Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng hàng năm ở xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.39 KB, 51 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông nghiệp là một mặt trận hàng đầu, là địa bàn chiến lược quan trọng
trong ổn định chính trị, xã hội và tăng trưởng kinh tế, là vấn đề được Đảng và
Nhà nước ta khẳng định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chúng ta không thể làm giàu từ nông nghiệp, nhưng không thể ổn định xã hội và
tăng trưởng kinh tế nếu đất nước thiếu lương thực, thực phẩm và nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu. Hầu hết các nước trên thế giới đều không bỏ qua nền nông
nghiệp mặc dù đã phát triển các ngành mũi nhọn khác. Vì thực tế nền nông
nghiệp có thế khai thác tối đa các yếu tố nguồn lực và thỏa mãn nhu cầu tại chỗ.
Riêng các nước trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, là nước nông
nghiệp gần 80% dân số sống ở nông thôn - thì nông nghiệp chiếm vị trí quan
trọng, nó quyết định sự sống còn của đất nước không những trước mắt mà còn
lâu dài
Kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn
Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Sản xuất nông nghiệp – lâm nghiệp
tăng lên liên tục với tốc độ khá cao và đã đạt được những thành tựu hết sức quan
trọng, nền nông nghiệp từ sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp theo phương thức truyền
thống đã chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, sản xuất khối lượng nông sản lớn
và đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và góp phần xuất khẩu. Chế độ độc
canh cây lúa dần được thay thế bằng một số cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Điều đó đã và đàng góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, cải thiện điều
kiện sống cho người dân và xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên do nền nông nghiệp nước ta mới bắt đầu phát triển nên còn
nhiều hạn chế trong sản xuất nông nghiệp, lao động nông thôn chủ yếu vẫn là
lao động thủ công, có sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, trình độ lao động trong
nông nghiệp chưa cao. Do đó chưa tận dụng hết tiềm năng sẵn có của mình để
sản xuất đạt hiệu quả cao. Chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp chưa đáp
ứng cải thiện đời sống của người dân, chưa cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành
Trang 1
công nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu. Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói,
du canh du cư, di dân tự do còn tồn tại và đặc biệt là môi trường càng ngày bị


suy thoái
Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ “đẩy mạng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đồng thời với tăng cường đầu
tư, xây dựng nông thôn mới, bố trí lại lao động nông nghiệp, có chính sách
khuyến khích nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với
đặc điểm từng vùng sinh thái, phát triển kinh tế hộ gia đình kết hợp với trồng
trọt chăn nuôi, sản phẩm nông nghiệp đạt nhiều về số lượng, tốt về chất lượng,
đảm bảo an toàn về lương thực, thực phẩm ”
Trong công cuộc phát triển kinh tế nông thôn thì chuyển đổi cơ cấu cây
trồng phù hợp với từng vùng sinh thái, với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội,
từng bước nâng cao đời sống nhân dân là mục tiêu quan trọng và tiến hành rộng
khắp trên mọi miền đất nước, đưa vào sản xuất những giống cây trồng có hiệu
quả kinh tế cao tăng tỉ xuất hàng hóa nông sản. Cùng với xu thế phát triển đó,
trong những năm gần đây thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng
của tỉnh nói chung và của huyện nói riêng theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước nhằm nâng cao thu nhập cho người dân tăng hiệu quả sự dụng đất và hiệu
quả kinh tế, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của tỉnh Nghệ An nói chung và
của huyện Thanh Chương nói riêng, theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
nhằm nâng cao thu nhập cho người dân tăng hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả
kinh tế, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện Thanh Chương đã bám sát
chủ trương đó của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao thu nhập cho người dân,
cải thiện đời sống cho toàn xã
Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên toàn huyện đã có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao
và vẫn còn chậm so với các huyện khác, tỉnh khác. Giá trị thu nhập/đơn vị diện
Trang 2
tích/năm còn thấp, đặc biệt là vấn đề đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp chưa ổn
định và còn nhiều lúng túng.
Ngọc sơn là một xã miền núi thuộc huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An
hầu hết dân cư sống bằng nghề nông nghiệp. Những năm gần đây điều kiện sống

của người dân đã có nhiều khởi sắc, thu nhập của người dân ngày càng tăng, cơ
sở vật chất được trang bị đầy đủ và tiến bộ hơn.
Tuy nhiên xã Ngọc sơn là một xã miền núi thuộc phía tây của tỉnh Nghệ
An do đó còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn về giao thông liên lạc, cơ sở vật chất
hạ tầng. Thêm vào đó là thời tiết diễn biến phức tạp như thiên tai, hạn hán, lũ
lụt. Đặc biệt là gió lào, gió mùa đông bắc đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
sản xuất nông nghiệp của người dân nơi đây. Ngoài ra thì do tập quán sinh hoạt
của người dân miền núi còn ảnh hưởng thời xa xưa, sản xuất còn nhỏ lẻ, đầu tư
sản xuất nông nghiệp còn thấp, sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp, sản phẩm
làm ra chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên và khảo sát thực tiến ở địa phương,
tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu
cây trồng hàng năm ở xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”.
Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Đề tài đi sâu vào nghiên cứu tìm hiều, đánh giá thực trạng cơ cấu cây
trồng trên địa bàn xã. Từ đó đưa ra một số giải pháp để chuyển dịch cơ cấu cây
trồng trên địa bàn một cách hiệu quả hơn.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu mang tính khả thi nhằm đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu cây trồng kinh tế của toàn xã
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng chuyển dịch
cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã Ngọc sơn trong năm 2008, phân tích những khó
khăn, thuận lợi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đánh giá kết quả
và hiệu quả của những loại cây trồng chính.
Trang 3
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã
Ngọc sơn
+ Về thời gian: số liệu thực tế của 40 hộ nông dân trong xã Ngọc Sơn trong
giai đoạn 2006-2008

Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu và nội dung của đề tài nghiên cứu, để hoàn thành đề
tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
- Phương pháp điều tra chọn mẫu
- Phương pháp điều tra phỏng vấn có sử dụng bảng hỏi
- Phương pháp thống kê
Từ thực tế thu thập số liệu thứ cấp, phân tích và xử lý số liệu để rút ra kết
luận, cũng như đưa ra những ý kiến hợp lý.
Trang 4
PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
A.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CÂY TRỒNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái quát về cơ cấu cây trồng và chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của tất cả
các nước. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng một cớ cấu
kinh tế hợp lý. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn là khuynh hướng
phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối với nước ta nền kinh tế
chủ yếu là nông nghiệp thì điều đó phải trở thành xu thế tất yếu, công nghiệp
hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta, là cơ sở để hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp nông
thôn. Công nghiệp hóa là chuyển đổi căn bản, toàn diện các họat động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động
thủ công là chủ yếu sang sử dụng máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng các tiến
bộ của khoa học kỹ thuật nhằm giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp và dịch
vụ. Nhưng để đạt được điều đó thì trước hết phải xây dựng được một nền
nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững. Công nghiệp hóa không chỉ đơn
giản là tăng về tốc độ và tỷ trọng sản xuất nông nghiệp mà còn là quá trình
đổi mới căn bản về công nghệ.

