Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu Luận Thực trạng và giải pháp chính sách xóa đói giảm nghèo cho người dân nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.78 KB, 21 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay với sự phát triển không ngừng của xã hội, con người có
những nhu cầu cao hơn về nhu cầu ăn mặc, nhà ở và vui chơi giải trí…
Nhưng với tình hình chung của Việt Nam điều đó khó có thể thực hiện
toàn diện được. Đa số những người nghèo sống ở vùng nông thôn, miền
núi và thu nhập chủ yếu của họ là từ sản xuất nông nghiệp. Trước tình
hình đó, vấn đề quan trọng hàng đầu được đặt ra cho nước ta là xóa đói
giảm nghèo, nhằm mục đích xóa dần khoảng cách giữa người nghèo và
người giàu, nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; cải thiện chất
lượng cuộc sống cho người nghèo nói riêng và cho toàn xã hội nói
chung.
Trong những năm qua, Việt Nam được thế giới chú ý bởi những
thành tựu trong công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của
người dân. Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm là
hoàn thành việc phát triển kết cấu hạ tầng cho các xã nghèo vào năm
2010; nâng cao mức thu nhập và mức sống của người nghèo, giảm tỷ lệ
hộ nghèo xuống còn 10%-11% vào năm 2010, góp phần đạt được mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Theo tổng kết của Chương trình Phát triển
Liên Hiệp quốc (UNDP), trong điều kiện kinh tế - xã hội của mình, so
với các nước có cùng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Việt Nam đã sử
dụng những nguồn lực có được một cách hiệu quả vào công tác nâng cao
mức sống người dân, trình độ dân trí, tuổi thọ,…Tuy vậy, bên cạnh đó,
công tác xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng
không nhỏ tới mục tiêu công bằng xã hội trong tiến trình phát triển bền
vững của Việt Nam. Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và
nông thôn, giữa các dân tộc cao. Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi
đa số người nghèo lại sống nhờ vào nông nghiệp. UNDP cho rằng mặc
dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn
tượng trong việc giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo
cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực.


UNDP khẳng định quan điểm: Theo đuổi tăng trưởng phải đi kèm với nỗ
lực tăng trưởng vì người nghèo thông qua việc tái phân bổ tài sản và thu
nhập trong nền kinh tế. UNDP cũng cảnh báo, sự gia tăng bất bình đẳng
ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất cho tiến trình xóa đói giảm nghèo và có
lẽ cũng kìm hãm sự ổn định chính trị và xã hội.
II.TỔNG QUAN
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu rõ về thực trạng nghèo đói ở Việt Nam
Tình hình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo trong thời gian
qua
Xác định nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện
chính sách một cách có hiệu quả hơn.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Người nghèo nông thôn
Chính sách tác động đến người nghèo nông thôn
III. NỘI DUNG
3.1. Các định nghĩa
3.1.1. Nghèo tuyệt đối
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát
triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã
đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt
đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài
cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu
tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và
mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ
may mắn của giới trí thức chúng ta."
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu
quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia
đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và

hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình
có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng
(1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị
những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng
(1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình
quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân
từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo.
3.1.2. Nghèo tương đối
Nghèo tương đối được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá
nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy
đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số
tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ
thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo
tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không
phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp
vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có
tầm quan trọng hơn.
3.2. Tình trạng nghèo ở Việt Nam
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam,
vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112
trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (tiếng Anh:Gender Development
Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng
Anh:Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số

liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ
nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới
là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002)
là 10.87%.
Theo chuẩn nghèo quốc gia thì tỷ lệ số hộ nghèo toàn quốc đã giảm từ
58% năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007, theo chuẩn quốc tế thì cũng
là từ 58% năm 1993 xuống còn 24% vào năm 2004 và do vậy, đã sớm
đạt Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo".
3.3. Một số thành tựu, tồn tại và bất cập trong việc thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo
3.3.1. Một số thành tựu trong công tác xóa đói, giảm nghèo
Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đi đôi với
tăng trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và
tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển giữa các vùng, miền trong cả
nước, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Thực hiện chủ
trương đó, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Theo Báo cáo Phát triển
Việt Nam 2008, số liệu điều tra hộ gia đình năm 2006 khẳng định xu
hướng giảm nghèo ở Việt Nam đang tiếp tục diễn ra, với tỷ lệ hộ gia
đình sống dưới ngưỡng nghèo chỉ còn 16%, so với 28,9% năm 2002, và
58,1% năm 1993. Dựa vào thước đo theo chi phí cho một rổ hàng hóa
như đã đề cập ở trên, theo ước tính, trong hơn một thập kỷ qua, Việt
Nam đã giảm nghèo cho hơn 42% dân số, tương đương với 35 triệu
người.
Tuy nhiên, tiến bộ đạt được trong xóa đói, giảm nghèo là không
đồng đều. Tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn nhiều so
với mức nghèo của các nhóm người Kinh và Hoa. Số liệu cho thấy, hầu
hết những người nghèo đều sống ở các vùng nông thôn, với tỷ lệ nghèo
đang tiếp tục giảm. Điều này trái ngược với mức nghèo hầu như vẫn giữ
nguyên ở thành thị. Về tỷ lệ người nghèo thành thị không giảm, có nhiều

nguyên nhân có thể giải thích hiện tượng này. Đó là do giá cả ngày càng
tăng cao ở khu vực thành thị. Sự bùng nổ giá bất động sản làm tăng chi
phí bán lẻ và các dịch vụ khác trong thành phố. Giá cả leo thang ở khu
vực thành thị có thể dẫn đến mức sống thấp hơn cho những người mà thu
nhập của họ không tăng theo một cách tương ứng. Ngoài ra, giá cả tăng
có thể khiến cho những người cận nghèo bị tái nghèo.
Sự kết hợp giữa tốc độ giảm nghèo nhanh ở những vùng nghèo hơn
của Việt Nam và giảm nghèo chậm hơn ở các tỉnh giàu hơn đã giúp thu
hẹp khoảng cách giữa các vùng. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nghèo đã
giảm nhanh chóng ở những vùng mà tỷ lệ ban đầu là cao nhất. Bức tranh
nghèo giữa các tỉnh cũng tương tự như giữa các vùng. Vẫn còn những
khoảng cách lớn những tỉnh giàu nhất và tỉnh nghèo nhất. Tuy nhiên,
ngay cả ở những vùng cao nguyên nghèo nhất, một số tỉnh cũng đang
giảm nghèo tốt hơn và bắt đầu theo kịp các tỉnh giàu hơn ở vùng đồng
bằng. Điều đó là do đối với các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số Chính phủ đã có những chính sách ưu tiên như Chương trình
135, ổn định dân di cư tự do, chính sách trợ giá, trợ cước, Chương trình
173, Chương trình 186 Những chính sách đó đã giúp người nghèo,
người dân tộc xóa đói, giảm nghèo, lĩnh hội được các thành quả của quá
trình phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng.
Tuy chưa theo kịp tốc độ của vùng đồng bằng, vùng đô thị, song đời
sống của người dân nơi đây đã có những thay đổi tích cực, kết cấu hạ
tầng phát triển, thị trường hàng hóa đã bắt đầu hình thành, dần dần thay
thế nền kinh tế tự cung, tự cấp trước đây.
3.3.2. Một số bất cập trong việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo
Thành tựu về xóa đói giảm nghèo trong những năm qua là không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, những hạn chế và bất cập trong tiến trình này là
không nhỏ, thể hiện ở sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn giữa các vùng,
các tầng lớp xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao gấp

