng giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu những tri
thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục học sinh
đồng thời giúp giáo viên xác định nội dung kiến thức và lựa chọn phương pháp, phương
tiện dạy học, tổ chức công tác dạy học của mình, vì vậy mỗi giáo viên cần phải tìm hiểu
nghiên cứu để có hiểu biết về chương trình. Sự ra đời của bộ sách Tiếng việt chương trình
2000 là sự biên soạn công phu và chu đấo của các nhà soạn nhằm đổi mới cho phù hợp
với tình hình mới hiện nay, phù hợp với sự phát triển của khoa học.
Về phía giáo viên tiểu học được đào tạo chuyên ngành với nhiều hình thức trình độ
đào tạo khác nhau, có sự chênh lệch nhau về kiến thức, kỹ năng không ít giáo viên gặp
khó khăn trong quá trình giảng dạy. Vì vậy dạy học ở tiểu học còn đơn điệu, nặng nề, học
sinh chưa tích cực chủ động tiếp thu bài, giáo viên cũng không ít gặp khó khăn về cơ sở
vật chất, về phương tiện dạy học…
Nguyên nhân trên là do trước kia chúng ta chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng

của giáo dục Tiểu học - Bậc học nền tảng, chưa có sự đầu tư thoả đáng cho bậc học.
Ngày nay người giáo viên tiểu học đã và đang thể hiện rõ hết trọng trách của mình trong
giai đoạn phát triển mới của xã hội người giáo viên sẽ tìm những điều cần dạy trong sách
giáo khoa nhưng phải biết chọn dạy cái gì? Dạy như thế nào? chò phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
Đối với học sinh trong nhà trường, học sinh không chỉ là đối tượng được giáo dục
mà chủ yếu là chủ thể nhận thức, rèn luyện kỹ năng và thông qua đó hình thành nhân
cách con người mới. Vì vậy hoạt động giảng dạy của giáo viên đều hướng vào học sinh
làm sao cho học sinh có hứng thú với bài học thông qua đó rút ra được kiến thức. Tuy
nhiên học sinh Tiểu học ngại học môn từ ngữ, ngữ pháp vì đây là môn học khó, trừu
tượng. Nếu giáo viên tổ chức không linh hoạt các hình thức dạy học thì học sinh thụ
động tiếp thu kiến thức và không hứng thú học bộ môn này. Dựa trên cơ sở lý luận
thực tiễn trên đây chúng tôi đi sâu việc tìm hiểu dạy về từ loại qua phân môn luyện từ
và câu ở lớp 4 chương trình 2000 để thấy rõ những đổi mới của một phân môn trong
hệ thống Tiếng việt bậc Tiểu học.
CHƯƠNG II
CÁC KIỂU BÀI CUNG CẤP LÝ THUYẾT VỀ TỪ LOẠI QUA PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 3 CHƯƠNG TRÌNH 2000
2.1/ Mục đích yêu cầu của kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn
luyện từ và câu ở lớp 3 chương trình 2000:
- Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giảng về từ loại.
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng dùng từ loại để đặt câu
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen sử dụng từ loại: Danh, Động, Tính. Có ý thức
thức dụng Tiếng việt văn hoá trong giao tiếp và thích hợp Tiếng việt.
2.2/ Thống kê nội dung các chủ điểm được dạy của kiều bài cung cấp lý thuyết
dùng từ laọi cho học sinh lớp 3 thông qua phân môn luyện từ và câu.
Nội dung dạy Tiếng việt lớp 3 tập trung vào việc hình thành cơ sở ban đầu cho việc
học đọc, học viết. Các kiến thức Tiếng việt rút ra từ bài thực hành đọc, viết, nghe, nói mà
không được dạy phần bài riêng. Học sinh chưa phải ghi nhớ những định hướng khái quát
về các đơn vị của Tiếng việt hay các quy tắc sử dụng Tiếng việt song phải biết cách gọi