Như vậy, cơ cấu cây trồng là tổ hợp của nhiều loại cây trồng trong một địa
bàn sản xuất, khu vực sản xuất, được bố trí với một tỷ lệ nhất định trong
không gian và thời gian cụ thể hay nói cách khác, cơ cấu cây trồng là biểu
hiện mối quan hệ tỷ lệ về diện tích đất trồng trọt giữa các loại cây trồng khác
nhau. Một cơ cấu cây trồng được xem là hợp lý khi tổ hợp của nhiều loại cây
trồng được bố trí với một tỷ lệ nhất định trong không gian và thời gian phù
hợp với điều kiện cụ thể của vùng, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh
nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trang 5
Xét về mặt triết học, cơ cấu cây trồng là phản ánh cấu trúc tương
quan qua lại giữa các yếu tố cấu thành đối tượng trong đó trong một thời gian
nhất định. Hay nói cách khác mỗi yếu tố là tổ hợp của một thể thống nhất có
một số chức năng riêng biệt, được cấu tạo có quy luật và hệ thống theo một
trật tự tỷ lệ thích ứng. Nội dung của nó là biểu hiện vị trí và vai trò của từng
bộ phận hợp thành, chúng có mối quan hệ tương quan nhất định.
Muốn hình thành một cơ cấu cây trồng hợp lý cho một vùng, trước hết
phải xem xét điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội từng vùng. Do đó cơ cấu một
cây trồng hợp lý, không những không phát triển sản xuất một cách có lợi nhất
mà còn bảo vệ đất đai, môi trường. Yêu cầu lớn nhất của cơ cấu cây trồng là
trong hệ thống canh tác là lợi dụng các điều kiện thời tiết khí hậu, đất đai
nhằm tránh được các tác hại do thiên tai gây ra hạn chế những ảnh hưởng của
lũ lụt, hạn hán không ngừng thâm canh cải tạo đất
Bên cạnh đó, lợi dụng những đặc tính sinh học tốt của cây trồng như khả
năng chống chịu điều kiện ngoại cảnh, sâu bệnh, tính thích ứng rộng rãi có
tiềm năng cho năng suất cao và chất lượng sản xuất tốt
Về mặt kinh tế, cơ cấu cây trồng phải đạt yêu cầu:
- Đáp ứng được việc tổ chức các vùng sản xuất chuyên canh có tỷ suất hàng
hóa cao
- Đảm bảo cho việc tổ chức các yếu tố đầu vào hợp lý, phát triển sản xuất
đa dạng và kết hợp chặt chẽ giữa trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và nuôi

trồng thủy hải sản.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là quá trình làm thay đổi cấu trúc về mối liên hệ
của hệ thống cây trồng theo mục đích và phương hướng nhất định. Hiện nay,
nước ta đang từng bước chuyển dần từ nền hàng hóa tự cung tự cấp sang một
nền sản xuất lớn hơn với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Chuyển dịch nền kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng
hóa ngành nghề, ngoài sản xuất chính là nông nghiệp còn khuyến khích phát
Trang 6
triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nhằm giải quyết công ăn việc làm ở
nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động. Trong ngành trồng trọt, chú ý
đến chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm mục đích khai thác và phát huy lợi thế
so sánh của từng địa phương, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế
gắn với hiệu quả môi trường
Để chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý và hiệu quả trước hết chúng
ta phải chú ý đến nhu cầu của thị trường nông sản, tính đến sự phân vùng
nông nghiệp, nhiệm vụ và phương hướng sản xuất của vùng, cơ cấu diện
tích trồng trọt phục vụ cho phương hướng sản xuất chuyên môn hóa tập
trung. Đồng thời xem xét điều kiện kinh tế của địa phương, tận dụng tối
đa điều kiện ruộng đất, khí hậu, sử dụng hợp lý sức lao động và tư liệu sản
xuất. Trên cơ sở đó phải chú ý đến việc vận dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo tính hệ thống,
xem hệ thống trồng trọt là một tồng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau
có quan hệ qua lại lẫn nhau. Vì vậy việc nghiên cứu hệ thống không đi
vào nghiên cứu thuộc tính của đối tượng mà đi sâu vào nghiên cứu đặc
tính, bản chất của mỗi liên hệ đảm bảo cho hệ thống phát triển ổn định.
Như vậy để đảm bảo tính hệ thống thì công tác chuyển đổi cơ cấu cây
trồng cần tuân thủ một số yếu tố sau:
+ Thứ nhất. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng có tính kinh tê, nghĩa là làm cho
chi phí bỏ ra ít nhất nhưng đem lại hiệu quả cao nhất. Đối với những nước

XHCN mục tiêu lớn nhất của sản xuất hàng hóa là ngày càng tạo ra nhiều
của cải, vật chất, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội. Bên cạnh đó
vẫn không quên tính đến hiệu quả kinh tế và tiết kiệm chi phí, đây là
thước đo đánh giá trình độ quản lý của cơ quan, tổ chức. Đảng và nhà
nước ta cũng đã xác định rằng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
Trang 7
XHCN. Trong đó huy động mọi nguồn lực cùng tham gia phát triển kinh
tế. Nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế, tránh tình trạng phát triển
ồ ạt không định hướng, chạy theo lợi nhuận gây lảng phí ngân sách nhà
nước và tiền của nhân dân. Vì vậy cần tuân thủ nguyên tắc này khi chuyển
đổi cơ cấu
+ Thứ 2. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng cần đảm bảo tính kỹ thuật.
Nghĩa là chuyển dịch phải phù hợp với điều kiện tư nhiên, kinh tế, kỹ thuật
của địa phương. Tránh tình trạng điều kiện vật chất của vùng còn nhiều hạn
chế, lạc hậu mà bố trí những loại cây trồng có yêu cầu kỹ thuật cao thì việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng không những không mang lại hiệu quả cao mà
còn phá vỡ hệ thống canh tác của vùng. Mặt khác, đặc điểm của sản xuất
nông nghiệp phù thuộc vào điều kiện tự nhiên và có tính thời vụ cao. Vì thế
công tác kỹ thuật đòi hỏi cao, chính xác nếu không sẽ cho năng suất thấp
+ Thứ 3. Yếu tố xã hội – nhân văn của quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng
không mâu thuẫn với tập quán canh tác của vùng, thị hiếu tiêu thụ. Thêm vào
đó, xác định cây trồng chính là điều kiện cần thiết của các cơ quan sản xuất
hoặc các hộ gia đình trồng nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, khi nói về yếu tố
xã hội và nhân văn không có nghĩa là chạy theo lợi nhuận trước mắt mà phải
biết tiếp thu, kế thừa những nét tích cực của người dân trong từng địa
phương. Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong truyền bá và áp
dụng kỹ thuật mới của người dân. Đồng thời những cây trồng mới, kỹ thuật
mới phải chứng minh được hiệu quả của nó và phải được người dân chấp
nhận. Vì công tác khuyến nông, làm thử trên quy mô nhỏ và phải được chú

