Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển. (Nhật Bản và Hoa Kỳ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.86 KB, 37 trang )

tuthienbao.com
Tên đề tài: “Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm
yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
các nước phát triển. (Nhật Bản và Hoa Kỳ”.
PHẦN 1.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Xuất khẩu tôm của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh với những thành tựu
to lớn đang góp phần đưa kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất khẩu
tôm Việt Nam đã có một tốc độ tăng trưởng tương đương với tôc sđộ tanwg
trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ và xây dựng: 6 tháng đầu năm
2013, XK tôm Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm
2012. XK sang các thị trường trọng điểm tăng khả quan như sang Nhật Bản tăng
6,6%, sang Mỹ tăng 22,4% và sang Trung Quốc tăng 33,7%
Cùng với những cơ hội rộng mở, mặt
hàng Tôm Việt Nam đang phải đối mặt
với những thách thức lớn đặt ra trong sân chơi chung thương mại quốc tế. Khi
Tôm Việt Nam đã có chỗ đứng trên một số thị trường lớn như Mỹ, EU,
Nhật Bản thì đi kèm theo nó là rất nhiều rủi ro. Mỹ được coi là
thị trường chiến
lược của Tôm Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu rất cao so với tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam và đang chiếm một thị phần đáng
kể trên thị trường thuỷ sản Mỹ. Việc tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao
thị phần trên thị trường này không dơn giản trong khi cạnh tranh ngày càng gay
gắt, hơn nữa thị trường Mỹ luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro bất ngờ, đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng môi trường kinh doanh để xây dựng chiến lược
cho phù hợp trong từng thời kì. Việc sử sụng mô hình SWOT phân tích điểm
mạnh điểm yếu,cơ hội,thách thức của việc xuất khẩu Tôm Việt Nam vào thị
trường Mỹ sẽ giúp chúng ta đánh giá tốt hơn về hiện trạng,xem xét các yếu tố
nội tại cũng như các tác động khách quan từ phía thị trường các nươc phát triển
để đưa ra những chiến lược thực hiện mục tiêu đề ra,nâng cao lợi nhuận,giành
nhiều thị phần hơn trên đất Mỹ. Đó là lý do tôi chọn mô hình SWOT để xây


dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường
Mỹ- một thị trường mở nhưng đầy thách thức.
2. Mục tiêu của đề tài.
2.1 Mục tiêu tổng quát
Phân tích đánh giá về tình hình xuất khẩu Tôm của Việt Nam vào thị trường các
nước phát triên.
2.2 Mục tiêu cụ thể.
Sử dụng mô hình swot để nhận định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách
thức cưa mặt hàng tôm Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước phát
triển, từ đó đề ra các giải pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
3.1 Không gian:
3.2 Thời gian:
4. Nội dung của nghiên cứu:
- Thực trạng xuất khẩu Tôm của Việt Nam vào thị trường các nước phát triên và
nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
- các chiến lược đc đề xuất.
- Kết luân.
PHẦN 2.NỘI DUNG
Chương I
Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
I.1 Các khái niệm cơ bản.
Mô hình swot là: Phương pháp phân tích SWOT (còn gọi là ma trận SWOT) là
phương pháp phân tích các điểm Mạnh (Strengths), điểm Yếu (Weaknesses), Cơ
hội (Opportunities) và Rủi ro (Threats).
Điểm Mạnh và điểm Yếu, gọi nôm na là sở trường và sở đoản là những yếu
tố nội bộ tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị. Các yếu tố này có thể là tài sản, kỹ
năng hoặc những nguồn lực nào đó của công ty so với đối thủ cạnh tranh.
Cơ hội và Rủi ro là các yếu tố bên ngoài tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị của
công ty mà nằm ngoài tầm kiểm soát của công ty. Cơ hội và Rủi ro nảy sinh từ

môi trường kinh doanh cạnh tranh, yếu tố địa lý, kinh tế, chính trị, công nghệ,
xã hội, luật pháp hay văn hóa.
Mô hình SWOT chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với n
gành hàng, doanh nghiệp từ đó kết hợp phát triển các loại chiến lược, đề xuất cá
c giải pháp để phát huy những điểm mạnh, khai thác những cơ hội, tối thiểu hoá
những điểm yếu và hạn chế những thách thức để hoạt động kinh doanh đạt hiệu
quả cao, lợi nhuận lớn và tránh được các rủi ro. Các loại chiến lược là:
chiến lược thế mạnh-cơ hội (SO); chiến lược điểm yếu-cơ hội (WO); chiến lược
thế mạnh-đe doạ (ST); chiến lược điểm yếu
đe doạ (WT). Ngoài ra còn có các chiến lược mở rộng kết hợp nhiều yếu tố
như: SOT, SWT, OWT, SWOT.