tên chúng, nhận diện và sử dụng được chúng trong lúc đọc, nghe, nói, viết. Vì vậy các
chủ điểm được dạy ở Tiếng việt 3 chương trình được bố trí như sau:
2.3/ Dạy luyện từ và câu:
Phần luyện từ và câu lớp 3 (62 tiết: 32 tiết học kỳ I và 3 tiết học kỳ II) bao gồm các
nội dung sau:
a/ Mở rộng vốn từ: 19 tiết
- Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá theo các chủ điểm
+ Học kỳ I: 9 tiết
Nhân hậu, đoàn kết, (Tuần 2 và 3); Trung thực, tự trọng (tuần 5 và 6); ước mơ (tuần
9); ý chí, nghị lực (tuần 12 và 13); Đồ chơi, trò chơi (Tuần 15 và 16).
+ Học kỳ II: 9 tiết
Tài năng, (Tuần 19); Sức khoẻ (tuần 20); Cái đẹp (tuần 22 và 23); Dũng cảm (tuần
25 và 26); Du lịch, thầm hiêm (tuần 29 và 30); Lạc quan, yêu đời (tuần 33 và 34).
- Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá thông qua các bài tập.
+ Tìm từ ngữ theo chủ điểm
+ Tìm hiểu, năm nghĩa của từ ngữ
+ Phân loại từ ngữ
+ Tìm hiểu nghĩa của từ ngữ, tục ngữ theo chủ điểm
+ Luyện sử dụng từ ngữ
b/ Tiếng, cấu tạo từ: 5 tiết
Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ: Cấu tạo của
tiếng (Tuần 1 - 2 tiết). Từ đơn và từ phức (Tuần 3 - 1 tiết). Từ ghép và từ láy (Tuần 4 - 2
tiết); thông qua các bài tập:
- Nhận diện, phân tích cấu tạo của tiếng, từ
- Phân loại từ theo cấu tạo.
- Tìm từ theo kiểu cấu tạo

- Luyện sử dụng từ

c/ Từ loại: 9 tiết

Cung cấp một số kiến thức sơ giản về các từ loại cơ bản của Tiếng việt: Danh từ (tuần
5, 6 , 7 và 8 - 5 tiết: Gồm cả cách viết danh từ riêng). Động từ (Tuần 9 và 11 - 2 tiết), tính từ
(tuần 11 và 12 - 2 tiết) ; thông qua các bài tập.
- Nhận diện từ theo từ loại
- Luyện viết danh từ riêng
- Tìm và phân loại từ theo từ loại
- Luyện sử dụng từ
d/ Câu: 26 tiết
Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng và cách sử dụng các kiểu câu:
Câu hỏi (tuần 13, 14 và 15 - 4 tiết), câu kế (tuần 16, 17, 1+, 20, 21, 22, 24, 25 và 26 - 12
tiết, bao gồm các kiểu câu: Ai làm gì, Ai thế nào, Ai là gì) Câu khiến (Tuần 27, 29 - 3 tiết),
Câu cảm (tuần 30 - 1 tiết), Thêm trạng ngữ cho câu (Tuần 31, 32, 33, 34 - 6 tiết); thông qua
các bài tập.
- Nhận diện các kiểu câu
- Phân tích cấu tạo câu
- Đặt câu theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước
- Lựa chọn câu để đảm bảo lịch sử trong giao tiếp
- Luyện sử dụng câu trong các tình huống khác nhau
- Luyện mở rộng câu.
e/ Dấu câu: 3 tiết
Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu: Dấu hai chấm
(tuần 2 - 1 tiết) Dấu ngoặc kép (tuần 8 - 1 tiết). Dấu chấm hỏi (tuần 13 - học cùng câu
hỏi), Dấu gạch ngang (tuần 23 - 1 tiết); thông qua các bài tập:
Tìm công dụng của dấu câu.
- Luyện sử dụng dấu câu
+ Đặc dấu câu vào chỗ thích hợp
+ Tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu.
2/ Biện pháp dạy học chủ yếu:
a/ Cung cấp kiến thức mới:
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm các bài tập ở phần Nhận xét theo các hình thức:

- Trao đổi chung cả lớp
- Trao đổi từng nhóm (tổ, bàn, hoặc 2, 3 học sinh)
- Tự làm cá nhân.
Qua đó, học sinh tự rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ và kiến thức. Giáo viên
hướng dẫn học sinh tự ghi vào vở các kiến thức cần nhớ.
b/ Luyện tập và mở rộng vốn từ:
Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan (nếu cần), rồi tổ chức h
làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân. Chú ý:
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ yêu cầu của bài tập
- Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài
- Hướng dẫn học sinh làm vào vở (hoặc bảng con, hoặc vở bài tập)
- Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra kết quả luyện tập.
CHƯƠNG III
QUY TRÌNH DẠY KIỂU BÀI CUNG CẤP LÝ THUYẾT VỀ TỪ LOẠI QUA
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 3 CHƯƠNG TRÌNH 2000
3.1/ Biện pháp dạy kiều bài cung cấp lý thuyết về từ loại qua phân môn luyện
từ và câu lớp 3 chương trình 2000:
3.1.1/ Hướng dẫn học sinh làm bài tập:
- Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải
thích).
- Giáo viên giúp học sinh chữa một phần của bài tập mẫu.
- Học sinh làm bài tập vào vở
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét kết quả, rút ra những điểm ghi
nhớ và kiến thức.
3.2.1/ Cung cấp cho học sinh một số kiến thức sơ giản về từ loại:
Về vốn từ: Ngoài những từ loại được dạy trong các bài tập viết, học sinh bước đầu
làm quen với một số từ địa phương.
Biện pháp: Thông qua các bài tập chứa đựng các nội dung kiến thức cần cung cấp
cho học sinh, giáo viên tổ chức lớp học dưới các hình thức phù hợp, phát huy tính tích
cực của học sinh để:

+ Học sinh phát hiện kiến thức mới
+ Học sinh nhận diện kiến thức mới
+ Học sinh kiểm nghiệm kiến thức mới
+ Nắm vững bản chất kiến thức
+ Vận dụng luyện tập thực hành.
3.2/ Quá trình dạy các kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại cho học sinh lớp 4
qua phân môn luyện từ và câu:
Các bước lên lớp của một tiết dạy luyện từ và câu giữ một vị trí quan trọng, với nội
dung kiến thức mỗi bài khác nhau, song lại tương đương nhau và “đồng dạng” nên có
quy trình chung là :
3.2.1 Kiểm tra bài cũ:
Giáo viên yêu cầu học sinh giải được các bài tập ở nhà hoặc nêu ngắn gọn những điều
đã học ở tiết trước, cho ví dụ minh hoạ.
3.2.2/ Dạy bài mới:
Giới thiệu bài: Có thể giới thiệu gián tiếp (như liên hệ với bài cũ)
Giới thiệu trực tiếp.
Hướng dẫn học sinh luyện tập: Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện từng bài tập
trong sách giáo khoa theo một trình tự chung là:
+ Đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ Học sinh giải một phần bài tập làm mẫu
+ Học sinh làm bài tập theo hướng dẫn của giáo viên.
+ Tổ chức trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ vào kiến thức.
3.2.3/ Củng cố, dặn dò:
Giáo viên chốt lại những kiến thức, kỹ năng cần nắm vững ở bài luyện tập, nêu yêu
cầu thực hành, luyện tập ở nhà.
3.3/ Phương pháp và hình thức tổ chức dạy kiểu bài cung cấp lý thuyết về từ loại
cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và câu chương trình 2000:
Theo định hướng dạy Tiếng việt thông qua các hoạt động giao tiếp chương trình 2000.
Đặc biệt coi trọng phương pháp giáo viên tổ chức cho cá nhân học nhóm, trong giờ với
những tài liệu học tập phong phú, đa dạng và hấp dẫn học sinh để phát huy tính tích cực chủ