trọng.
+ Thứ 4. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải nhằm khai thác lợi thế so sánh
của mỗi vùng. Nghĩa là xem xét lợi thế của vùng này so với vùng khác như
thế nào trong việc sản xuất và cung ứng sản phẩm ra thị trường. Trong cơ chế
thị trường gắn với xu thế quốc tế hóa như hiện nay, lợi thế so sánh đều có ở
Trang 8
mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Thế nhưng chúng ta phải biết thừa nhận đề
tìm ra lợi thế so sánh chủ yếu của mình và ra quyết định sản xuất cho phù
hợp, có tính cạnh tranh cao. Như vậy, sản phẩm nông sản phải đạt yêu cầu
chi phí thấp nhất nhưng phải đảm bảo chất lượng, mẫu mã đa dạng, phong
phú. Đề đạt được điều đó cần trải qua được một quá trình lâu dài, tỉ mỉ và
ứng dụng sâu sắc các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
+ Thứ 5. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo tính bền vững cảu
hệ thống. Chuyển dịch, phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không
làm tổn hại đên nhu cầu của thế hệ tương lai. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
không chỉ thực hiện trong một thời gian ngắn mà phải tính đến hiệu quả lâu
dài, đồng thời kết hợp hài hòa giữa các yếu tố trong hệ thống bao gồm: con
người, ruộng đất, cây trồng nhằm thỏa mãn tối đa lợi ích và đảm bảo sự cân
bằng của hệ sinh thái nông nghiệp.
Tóm lại, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo tính hệ thống. Không
những đảm bảo hiệu quả kinh tế mà còn không phá hoại cảnh quan môi
trường, khai thác và cải tạo tài nguyên đất đai, làm cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu
cây trồng.
1.1.2.1. Nhóm các nhân tố tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện tự nhiên bởi lẽ
đối tượng chủ yếu của nông nghiệp là cơ thể sống. Đặc biệt trong trồng trọt,
yếu tố tự nhiên quyết định đến năng suất, sản lượng và chất lượng của cây
trồng

- vị trí địa lý: đây là yếu tố quan trọng đối với bất kỳ một cơ quan sản xuất
kinh doanh nào khi muốn định hướng sản xuất, chọn cây trồng như thế nào để
đạt hiệu quả như mong muốn thì trước hết phải căn cứ vào vị trí nơi sản xuất.
Đối với những vùng gần với trung tâm thành phố, thuận lợi để phát triển các loại
Trang 9
cây trồng rau, cây ăn quả, hoa, cây cảnh nhằm đáp ứng được nhu cầu tươi sống
và giải trí. Những loại cây này có đặc điểm là khó bảo quản và dễ hư hỏng khi
vận chuyển đường xa. Trong khi đó, các vùng xa trung tâm, vùng núi nên bố trí
các loại cây trồng lâu năm, cây nguyên liệu cho công nghiệp và các loại cây
trồng có đặc tính dễ bảo quản hơn như ngô, lạc có thể nói việc nghiên cứu, xác
định và kiểm tra chuyển đổi cơ cấu cây trồng có xu hướng thuận lợi hơn cho các
vùng trung tâm khoa học kỹ thuật, viên nghiên cứu, nhà máy chế biến
- Đất đai. Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong sản xuất nông
nghiệp là thành phần quan trọng trong hệ sinh thái, là nguồn cung cấp chất dinh
dưỡng, nước cho hệ thống cây trồng. Tùy thuộc vào địa hình, vị trí địa lý, độ
dốc, nước ngầm, thành phần hóa học của đất để bố trí cây trồng cho thích hợp.
Hàm lượng chất dinh dưỡng đất quyết định đến năng suất cây trồng. Tuy vậy cơ
cấu cây trồng đòi hỏi ở chất đất giàu chất dinh dưỡng nhưng cũng có nhiều loại
cây chịu được những loại đất có tính chất xấu. Hàm lượng chất dinh dưỡng
trong đất có thể khắc phục bằng cách bón phân. Phần lớn các loại cây trồng có
phản ứng mạnh mẽ tới loại đất có độ màu mỡ cao đem lại giá trị kinh tế cao.
- Thời tiết khí hậu. Nông nghiệp được tiến hành ngoài trời nên giữa cây
trồng và ngoại cảnh có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đặc điểm này là nguồn
gốc sinh ra tính thời vụ của cây trồng. Khí hậu ảnh hưởng lớn đến cơ cấu cây
trồng nhưng nếu chúng ta nắm vững được những yếu tố này thì việc bố trí cây
trồng hợp lý, giảm được tính thời vụ và hạn chế được những thiệt hại do thời tiết
gây ra thì việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa các loại cây sẽ phần
nào khắc phục được những nhược điểm này.
1.1.2.2. Nhóm nhân tố kinh tế - kỹ thuật
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng không những phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên

mà còn chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố xã hội như: lao động, chính sách
thể chế, vốn, thị trường,
Trang 10
+ Lao động: Lực lượng lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến quá
trình sản xuất kinh doanh, là tiền đề cơ sở để tạo ra mọi của cải cho xã hội,
bất kỳ một hình thức sản xuất kinh doanh nào cũng cần đến lao động dù dưới
mọi hình thức nào. Do đó quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng thực hiện
nhanh hay chậm, hợp lý hay không là tùy thuộc vào nhân tố con người, tùy
thuộc vào trình độ lao động và khả năng cơ giới hóa mà phân bố lao động
cho phù hợp. Đối với những loại cây trồng đòi hỏi thâm canh, lao động cao
nên phân bố ở vùng dân cư lao động đông để thuận tiện trong quá trình chăm
sóc và bảo vệ cây trồng. Còn bố trí ở những vùng xa dân cư lao động cần có
những hình thức di dân, giảm dần và phân bố lại lao động sao cho đồng đều
Do vậy, trong nông nghiệp hay trong một lĩnh vực sản xuất nào thì quá trình
đạo tạo đội ngũ lao động, nâng cao trình độ, đòi hỏi kinh nghiệm, tìm tòi
sáng tạo là rất cần thiết để có thể đáp ứng tốt được nhu cầu phát triển sản
xuất của xã hội.
+ Vốn: Tuy thuộc từng loại cây trồng cần có những mức độ đầu tư khác
nhau, những loại cây trồng chính như lúa thì cần có những nguồn ưu đãi
riêng để có thể tạo ra thu nhập, cho năng suất cao. Nhưng đa số các hộ nông
dân sản xuất hiện nay vốn đầu tư cho cây trồng còn rất ít, thiếu nguồn vốn do
vậy ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi cớ cấu cây trồng. Đầu tư ít quá trình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng diễn ra rất chậm và thiếu đồng bộ. Đứng trước
vấn đề này thì nông dân mong muốn có những chính sách thích đáng hơn của
chính phủ để có thể giúp đỡ người dân về mặt tài chính, kỹ thuật, chuyển
giao công nghệ, hộ trợ nông dân vay vốn ở lãi suất thấp.
+ Cơ sở hạ tầng: Là nhân tố khá quan trọng, cơ sở hạ tầng phát triển kéo theo
sản xuất phát triển và ngược lại. Do vậy trong sản xuất nông nghiệp muốn
chuyển đổi cơ cấu cây trồng thì cần có một hệ thống giao thông thuận lợi,
điện nước phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây

trồng diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Mặt khác, cơ sở hạ tầng kém phát
Trang 11
triển sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cây
trồng thiếu nước hoặc không chủ động tưới tiêu sẽ cho năng suất thấp, cản
trở cho việc bố trí cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa.
+ Thị trường. Kinh tế thị trường có tác dụng to lớn đối với sự phát triển khoa
học, công nghệ, đối với sự thay đổi của cơ cấu ngành, vùng kinh tế, đối với
sự tăng năng suất lao động và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Trong
nền kinh tế hàng hóa thị trường là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng,
là điểm tập kết của quan hệ hàng hóa để đảm bảo sự lao động không ngừng
của quá trình tái sản xuất xã hội. Do đó thị trường luôn là yếu tố quyết định
sự phát triển đặc biệt nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành cơ cấu kinh
tế.
Trong sản xuất nông nghiệp việc nghiên cứu thị trường, xác định số
lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm mà thị trường đang yêu cầu. Từ đó
bố trí cơ cấu sản xuất, cớ cấu cây trồng cho mình để cung ứng sản phẩm ra
thị trường kịp thời. Nếu sản xuất mà không nắm bắt được thông tin thị trường
kịp thời thì sản phẩm sẽ bị ứ đọng, không tiêu thụ được. Trong khi đó sản
phẩm nông nghiệp là sản phẩm tươi sống cần được tiêu thụ sản phẩm trong
thời gian ngắn.
+ Khoa học công nghệ: trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển
như vũ báo. Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ diễn ra trên thế giới và
trong nước có mối quan hệ mạnh mẽ đến sự phát triển của cơ cấu kinh tế. Vì
thế trong sản xuất nông nghiệp cần tổ chức công tác tập huấn kỹ thuật một
cách đồng bộ từ đơn vị đến cơ sở, kết hợp với việc xây dựng dịch vụ nông
nghiệp rộng rãi để nhanh chóng đưa tiến bộ mới vào sản xuất.
1.1.2.3. Nhóm nhân tố vĩ mô
Đây là phương hướng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, là
chiến lược phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn và dài hạn của từng vùng.
Những năm qua nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích

Trang 12
phát triển sản xuất nông nghiệp như: dồn điền đổi thửa, giảm thuế nông
nghiệp, chuyển giao quyền sử dụng đất nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến
phương hướng sản xuất của từng ngành nên đã anh hưởng đến cơ sở sản xuất
làm ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Mục tiêu và phương hướng sản xuất là một trong những nhân tố quyết
định đến việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Mục tiêu và phương hướng sản
xuất giúp xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng
phương hướng sản xuất đúng đắn là vấn đề quan trọng và tương đối phức tạp
trong cơ chế thị trường. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với sản xuất nông
nghiệp cho chu kỳ dài và tính thời vụ nghiêm ngặt. Nghiên cứu kỹ thị trường
sẽ hạn chế được rủi ro và tăng tính khả thi của phương hướng sản xuất kinh
doanh.
Các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, cùng với hệ thống pháp luật kinh tế sẽ tạo môi trường kinh tế thuận lợi
và khích thích lợi ích kinh tế của người sản xuất hoạt động theo định hướng
của nhà nước. Hệ thống chính sách kinh tế như: chính sách đất đai, chính
sách về tín dụng, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách khuyến nông,
chính sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách xóa đói giảm nghèo nếu được ban
hành kịp thời đồng bộ và phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định sẽ
có tác dụng làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu ngành trồng trọt. Ngược lại, sẽ
giảm động lực, sẽ không phát huy hết mọi tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng cho sự phát triển, sẽ hạn chế và làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng.
1.1.3. Nhóm chỉ tiêu nghiên cứu.
1.1.3.1. Chỉ tiêu về cơ cấu
- cơ cấu về diện tich gieo trồng và công thức luân canh
- cơ câu và giá trị sản lượng của các loại cây trồng.
1.1.3.2. Chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả kinh tế của từng loại cây trồng.
Trang 13

a. chỉ tiêu về kết quả sản xuất.
Khi nghiên cứu cơ cấu cây trồng và tìm ra giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển
đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, có hiệu quả. Chúng tôi đã sử dụng tổng hợp hệ
thống nhiều chỉ tiêu, nghiên cứu mối quan hệ giữa các chỉ tiêu, phân tích
tổng hợp và so sánh kết quả thu được, bao gồm các chỉ tiêu sau:
+ Tổng giá trị sản xuất ( GO/ ha): là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ
nông nghiệp được sản xuất ra ở thời gian nhất định thường là một năm trên
đơn vị diện tích
n
GO =∑Q
i
. P
i

i=1
Q
i
: là sản phẩm hàng hóa
P
i
: là giá bán đơn vị sản phẩm
+ Chi phí trung gian (IC/ ha): là bao gồm những chi phí vật chất và dịch
vụ mua ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm nông
nghiệp trong một thời gian nhất định và trên một đơn vị diện tích nhất định.
n
IC = ∑ C
j
J = 1
C
j