Các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu là các yếu tố bên trong (môi trường
bên trong) còn các yếu tố cơ hội, thách thức (môi trường bên ngoài). Sự kết hợp
các
yếu tố bên trong và bên ngoài là vấn đề cơ bản nhất và khó khăn nhất của việc
xây dựng và sử dụnh ma trận SWOT. Điều này đòi hỏi phải có sự phán đoán tốt
về mối quan hệ giữa các yếu tố.
1.2 Ứng dụng của mô hình SWOT
SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị
trí, định hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp
với làm việc và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh
doanh, xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản
phẩm và dịch vụ
Để thiết lập ma trận SWOT cần trải qua các bước sau:
-Xác định các thế mạnh của ngành hàng hay của doanh nghiệp.
-Xác định các điểm yếu của sản phẩm, của doanh nghiệp.
-Phân tích môi trường và xác định các cơ hội để phát triển ngành hàng, doanh
nghiệp.
-Phân tích và tìm ra những mối đe doạ từ bên ngoài. Các mối đe doạ này có

thể là đối thủ cạnh tranh thay đổi chiến lược, thị trường biến động thất thường
chuyển hướng mậu dịch, chính phủ thay đổi chính sách theo hướng bất lợi.
-Kết hợp các yếu tố:
+Kết hợp các điểm mạnh và cơ hội, ghi kết quả chiến lược SO.
+Kết hợp các điểm mạnh và mối đe doạ, ghi kết quả chiến lược ST.
+Kết hợp điểm yếu và cơ hội, ghi kết quả chiến lược WO.
+Kết hợp điểm yếu và thách thức, ghi kết quả chiến lược ST.
Ngoài ra còn có thể xây dựng, mở rộng ma trận kết hợp nhiều yếu tố.
Chương II
Thực trạng các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức của xuất khẩu Tôm Việt nam vào thị trường các
nước phát triển.
2.1 Điểm mạnh
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí của Việt Nam là niềm mơ ước của rất nhiều các quốc gia trên thế
giới. Với 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên trải qua 13 vĩ độ từ 823’ vĩ
độ bắc đến 2129' vĩ độ bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam
rộng 226000 km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên một triệu km rộng gấp 3
lần diện tích đất liên.
Trên vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn
như: Cô Tô, Cát Bà, Phú Quốc… là nơi có nhiều tiềm năng để phát triển du
lịch đồng thời đã, đang và sẽ được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các
dịch vụ hậu cần, chu chuyển sản phẩm cho các đội tàu khai thác hải sản,
đồng thời là nơi cư trú của tàu thuyền trong mùa mưa bão.
Ngoài ra nước ta còn có 660 nghìn ha vùng nước lợ, đây là môi trường giàu
chất dinh dưỡng cho thực vật thủy sinh Là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của
tôm he, tôm nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp,
cua biển…
2.1.2 Diện tích nuôi tôm có xu hướng tăng mạnh
Theo Phạm Xuân Thuỷ (2006) năm 2005 diện tích và sản lượng tôm nước lợ trên