4-5 lần so với mức bình quân của cả nước. Đa số người nghèo ít có điều
kiện tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản. Bên cạnh đó, những thành tựu
xóa đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái
nghèo còn cao. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những
rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường,
môi trường ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp )
cũng vẫn rất lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường
xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong nông
nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao. Mặt khác, có không ít
hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định
nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo. Ngoài ra,
nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường.
Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài
nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng
hơn.
Theo Báo cáo của Dự án VIE, công tác xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn do nguồn lực xóa đói, giảm nghèo
hạn chế; số lượng cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo còn thiếu,
yếu về năng lực. Bên cạnh đó, cơ chế xác định hộ nghèo chưa được
thực hiện thống nhất ở các địa phương và chất lượng giám sát theo dõi
báo cáo về xóa đói, giảm nghèo chưa cao Một số nguyên nhân cụ thể
dẫn đến những bất cập trong công tác xóa đói, giảm nghèo có thể lý
giải như sau:
Thứ nhất, nguồn kinh phí do trung ương bố trí còn rất hạn chế,
chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. Với nguồn kinh phí hằng năm bố trí
cho xóa đói, giảm nghèo khoảng 600 - 700 tỉ đồng (bình quân khoảng
100.000 đ/người) khó có thể giúp người nghèo thoát nghèo trong thời
gian ngắn. Trong điều kiện nguồn kinh phí hỗ trợ từ trung ương còn
hạn hẹp thì nguồn huy động tại chỗ đóng vai trò hết sức quan trọng.

Song, nhiều tỉnh gặp khó khăn, không chủ động được việc huy động
nguồn lực tại chỗ do không biết chính xác nguồn kinh phí được hỗ trợ
từ trung ương là bao nhiêu và thông thường tiêu chí phân bổ kinh phí
không được thông tin rõ ràng.
Thứ hai, một số chính sách hỗ trợ chưa thật sự phù hợp với người
nghèo ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình. Các thủ tục rườm
rà khi vay vốn kết hợp với đội ngũ cán bộ tín dụng tại cơ sở thiếu trầm
trọng là những lý do khiến người nghèo khó tiếp cận được dịch vụ này.
Hệ thống cơ chế, chính sách mang tính bao cấp kéo dài phần nào đã tạo
ra tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng
của một bộ phận người nghèo, xã nghèo cũng ảnh hưởng đến tính bền
vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba, hệ thống theo dõi, giám sát chương trình chưa được tổ
chức một cách có hệ thống và đồng bộ. Thông thường công tác sơ kết,
tổng kết chương trình chủ yếu dựa trên báo cáo của các bộ và các tỉnh
gửi về, song tình trạng một số chỉ tiêu trong báo cáo không có số liệu
hoặc không gửi báo cáo về vẫn xảy ra thường xuyên. Trong khi đó, các
chỉ tiêu được sử dụng để báo cáo, nhìn chung mang tính liệt kê, chưa
phân biệt rõ giữa chỉ tiêu đầu vào, đầu ra và vai trò tác động. Điều này
đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác theo dõi, đánh giá chính xác
hiệu quả và tác động của chương trình.
Thứ tư, thiếu đội ngũ cán bộ xóa đói, giảm nghèo có đủ năng lực để
thực hiện chương trình. Hiện nay, phần lớn đội ngũ cán bộ làm công
tác xóa đói, giảm nghèo ở xã vẫn kiêm nhiệm, trong khi chủ yếu các
hoạt động của chương trình được triển khai tại xã. Chưa được đào tạo
có hệ thống, khối lượng công việc nhiều là những lý do khiến họ khó
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Năng lực chuyên môn của cán bộ
cấp huyện, xã còn yếu, nhiều cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo
chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.