: là toàn bộ chi phí vật chất và dịch vụ được sử dụng trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm
+ Giá trị gia tăng (VA/ ha): là kết quả thu được sau khi trừ đi chi phí trung
gian của một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. Đây là tiêu chí quan
trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất.
VA = GO – IC
VA: là giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích
GO: là tổng giá trị sản lượng trên một đơn vị sản xuất
IC: là chi phí trung gian được sử dụng trong quá trình sản xuất trên một đơn
vị diện tích.
b. chỉ tiêu hiệu quả
Trang 14
+ Giá trị gia tăng/ chi phí trung gian ( VA/IC): được tính bằng phần giá trị
tăng thêm tính bình quân trên một đơn vị chi phí trung gian bỏ ra trong sản
xuất.
Tỷ lệ này cho biết cứ bỏ ra một đồng chi phí trung gian thì sẽ đưa lại bao
nhiêu đồng giá trị gia tăng.
+ Chỉ tiêu (VA/GO): tỉ suất này đánh giá tổng hợp hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Nó cho biết với một đồng doanh thu thu vào cho ta bao nhiêu đồng
giá trị gia tăng.
+ Hệ số sử dụng ruộng đất: là tỉ số giữa tổng diện tích gieo trồng trên tổng
diện tích canh tác.
Sản lượng cây trồng được tính bằng tích số giữa năng suất cây trồng với diện
tích loại cây trồng đó. Trong nông nghiệp cây trồng chịu ảnh hưởng rất lớn
của điều kiện tự nhiên, do đó năng suất cây trồng biến động hàng năm. Để
đảm bảo tính chính xác chúng tôi lấy số liệu trong 3 năm ( 2006; 2007;
2008), đồng thời đảm bảo tính so sánh và căn cứ khoa học trong phương
pháp thống kê.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
1.2.1. tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp việt nam

Ngày nay xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội. Vấn đề giao lưu kinh tế giữa các nước ngày càng
được củng cố và mở rộng. Thực tế đó buộc các nước phát xác định cho mình
một nền sản xuất vững chắc với sản xuất chuyên môn hóa và tập trung hóa
cao độ dựa trên lợi thế so sánh của mình. Đối với những nước công nghiệp
phát triển, khoa học kỹ thuật tiên tiến, tài nguyên dồi dào thì sản xuất nông
nghiệp có đặc điểm nổi bật là chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất. Họ
gặt hái được nhiều thành công và nhờ vào sự tác động mạnh mẽ, hiệu quả của
nền nông nghiệp hiện đại, tiến bộ của khoa học kỹ thuật thường thì yếu tố
Trang 15
môi trường vẫn được đưa lên hàng đầu nhằm phát triển một nền nông nghiệp
bền vững.
Bên cạnh đó, nhóm các nước đang phát triển vẫn chưa giải quyết cơ bản mối
quan hệ kinh tê – xã hội và môi trường sinh thái trong quá trình thiết lập các
hệ thống canh tác và bố trí cây trồng hợp lý. Tuy nhiên, gần đây các nước
này đã có những định hướng và mục tiêu phát triển song thành công của họ
còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Thực tế cho thấy
trong những năm qua, tiến bộ về công nghệ sinh học vào giống cây trồng
được áp dụng và mang lại hiệu quả mặc dù chưa được toàn diện. Bên cạnh
đó, cơ cấu cây trồng vẫn bị quốn hút theo nền kinh tế thị trường, mang đậm
nét truyền thống, chủ yếu dựa vào tính chất sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp.
Đại đa số những nước này còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề giải quyết
lương thực.
Đối với việt nam trong những năm qua, do nhận thức đúng đắn về tính tất
yếu và cần thiết của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong quá trình phát
triển nền kinh tế đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương,
chính sách đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển nhằm
xây dựng nông thôn ngày càng đi lên. Việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây
trồng nhằm xóa bỏ dần chế độ độc canh cây lúa được triển khai và thu nhiều
kết quả. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong nông nghiệp được áp dụng

rộng rãi hầu hết ở các địa phương. Tác dụng của giống cây trồng mới, các
biện pháp thâm canh và một số chính sách nông nghiệp ngày càng được
nhiều địa phương, nhiều hộ nông dân và các tổ chức kinh tế khẳng định. Đã
hình thành nhiều vùng chuyên môn hóa trên cả nước, như vùng cây công
nghiệp ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và cây lương thực ở đồng bằng Sông
Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long. Kết quả bước đầu của việc hình thành
vùng chuyên canh đã tạo ra số lượng hàng nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu
dụng và xuất khẩu, giải quyết vấn đề nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
Trang 16
chế biến trong nước. Tuy nhiên, cho đến nay nền nông nghiệp nước ta vẫn là
nền sản xuất nhỏ, cổ truyền còn mang tính thuần nông, độc canh. Việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chập chạp, tự phát chưa có kết quả vững
chắc trước những biến động phức tạp và thử thách của thị trường. Nhiều loài
cây trồng phát triển không ổn định. Một số địa phương, vùng kinh tế việc giải
quyết tốt mối quan hệ giữa bố trí cây trồng với vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường sinh thái vẫn chưa được thực hiện. Do đó việc chuyển nền sản xuất
lạc hậu ở nước ta lên nền sản xuất hàng hóa là một quá trình cách mạng lâu
dài.
1.2.2. Tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng của xã Ngọc Sơn.
Ngọc sơn là một xã miền núi của huyện Thanh Chương với địa hình phức
tạp, đất nông nghiệp phân tán và manh mún. Với những chính sách hỗ trợ
nông nghiệp của Đảng và Nhà nước, huyện Thanh Chương nói nói chung và
Xã Ngọc Sơn nói riêng đã có những bước phát triển đi lên đáng ghi nhận đưa
đời sống của người dân nông thôn ngày một đổi mới. Với một xã lấy cây lúa
làm chủ lực trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù thực tế thấy rõ một số cây
trồng mang lại hiệu quả kinh tế rất cao như ngô, lạc những chúng không thể
thay thế được cây lúa. Vấn đề đặt ra ở đây là cùng với diện tích đất canh tác
xã làm sao để có thể giúp người dân có cách quy hoạch cây trồng hàng năm
một cách tốt nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Tận dụng hết lợi thế
của đất nông nghiệp, không lãnh phí thời gian, tạo ra dòng chu chuyển cây