động của học sinh môn Tiếng việt rất coi trọng phương pháp đặc trưng của môn học.
Phương pháp dạy học theo tình huống. Về đại thể, dạy học theo phương pháp này giáo viên
đưa ra một tập hợp các yếu tố thuộc ngữ cảnh như: Hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp,
đề tài giao tiếp rồi cho học sinh nhập vai, các nhân vật giao tiếp để các em chủ động đọc,
viết, nghe, nói sao cho đạt mục đích của từng hoạt động giao tiếp do tình huống giao tiếp đặt
ra. Phương pháp dạy học theo tình huống có tác dụng kích thích những ứng sử bằng ngôn
ngữ mang tính sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó các phương pháp khác (nếu vấn đề, đàm
thoại, gợi mở) cũng được dùng ở lớp 3 việc sử dụng hình ảnh minh hoạ, trò chơi ngôn ngữ,
trò chơi đóng vai, hình thức học tập bằng thảo luận để tổ chức bài học có một vai trò đặc biệt
quan trọng. Giờ Tiếng việt là giờ tương đói khó đối với học sinh lớp 3. Vì vậy khi thực hiện
các phương pháp dạy học giáo viên cần tận dụng khéo léo sao cho học sinh cảm thấy giờ
học nhẹ nhàng thiết thực mỗi học sinh đều có thể đạt được thành công, có hứng thú học tập.
Chương trình 2000 chú trọng thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm, chú trọng
hệ thống quy tắc ngữ pháp dạy luyện từ và câu phải rút ra được quy tắc ngữ pháp. Ngoài ra
tính thực hành thể hiện ra việc dạy luyện từ và câu ở tiểu học được thông qua hệ thống bài
tập thích hợp, vừa sức của lệnh bài tập và ngữ liệu để từ đó bằng sự hướng dẫn của giáo viên
thì học sinh có thể tự giải quyết các yêu cầu của bài tập đồng thời rút ra được tri thức mới
bằng việc làm nhiều bài tập có thể hiểu rõ, hiểu bản chất vấn đề.
Trong quá trình làm bài tập có thể để học sinh tự xây dựng biểu bảng, sơ đồ làm các
em sẽ tích cực làm việc với tài liệu dễ dàng ghi nhớ các dấu hiệu của khái niệm hoạt động
học của học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp, hoạt động phân tích tổng hợp thực hành,
lý thuyết.
Cả 2 hoạt động trên của học sinh có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau
như: Làm việc độc lập; Trả lời câu hỏi thuyết trình hoặc làm mẫu trước lớp tổng hợp thực
hành, lý thuyết, tham gia trò chơi…
Hoạt động nhận thức tích cực của học sinh còn thể hiện trong giờ học, học sinh biết
kết hợp các kỹ năng và tự hoàn thành công việc trong những giai đoạn khác nhau của giờ
học và biết tự kiểm tra bản thân điều này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực sư phạm, trình
độ sư phạm lành nghề.
3.4/ Những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi thực hiện quy trình