Hơn nữa công tác xóa đói, giảm
nghèo đòi hỏi cán bộ ngoài chuyên môn nghiệp vụ còn phải nhiệt tình,
nhạy bén, sáng tạo để nắm chắc tình hình đói nghèo trên địa bàn.
3.4. Quan điểm tiếp cận và một số giải pháp đẩy mạnh hiệu quả
của công tác xoá đói, giảm nghèo
3.4.1. Quan điểm tiếp cận vấn đề nghèo đói và xoá đói, giảm
nghèo
Trong cách tiếp cận vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo, phải
có sự nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói,
giảm nghèo. Như chúng ta đã biết, đói nghèo là một hiện tượng mang
tính toàn cầu; nó không chỉ tồn tại ở những nước nghèo có thu nhập
thấp, mà vẫn có ở ngay trong những nước phát triển. Do vậy, xoá đói,
giảm nghèo đã được đưa vào chương trình nghị sự của Liên Hiệp quốc.
Có thể nói, xoá đói, giảm nghèo là chiến lược của các quốc gia, nhưng
đối với Việt Nam, nó càng có ý nghĩa đặc biệt vì đó là mục tiêu hàng
đầu của con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, giải quyết vấn đề nghèo đói không chỉ dựa vào kinh
nghiệm trong nước mà đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận giải quyết
một cách khoa học - đó là gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, giảm
nghèo đói phải bảo đảm tính toàn diện, công bằng, bền vững và hội
nhập.
Bên cạnh đó, cần phân tích một cách khách quan và khoa học
nguyên nhân của nghèo đói để từ đó có những giải pháp hữu hiệu xoá
đói, giảm nghèo. Thực tế cho thấy, nghèo đói xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân khách quan từ
điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội… nhưng bên cạnh đó
cần chú ý tới các nguyên nhân chủ quan của bản thân người nghèo.
Ngoài ra cần phải chú ý tới một nguyên nhân vừa mang tính khách
quan, vừa mang tính chủ quan đối với đói nghèo; đó chính là sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của chính quyền các cấp.

Một điều quan trọng là, xóa đói, giảm nghèo cần phải thu hút
được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp dân cư bởi vì xóa đói,
giảm nghèo không phải là vấn đề riêng của người nghèo, hay của
Chính phủ, mà là vấn đề chung của cả nước, của toàn xã hội. Các
phong trào "Ngày vì người nghèo", các chương trình truyền hình
"Những tấm lòng từ thiện" đã thu hút đông đảo sự quan tâm và giúp
đỡ của các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong
nước và quốc tế. Do nguồn lực hỗ trợ từ trung ương hạn hẹp, việc bổ
sung ngân sách cho chương trình bằng nguồn ngân sách địa phương và
huy động đóng góp của cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc
triển khai thực hiện chương trình. Bên cạnh các hỗ trợ bằng tiền, phải
kể đến những đóng góp bằng ngày công lao động và thông qua việc xây
dựng các mô hình và kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo. Đây thực sự là
những đóng góp rất quý báu góp phần thực hiện thành công và hiệu quả
chương trình xóa đói, giảm nghèo.
3.4.2. Một số biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh có hiệu quả công
tác xóa đói, giảm nghèo
Giải pháp cơ bản và tổng thể về xoá đói, giảm nghèo là sớm hình
thành đồng bộ và thực hiện tốt hệ thống thể chế kinh tế, xã hội để thúc
đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, để khắc phục những hạn chế trên, cần
đảm bảo thực hiện tốt các biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục phân cấp triệt để cho địa phương trong thực hiện
các chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm sự hài hòa giữa trách
nhiệm đi đôi với quyền hạn; các bộ, ngành tập trung vào xây dựng cơ
chế, chính sách, xây dựng tiêu chí, tạo nguồn lực, đào tạo cán bộ,
hướng dẫn và giám sát đánh giá; việc huy động nguồn lực tại chỗ và tổ
chức thực hiện là trách nhiệm của xã, huyện và tỉnh. Phát huy sáng
kiến, năng động của địa phương, vai trò của các đoàn thể và người dân
trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, đối với 35 huyện miền núi nghèo nhất cần đưa vào kế
hoạch đầu tư tập trung. Kinh nghiệm của Trung Quốc giải quyết vấn đề
này rất thành công. Ở nước ta, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Yên
Bái cũng đang có xu hướng giải quyết như trên. Đối với vùng đồng bào
dân tộc ở Tây Nguyên, vận động và giao nhiệm vụ cho các lâm, nông
trường quốc doanh; các đơn vị kinh tế của quân đội; làng kinh tế thanh
niên giúp đồng bào với các hình thức phù hợp.
Cần phát huy được vai
trò của người dân địa phương tham gia vào quá trình thực hiện dự án, tạo
nên sự liên kết vững chắc giữa chính quyền địa phương, các tổ chức
đoàn thể và người dân Đây là cơ sở quan trọng để giảm thiểu tình trạng
tái nghèo đang diễn ra tại nhiều địa phương.
Thứ ba, cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn lực
theo hướng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phương; có chính
sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào miền núi, nhất là
ưu đãi về đất, thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc
tế, tạo lực mạnh về tài chính cho các vùng nghèo.
Thứ tư, đổi mới hệ thống cơ chế quản lý theo hướng phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương.
Tăng cường năng lực và thẩm quyền trong quản lý và điều hành thực
hiện chương trình cho tỉnh; làm rõ quyền và trách nhiệm của người
nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, khắc phục tư tưởng ỷ lại. Xây dựng cơ chế
khuyến khích hộ, xã tự lực vươn lên thoát nghèo và huy động, sử dụng
vốn có hiệu quả. Để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, cần khuyến
khích làm giàu, tạo điều kiện cho mọi người có khả năng đều hăng hái
đầu tư, sản xuất, kinh doanh, làm giàu một cách chính đáng
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức
của người dân; Coi trọng công tác cán bộ trong xoá đói, giảm nghèo.
Trong công tác này, công tác cán bộ, nhất là những cán bộ trực tiếp
lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo có vai trò quyết định; nâng cao