trồng hợp lý nhất.
Trang 17
B.TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA XÃ NGỌC SƠN, HUYỆN THANH CHƯƠNG,
TỈNH NGHỆ AN
2.1. Vị trí địa lý
Xã Ngọc Sơn là một xã miền núi phía Tây của tỉnh Nghệ An cách thị trấn
Dùng 7km về phía Đông với tổng diện tích đất tự nhiên 2221,15 ha, xã được
chia thành 13 xóm.
- Phía Bắc giáp với xã Thanh Thịnh – Thanh Chương
- Phía Nam giáp với xã Thanh Ngọc – Thanh Chương
- Phía Tây giáp với sông Lam, xã Xuân Tường – Thanh Chương
- Phía Đông giáp với Nam Hưng – Nam Đàn
Với vị trí địa ly này Ngọc Sơn có nhiều điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Xã có
quốc lộ 46 chạy qua nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc phát
triển nông nghiệp và có thể kết hợp, liên kết với các xã lân cận để học hỏi kinh
nghiệm phát triển một cách tổng hợp. Phía Tây giáp sông Lam nên có một số
diện tích đất bãi bồi phù sa, màu mỡ thuận lợi cho phát triển cây hoa màu của
toàn xã
2.2. Điều kiện tự nhiên
2.2.1. Địa hình đất đai
- Địa hình: Ngọc Sơn là một xã trung du miền núi của huyện Thanh
Chương, địa hình phức tạp vừa có đồi núi vừa có đông bằng hẹp. Dân cư 1, 11,
12 sống dưới đồng núi nhỏ, vừa phát triển kinh tế rừng, vừa làm nông
- Đất đai: Diện tích đất của xã tương đồi lớn (2221,15 ha) nhưng quỹ đất
chưa sử dụng cũng chiếm tỷ lệ 25,8% hầu hết là do đồi núi chưa sử dụng Ngọc
Sơn có 3 nhóm đất chủ yếu. Đất đồi núi (xóm 1, 11, 12, 13), đất thịt nhẹ (xóm 2,
3, 4, 5), đất bãi bồi ven sông Lam (xóm 6, 7, 8, 9)
2.2.2. Thời tiết, khí hậu
Trang 18
Ngọc Sơn là một xã miền Tây của Nghệ An, bị ảnh hưởng của chế độ gió

mùa Tây Nam, nên thời tiết khắc nghiệt. Thời tiết có sự phân hóa hai mùa rõ rệt
là mùa mưa và mùa khô.
- Chế độ nhiệt: nhiệt độ trung bình của năm là 25,4
0
C nhiệt độ cao nhất
trong năm từ 38-40
0
C (vào tháng6, tháng 7), nhiệt độ thấp nhất là 8-12
0
C (tháng
1, tháng 2)m
- Lượng mưa: Huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An có lượng mưa bình
quân năm khá lớn 2000-2100mm. Mùa mưa bắt đầu từ cuối tháng 5- tháng 10
lượng mưa tập trung vào 3 tháng là tháng 8.9.10, chiếm khoảng 65 % lượng mưa
cả năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 11 đến cuối tháng 4 năm sau, chiếm 30%
lượng mưa cả năm. Khí hậu nhiệt đới ẩm gío mùa lượng mưa dồi dào là điều
kiện tốt để sản xuất nông nghiệp. Ngọc Sơn cũng có những điều kiện thuận lợi
chung đó. Song do sự phân bố không đồng đều của lượng mưa trong năm nên
trên địa bàn đến mùa mưa vẫn thường xảy ra lũ lụt, đồng ruộng bị ngập úng.
Mùa khô bị ảnh hưởng của gió tây nam nên hạn hán xảy ra nghiêm trọng làm
cho hoa màu chết hàng loạt. Đây cũng là một khó khăn lớn ảnh hưởng đến kết
quả sản xuất nông nghiệp ở địa phương.
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình năm là 85% cao nhất là 90% từ tháng
12-2
- Chế độ gió: Ngọc Sơn chịu ảnh hưởng của 2 loại gió đó là gió mùa Đông
Bắc và gió mùa Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3
năm sau điển hình là tháng 11gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh nhất, kéo dài,
có năm gây rét đậm rét hại ảnh hưởng đến cây trồng vật nuôi (2008) làm trễ vụ
sản xuất sau một tháng.
Gió mùa Tây Nam (gió Lào) mang khí hậu khô, nóng chủ yếu vào tháng

6, 7, 8, nhiệt độ có lúc lên tới 39-40
0
C độ ẩm thấp, lượng mưa bốc hơi nhanh
gây hạn hán trên diện tích rộng ở địa bàn Ngọc Sơn .
2.2.3. Thủy văn, nguồn nước.
Trang 19
Xã Ngọc Sơn có diện tích mặt nước không rộng lắm ( 38,2 km
2
) chủ yếu
là đầm, hồ và các dòng sông chảy ven trên địa bàn xã. Đây là nguồn cung cấp
lượng nước cho toàn xã vào mùa hạn hán. Trên các con sông đã bố trí các máy
bơm, đập để tưới tiêu, thoát úng, giải hạn kịp thời. Tuy nhiên, do điều kiện vật
chất của xã còn nghèo nàn nên vào mùa mưa vẫn xảy ra ngập úng và mùa hè vẫn
có hiện tượng thiếu nước tưới tiêu.
2.3 Điều kiện kinh tế xã hội
2.3.1. Tình hình sử dụng đất đai của xã Ngọc Sơn
Ngọc Sơn có tổng diện tích đất rất lớn với 2221,15 ha, ta thấy được tình
hình sử dụng đất qua 3 năm có sự thay đổi liên tục. Trong đó quỹ đất nông
nghiệp chiếm số lượng lớn, năm 2005, diện tích đất nông nghiệp là 1279,03
chiếm 57,58% đến năm 2007 giảm xuống còn 1270,03 giảm 0,7%. Sở dĩ đất
nông nghiệp giảm là do xây dựng đường sá, kênh mương thủy lợi, các công
trình sự nghiệp và công trình công cộng. Trong diện tích đất sản xuất nông
nghiệp thì diện tích đất trồng lớn nhất là 413,03 chiếm 69% đất trồng cây hàng
năm. Trong đất nông nghiệp thì đất lâm nghiệp và đất nuôi trồng thủy sản tăng
dần từ năm 2005 đến năm 2007.
Qua bảng 1 cũng cho ta thấy được rằng, đất phi nông nghiệp tăng dần qua
các năm, cụ thể là năm 2005 diện tích đất phi nông nghiệp có 355,18 ha, đến
năm 2007 có 365,08 ha tăng 2,79%. Nguyên nhân là do sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế kéo theo đất thay đổi, chứng tỏ quá trình đô thi hóa đã diễn ra, chuyển từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ buôn bán. Đây là sự thay đổi theo