cả nước phân theo các vùng gồm: ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ,
Đông Nam Bộ và ĐBSCL được thống kê trong (Bảng 1). ĐBSCL có diện tích nuôi
và sản lượng tôm nước lợ cao nhất so với các vùng nuôi còn lại, trong đó Đông
Nam Bộ và ĐBSCL hai vùng nuôi thuộc Nam bộ.
.
Diện tích tôm nuôi nước lợ cả nước năm 2005 là 604.479 ha (Bảng 2) so với năm
1999 tăng 394.031 ha (gấp 1,87 lần), mức tăng bình quân 31,2% /năm. Các tỉnh ven
biển Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi tôm nước lợ lớn nhất là 535.145
ha (năm 2005) (chiếm 88,53% diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước).
Theo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, sản lượng tôm nước lợ tại Nam Bộ các
năm từ 2007 -2009 đạt trên 300.000 tấn. Trong khi các năm từ 1995 – 1999 mới chỉ
dưới 50.000 tấn (hình 1).
Hình 1: Diễn biến sản lượng tôm nuôi nước lợ ven biển các tỉnh Nam Bộ
Theo thống kê của Bộ NN & PTNT, tính đến tháng 8-2008 tổng diện tích
nuôi tôm nước lợ của các tỉnh ven biển ĐBSCL là 539.607ha, chiếm 89,3% tổng
diện tích cả nước; trong đó, nuôi tôm sú là 538.800ha, tôm thẻ chân trắng 807ha.
Diện tích nuôi tôm sú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Cà Mau (257.000ha), Bạc Liêu
(121.811ha) và Kiên Giang (77.218ha)
ĐBSCL có 46.257ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, diện tích còn lại
là nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến (Cà Mau và Bạc Liêu tập trung
nhiều nhất, 90%). Các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, diện tích nuôi tôm sú là
18.843ha và nuôi tôm chân trắng là 129ha.
Sản lượng thu hoạch, tính riêng khu vực ĐBSCL là 160.566 tấn, chiếm
76,3% tổng sản lượng thu của cả nước, chủ yếu là tôm sú. Các tỉnh có sản lượng
tôm sú cao là Cà Mau (68.500 tấn), Bạc Liêu (36.211 tấn), Kiên Giang (13.623
tấn) Năng suất nuôi tôm sú thâm canh trung bình 3-4 tấn/ha/vụ 4 tháng.
Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú trong vùng đạt hơn 560 nghìn ha, sản
lượng hơn 293 nghìn tấn; trong đó, tỉnh Cà Mau có gần 247 nghìn ha, Bạc Liêu
117.364 ha, Kiên Giang hơn 72 nghìn ha Từ năm 2000 đến nay, các tỉnh đã
chuyển hơn 300 nghìn ha ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS; riêng

năm 2006, chuyển gần 6.500 ha.
Diện tích nuôi tôm sú năm 2010 giảm gần 16.000 ha so với năm 2009 do hệ
thống tiêu thoát nước thải chưa đáp ứng nhu cầu và chưa ngăn chặn được dịch bệnh
Tháng 8/2010, sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đã đạt 222.480 tấn, trên
khoảng 39% diện tích. Như vậy, với 61% diện tích tôm chưa thu hoạch cùng với
cùng với diện tích nuôi thêm trong 4 tháng cuối năm, sản lượng tôm nước lợ nuôi
năm nay có thể đạt tới 500.000 tấn.
Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì hướng đi
trong tương lai của đồng bằng ven biển Nam Bộ là phát triển nuôi tôm sú theo
chiều sâu. Đến năm 2015, có 546.000 ha vào nuôi tôm sú, giảm 768 ha so với năm
2010 nhưng sản lượng sẽ đạt 463.000 tấn, 80% sản lượng sẽ được xuất khẩu với
giá trị hàng năm ít nhất là 1,5 tỉ USD.
Hình thức nuôi phổ biến là quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh,
thâm canh. Trong đó, diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm khoảng
20% diện tích để sản lượng nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm 51% tổng sản
lượng tôm, sản lượng nuôi quảng canh cải tiến chiếm 35%, sản lượng tôm lúa, tôm
rừng chiếm 14% tổng sản lượng.
Năng suất tôm nuôi quảng canh phấn đấu từ 0,35-0,45 tấn/ha, nuôi quảng
canh cải tiến trên ruộng lúa (tôm lúa) đạt từ 0,4-0,5 tấn/ha, nuôi tôm rừng 0,15-0,20
tấn/ha, nuôi thâm canh-bán thâm canh đạt trung bình 2,0-3,5 tấn/ha. Hiện tại năng
suất tôm nuôi trung bình của vùng đạt 0,7 tấn/ha/năm và phấn đấu đến năm 2015
đạt 0,85 tấn/ha.
Đến hết tháng 8 năm 2013, ước diện tích nuôi tôm cả nước đạt 600.000 ha,
trong đó diện tích nuôi tôm sú là 570.000 ha, tôm thẻ chân trắng là 25.200 ha.
Sản lượng thu hoạch tôm ước đạt 133.000 tấn, trong đó tôm sú là 93.000 tấn,
tôm thẻ chân trắng là 40.000 tấn.
Về mặt hàng tôm thẻ chân trắng, 7 tháng đầu năm xuất khẩu tăng 51,5% so
với cùng kỳ năm 2012 (đạt 609 triệu USD) và chiếm 43,7% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong khi xuất khẩu tôm sú chỉ tăng 1,3%
so với cùng kỳ năm 2012