năng lực cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, cán bộ chuyên
trách làm công tác giảm nghèo, cán bộ khuyến nông; tiếp tục duy trì
cán bộ chuyên trách làm công tác xóa đói, giảm nghèo, cán bộ khuyến
nông ở xã nghèo. Thiết lập hệ thống theo dõi, giám sát, đánh giá ở cả 4
cấp, bảo đảm tính khách quan, khoa học, góp phần chỉ đạo chương
trình có hiệu quả hơn.
Thứ sáu, kiên quyết chống bệnh hình thức và bệnh thành tích trong
xoá đói, giảm nghèo. Chúng ta đều biết xoá đói, giảm nghèo phải đi
liền với tiết kiệm, chống lãng phí; nhưng trên thực tế do bệnh hình thức
và bệnh thành tích nên những người tổ chức lại thích phô trương, gây
lãng phí về công sức và tiền của.
IV. KẾT LUẬN
Để đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, các Chương trình giảm
nghèo quốc gia đều được thiết kế cùng với một hệ thống cơ chế chính
sách xóa đói giảm nghèo khá đồng bộ với nhiều chương trình, dự án
thành phần trong đó có dự án xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo.
Mục tiêu chung của nhóm mô hình là nhằm giúp hộ nghèo, xã nghèo lựa
chọn được giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao phù hợp với điều
kiện thực tế của hộ dân và địa phương để phát triển sản xuất, đồng thời
tận dụng được những lợi thế phát triển ngành nghề, mở rộng việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo bền vững.
Định hướng chính sách xóa nghèo đói. Để xóa đói giảm nghèo cho bộ
phận dân nghèo, các chương trình phát triển cần nhắm vào mục tiêu là
chúng mang lại phúc lợi trực tiếp gì cho nhóm nghèo chứ không chỉ vì
mục tiêu chung cho toàn xã hội hay kinh tế nói chung. Không có con
đường tắt nào hoặc những biến đổi nhanh chóng cho quá trình giảm
nghèo. Tiến trình yêu cầu sự cam kết dài lâu và toàn diện có khả năng
linh động và bao gồm cả người nghèo và thể chế. Người nghèo cần được
giao quyền lực và lời nói để có thể tạo dựng lên khung thể chế sẽ hoạt
động tốt nhất vì họ trong tiến trình giảm nghèo.

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tạp chí Chính sách phát triển, 2001, tập 19 (số 4) trang: 553-562
- Chuẩn nghèo và thước đo nghèo ở một số quốc gia. Nguyễn Văn Phẩm
(vụ hợp tác quốc tế)
- Bài giảng “Phân tích chính sách nông nghiệp”. Ts. Phan Văn Hoà
- Thực trạng chính sách phát triển nông nghiệp hiện nay. Đăng bởi
bear on tháng tám 23, 2008. Vũ trọng khải
- Việt Nam ưu tiên chính sách xóa đói giảm nghèo (26/09/2008).
Nguồn:Thông tấn xã Việt Nam
- Phản hồi loạt bài "Chính sách cho nông dân: Từ văn bản đến thực
tiễn". NNVN (05/06/2008 08:15)

×