hướng tích cực.
Đối với quỹ đất chưa sử dụng là do đất quá cằn cỗi, đất đá nên trong 3
năm thì số diện tích đất này thay đổi không lớn lắm, thể hiển khả năng chuyển
quỹ đất chưa sử dụng sang đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp rất hạn chế,
để sử dụng loại đất này cần vốn lớn và công nghệ sản xuất hiện đại.
Trang 20
Chỉ tiêu
2006 2007 2008 2008/2006
DT(ha) % DT(ha) % Dt(ha) % +/- %
Tổng DT đất (Đ) TN
2221,15
100 2221,15 100 2221,15 100 - -
I. Tổng đất NN 1297,03 57,58 1277,03 57,49 1270,03 57,17 -9 0,70
1.Đ.sản xuất NN 859,93 67,23 856,38 67,06 852,28 64,90 -7,65 0,89
- Đ. Trồng cây HN 607,83 70,68 600,1 70,10 598,51 70,20 -9,32 1,53
+ Đ.trồng lúa 415,5 68,34 414,13 68,90 413,03 69,00 -2,1 0,50
+ Đ.trồng cây HN khác 192,43 31,66 186,48 31,10 185,48 31,29 -6,95 3,60
- Đ. trồng cây LN 252,1 29,32 255,7 29,86 253,77 29,80 1,67 0,66
2. Đ. lâm nghiệp 410 32,10 410 32,10 420 30,00 10 2,44
3. Đ. nuôi trồng thủy sản 9,1 0,67 10,65 0,84 8,525 2,03 -0,57 6,32
II.Đ. phi NN 355,18 16 358,28 16,13 365,08 16,43 9,9 2,79
1.Đ.ở 47,1 13,26 48,48 13,53 50,68 13,8 3,58 7,06
2.Đ.chuyên dụng 141,2 39,75 143,51 40,05 147,19 40,3 5,99 4,24
2.1.Đ. trụ sở, sự nghiệp 0,156 0,11 0,16 0,11 0,2 0,13 0,05 33,3
2.2.Đ. SXKD phi NN 5,42 3,80 5,56 3,80 5,86 3,90 0,44 8,12
2.3.Đ. có m.đích c.cộng 135,62 96,00 137,79 96,03 141,19 95,90 5,57 4,11
3.Đ. tôn giáo 1,52 0,42 1,52 0,42 1,76 0,48 -0,18 11,84
4.Đ. n.trang, nghĩa địa 10,41 2,90 10,41 0,90 11 3,01 0,59 5,67
5.Đ. sông suối & mặt nước CD
154,95 43,62 154,35 43,08 151,45 41,40 -3,5 2,26

III.Đ. CSD 186,94 26,42 586,04 26,38 586,04 26,20 -0,9 0,15
3.1.Đ. bằng CSD 118,67 20,20 118,17 20,16 118,17 20,16 -0,5 0,42
3.2.Đ. đồi núi CSD 468,27 79,80 467,87 79,84 467,87 79,80 -0,4 0,08
3.3.Đ. trống đồi trọc - - - - - - - -
( Nguồn báo cáo tình hình sử dụng đất năm 2007 của xã Ngọc Sơn)
Ngọc Sơn là một xã có quỹ đất nông nghiệp cũng như đất chưa sử dụng
rất lớn. Chính quyền địa phương cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, sự nỗ lực của
nhân dân cần có chính sách sử dụng đất hợp lý để phát huy lợi thế của vùng, nhờ
Trang 21
đó tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần thay đổi bộ mặt nông
thôn của xã Ngọc Sơn. Đưa nông nghiệp nông thôn xã nhà hòa chung vào xu thế
phát triển nông nghiệp việt nam.
2.3.2. Dân cư và nguồn lao động.
BẢNG 2: TÌNH HÌNH NHÂN KHẨU VÀ LAO ĐỘNG CỦA XÃ NGỌC SƠN
QUA 3 NĂM (2006 – 2008)
Chỉ tiêu ĐVT
2006 2007 2008 2008/2006
SL % SL % SL % +/- %
1.Tổng số hộ
- Hộ NN
- Hộ phi NN
Hộ
Hộ
Hộ
1614
1353
261
100
83,8
2

16,18
164
0
137
0
270
100
83,5
0
16,50
1657
138
1
276
100
83,3
16,7
43
28
15
2,66
2,06
5,74
2. Tổng NK
- Khẩu NN
- Khẩu phi NN
NK
NK
NK
6937

581
5
1122
100
83,8
1
16,17
675
8
540
6
1352
100
79,90
20,1
0
682
7
546
0
1367
100
79,9
20,1
-110
-355
245
1,58
6,10
21,80

3. Tổng số LĐ
- Lao động NN
- Lao động Phi NN



3612
306
3
549
100
84,8
0
15,20
3649
307
0
579
100
84,1
0
15,90
366
0
307
4
586
100
83,9
16,1

48
11
37
1,32
0,35
6,73
( Nguồn: báo cáo nhân khẩu và lao động của xã Ngọc Sơn)
Dân cư và nguồn lao động là nhân tố ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh,
là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Trước khi quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội của một địa phương càn xem xét, đánh giá đúng năng
lực nguồn lực về dân cư và lao động địa phương đó.
Trang 22
Ngọc Sơn là một xã miền núi có dân số tương đối lớn, tỉ lệ lao động cao.
Trong những năm gần đây xã đã tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện tốt chính sách dân số KHHGĐ nên tỉ lệ tăng dân số tự nhiên thấp và có xu
hướng giảm dần. Bảng 2 cho ta thấy dân số xã Ngọc Sơn giảm nhẹ trong 3 năm:
năm 2006 là 6937 người, năm 2007 là 6827 người (giảm 110 người tương ứng
1,58%). Có được thành quả này là do xã đã làm tốt công tác vận động sinh đẻ có
kế hoạch, động viên các cặp vợ chồng không sinh con thứ 3, vận động các chị
em đi khám phụ khoa, dùng các biện pháp tránh thai Trong năm 2008, có 5
xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2006, toàn xã có 114 hộ, đến năm 2008 tăng lên 1657 hộ (tăng 43 hộ,
tương ứng 2,66%). Số hộ tăng lên là do nhiều cặp gia đình trẻ mới kết hôn tách
ra ở riêng. Trong đó, hộ nông nghiệp năm 2006 là 1353, đến năm 2007 là 1381
hộ (Tăng 28 hộ, tương ứng 2,06%); hộ phi nông nghiệp tăng mạnh hơn: 0,74%.
Điều đó chứng tỏ là xã đã mở rộng phát triển các ngành nghề dịch vụ. Tuy
nhiên, Ngọc Sơn là một xã thuần nông nên người dân vẫn làm nông nghiệp là
chủ yếu, sự thay đổi này không lớn lắm.
Năm 2008 số nhân khẩu tham gia vào nghề phi nông nghiệp gia tăng 21,8%,
số nhân khẩu làm nông nghiệp giảm xuống 6,1%