lên lớp phân môn luyện từ và câu lớp 3:
3.4.1/ Thuận lợi:
Quy trình lên lớp tiết luyện từ và câu lớp 3 được xây dựng trên cơ sở các bước lên lớp
chính của 1 tiết học. Trong bước “Dạy bài mới” phần hướng dẫn cho học sinh luyện tập là
trọng tâm, nhìn chung kiến thức các bài đáp ứng được mục tiêu của chương trình. Nội dung
kiến thức vừa phải mở rộng, đa dạng, phong phú, hệ thống hệ thống bài tập đòi hỏi cách
thức tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức của giáo viên. Giáo viên tổ chức hoạt động sinh
động, linh hoạt hấp dẫn hơn phần nội dung kiến thức không chỉ giới thiệu những kiến thức
mới mà còn củng cố ôn luyện những kiến thức đã học tập trung vào các kiến thức kỹ năng
cơ bản thiết thực tích hợp được nhiều mặt giáo dục.
Trong chương trình Tiếng việt khi triển khai thực hiện giáo viên chủ động lựa chọn
các nội dung và phương pháp thích hợp với từng đối tượng học sinh để tổ chức, hướng dãn
học sinh tự học, tự phát triển và chiếm lĩnh tri thức mới. Hình thức tổ chức dạy học thường
linh hoạt phối hợp giữa dạy học trong và ngoài lớp ở nhà trường và ở hiện trường. Phương
pháp hiện nay đã thay đổi về căn bản cách dạy, cách học thụ động trước kia, giáo viên có thể
sử dụng phiếu bài tập trong quá trình giảng dạy vì phiếu bài tập là cá thể hoá của việc học,
thúc đẩy học sinh hoạt động trí tuệ thực sự, là một phương tiện dạy học theo hướng thực
hành giao tiếp ngôn ngữ. Ngoài ra giáo viên có thể đưa ra các bài tập theo hình thức trắc
nghiệm để đánh giá kết quả bài làm của học sinh chính xác hơn. Trong phần hướng dẫn học
sinh luyện tập hệ thống bài tập trong sách giáo khoa giúp học tự học sinh được nhiều hơn,
các em được tham gia các hoạt động hướng tới sự phát triển về năng lực.
3.4.2/ Khó khăn:
Việc thay đổi nội dung sách giáo khoa, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học
tạo ra một bước chuyển khó khăn đối với giáo viên nhất là những giáo viên đã có thời gian
công tác lâu năm trong bước hướng dẫn học sinh luyện tập nếu giáo viên không cụ thể hoá
bài tập, hướng dẫn, giải thích cho học sinh hiểu mục đích của bài tập thì dẫn đến thiếu thời
gian vì có những bài tập lệnh đưa ra cần cụ thể hơn, có lệnh bài tập mang tính trừu tượng
khó hiểu.
Ở phần từ ngữ cần đưa thêm một số dạng bài tập cho học sinh.
Sách giáo khoa cũng có một số hạn chế trong từng bước lên lớp như chưa chỉ ra mục

tiêu cụ thể của từng bài tập; chỉ có đáp án mà không nêu cách thực hiện, cách tiến hành một
bài tập cụ thể như thế nào? Không chốt lại kiến thức bài học…
Nếu giáo viên ít năng động lớp học trở nên đơn điệu, hiệu quả kém.
CHƯƠNG IV THỰC NGHIỆM THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
Qua việc nghiên cứu các tài liệu và sách giáo khoa, sách giáo viên chương trình 2000
trong việc dạy kiểu bài luyện từ và câu lớp 3 chúng tôi áp dụng thiết kế một số bài giảng để
thấy rõ tính thiết thực của các vấn đề nghiên cứu đề cập tới trong đề tài này đồng thời đánh
giá khả năng thực tế của bản thân trong quá trình nghiên cứu, hiệu quả của việc xây dựng đề
tài
Hoạt động dạy Hoạt động học
1/ Kiểm tra bài cũ:
- Gọi học sinh đọc bài tập đã giao từ
tiết trước.
- 2 học sinh đọc bài
- Gọi học sinh đọc thuộc lòng và tình
huống sử dụng các câu tục ngữ
- 3 học sinh đọc thuộc lòng và nêu
tình huống sử dụng
- Nhận xét và cho điểm từng học sinh
2/ Dạy - học bài mới
2.1/ Giới thiệu bài:
- Viết câu văn lên bảng: Vua Mi-đát thử
bẻ một càng sồi, cành đó liên biến thành
vàng
- Học sinh đọc câu văn trên bảng
- Yêu cầu học sinh phân tích câu - Phân tích câu
Vua/Mi-đát/thử/bẻ/một/cành/sồi,
cành / đó/liền/biến thành/vàng
- Những từ loại nào trong câu mà em
đã biết?

+ Em đã biết:
* Danh từ chung: Vua, một, cành /
sồi / vàng
* Danh từ riêng: Mi - đát

×