Ngọc Sơn là xã có nguồn lực lao động rất dồi dào và đã có sự tăng dần trong
3 năm qua: năm 2005 có 3612 lao động, năm 2008 là 3660 lao động (Tăng
1.32%). Thực tế cho thấy ở xã số lao động thanh niên thường đi làm ăn ở các
thành phố lớn nhưng năm nay xã đã liên hệ với các xưởng làm thủ công để tạo
công ăn việc làm tại chỗ cho người lao động, phát triển kinh tế địa phương. Bên
cạnh đó lao động của xã còn đi xuất khẩu lao động ở Malaixia, Hàn Quốc, Đài
Loan, Nga Đây là một giải pháp giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động xã
và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trang 23
Bình quân nhân khẩu trên một hộ qua 3 năm ít biến động, năm 2005 là 4,3
nhân khẩu/hộ, đến năm 2008 là 4,12 nhân khẩu/hộ. Bình quân lao động/hộ lại
giảm xuống, năm 2006 giảm so với năm 2008 là 0,032 lao động/hộ (1,42%).
Nhìn chung nguồn lực lao động của xã tương đối lớn nhưng muốn sử dụng
tốt và hiệu quả nguồn lực đó thì cần có kế hoạch phù hợp, giải quyết tốt lao
động thời vụ trong nông nghiệp nhằm phát triển kinh tế địa phương, làm giàu tại
chỗ. Đây là một nguồn lực cần phát huy của xã Ngọc Sơn.
2.3.3. Tình hình trang bị tu liệu sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp cơ khí hóa là một vấn đề rất quan trọng, cùng
với đất đai, lao động, tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức
sản xuất. Tư liệu sản xuất phản ánh trình độ thâm canh và đời sống nhân dân.
Máy móc trang bị đầy đủ thay thế lao động thủ công, giải phóng lao động cơ bắp
sản xuất được tiến hành liên tục, đáp ứng khắt khe tính thời vụ trong sản xuất
nông nghiệp, tăng năng suất lao động và khối lượng sản phẩm. Nhờ thế người
nông dân được giải phóng phần nào về lao động chân tay, có nhiều thời gian
nhàn rỗi để tham gia các hoạt động sản xuất khác, tăng thu nhập, nâng cao mức
sống. Vì vậy trong quá trình trang bị tư liệu sản xuất cần chú ý, tư liệu sản xuất
phải phù hợp với phương thức sản xuất, quy mô sản xuất, điều kiện kinh tế - xã
hội, tự nhiên của vùng, đồng thời đảm bảo sử dụng tiết kiệm, đầy đủ có hiệu quả
tư liệu sản xuất. Thấy rõ và nhận thức đúng đắn điều này, nên tình hình trang bị
cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa bàn có những tiến bộ đáng kể. Để hiểu rõ vấn đề

này chúng ta tiếp tục theo dõi bảng số liệu sau:
BẢNG 3: TÌNH HÌNH TRANG BỊ TƯ LIỆU SẢN XUẤT CỦA XÃ NGỌC
SƠN QUA 3 NĂM ( 2006- 2008)
Chỉ tiêu ĐVT
2006 2007 2008 2008/2006
SL % SL % SL % +/ - %
1. Tổng đàn trâu bò Con 2648 1,95 2562 1,87 2484 1,79 -164 -0,93
Trang 24
2. Trâu, bò cày kéo Con 1095 0,81 1246 0,91 1311 0,95 216 1,19
3. Máy tuốt lúa Cái 1217 0,90 1301 0,95 1325 0,96 108 1,08
4. Máy bơm nước Cái 757 0,56 835 0,61 994 0,72 237 1,31
5. Máy cày Cái 2 0.001 3 0,00 5 0,003 3 2,5
6.Máy xay xát Cái 270 0,20 301 0,22 317 0,23 47 1,17
7.Bình bơm T.trừ sâu Cái 974 0.72 1274 0,93 1311 0,95 337 1,34
8. Xe cải tiến (bò lốp) Cái 1109 0,82 1164 0,85 1173 0.84 64 1,05
9. Cày, bừa, cuốc, xẻng Cái 1109 0,82 1191 0,87 1242 0,90 133 1,11
Qua bảng số liệu ta thấy rằng tổng đàn trâu bò có xu hướng giảm từ 2648 con
năm 2006 giảm xuống còn 2484 con của năm 2008. sự suy giảm của đàn trâu bò
được giải thích, là do chính sách giao đất giao rừng cho từng hộ nông dân, trước
đây các đồi núi là nơi chăn thả trâu, bò nhưng hiện này những khu vực đó đã
khoanh vùng để trồng cây. Do vây, khu vực chăn thả bị thu hẹp mà nguồn thức
ăn của trâu bò không chỉ là rơm rã mà còn phải có cỏ thì trâu bò mới đảm bảo đủ
thức ăn. Nhưng bên cạnh sự giảm về đàn trâu bò thì trâu, bò cày kéo lại gia tăng
từ 1095 con (2006) tăng lên 1311 con (2008), từng hộ gia đình đang từng bước
chăm lo cho tư liệu sản xuất đặc biệt là sức kéo. Xã Ngọc Sơn không thể dùng
máy cày trong quá trình sản xuất vì vùng đất ruộng rất manh mún không phù
hợp cho việc sử dụng máy cày.
Nhìn chung tư liệu sản xuất của xã từng ngày gia tăng từ cày, bừa, cuốc,xẻng
đến sức kéo. Đời sống của người dân ngày càng phát triển tạo điều kiện cho
từng hộ nông dân sắm sửa đầy đủ những vật dụng cần thiết để phục vụ quá trình

sản xuất nông nghiệp. Bình quân hầu hư các hộ nông dân đều đã trang bị cho
mình đầy đủ trang bị sản xuất chỉ có một phần nhỏ còn thiếu là của những đôi
vợ chồng trẻ mới ra ở riêng nên chưa đủ điều kiện để trang bị đầy đủ cho mình.
Chúng ta có thể thấy được sự đổi thay của xã qua sự gia tăng của tư liệu sản
xuất, điều này góp phần to lớn vào công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý
Trang 25

×