2.1.3 Sản phẩm đã đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu

Bộ thủy sản đã ban hành hàng loạt các tiêu chuẩn ngành về điêù kiện đảm
bảo an toàn vệ sinh của tàu cá, cảng cá, chợ cá, cơ sở thu mua, cơ sở
sản xuất nước đá, sơ chế thủy sản, kho lạnh, cơ sở bán lẻ… Xây dựng và ban hành
các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với tiêu chuẩn
cuả các nước nhập khẩu. Công tác kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh
thực phẩm đã
được chuyển đổi từ kiểm tra sản phẩm cuối cùng sang quản lí và thực hiện
các biện pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm theo hệ thống xuyên suốt từ khâu sản x
uất nguyên liệu đến thu mua và chế biến xuất khẩu.

Với sự nỗ lực của các cơ quan quản lí cùng các doanh nghiệp, tháng 11/19
99 Việt Nam đã chính thức được công nhận vào danh sách các nước
xuất khẩu thủy sản vào EU với 18 doanh nghiệp. Đến nay đã nâng lên 153
đơn vị có code xuất khẩu đi EU chiếm 38,7% trong tổng số cơ sở chế
biến hiện có, khoảng 300 đơn vị áp dụng HACCP đủ tiêu chuẩn xuất hàng v
ào Mỹ. Những doanh nghiệp này có giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 80% t
ổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.
Những nỗ lực đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn
thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ của riêng Nhà nước mà từ các
doanh nghiệp, sản phẩm tôm
Việt Nam đã và đang tiến xa hơn và có thể xâm nhập và
chiếm lĩnh thị trường thủy sản Mỹ.
2.1.4 Đã có một số công nghệ cao trong chế biến và nuôi trồng
Rào cản lớn cho xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ hiện nay
là Mỹ đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lượng ngặt nghèo mà những quy đị
nh này chủ yếu đối với các sản phẩm có nguồn gốc nuôi trồng. Vì vậy để đảm bảo c
hất lượng cho hàng tôm xuất khẩu thì công tác nuôi trồng
phải được xem là một quá trình đòi hỏi phải làm tốt ở tất cả các

khâu: từ chuẩn bị khu nuôi, công tác giống, thức ăn, quá trình chăm sóc, theo dõi bệ
nh trong quá trình nuôi, thu hoạch và vận chuyển đến khu chế biến.
Hiện nay ngành thủy sản đã tập trung nghiên cứu công nghệ sản xuất giống
những đối tượng giá trị xuất khẩu như tôm sú, tôm rảo, tôm càng xanh… trong đó
một số đối tượng đã đi vào sản xuất đại trà. Đồng thời cũng đã nhập khẩu công
nghệ sản xuất giống tôm thể chân trắng… bước đầu có kết quả khả quan.
Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến tôm phát triển khá
nhanh. Năm 2000 cả nước có 272 cơ sở chế biến thủy sản, trong đó có 246 cơ sở
chế biến đông lạnh, 65 dây chuyền IQF, với tổng công suất cấp đông là 20
00 tấn/ngày. Cuối năm 2002 tổng số doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh là 2
35 với tổng công suất là 3147 tấn/ngày. Phân chia theo vùng như sau miền Bắc 4%,
miền Trung 27,2%, miền Nam 68,8%. Như vậy các cơ sở chế biến về cơ bản đã
được xây dựng theo quy hoạch. Đa số các cơ sở chế biến đều có nhà xưởng
,nhà kho, trang thiết bị, dụng cụ vệ sinh, hệ thống xử lí nước thải, trang
thiết bị kiểm tra sản phẩm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng. Nhiều cơ sở tiến
hành sản xuất theo phương thức công nghiệp. Việc áp dụng hệ thống quản lí
chất lượng và các quy định về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
ngày càng phổ biến.
Qua việc phân tích các điểm mạnh của tôm Việt Nam chúng ta
thấy rõ được những ưu thế của sản phẩm. Từ những lợi thế về điều kiện tự
nhiên, đa dạng hóa về sản phẩm… cho đến những nỗ lực đổi mới công nghệ để nân
g cao chất lượng sản phẩm, tôm Việt Nam có thể tự tin bước vào thị trường Mỹ,
Nhật Bản. Nếu phát huy được những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh
thì tôm Việt Nam sẽ ngày càng tiến xa hơn nữa không chỉ trên thị
trường Mỹ,Nhật Bản mà còn nhiều thị trường lớn khác nữa.
2.1.5 Các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu ngày một nhiều và có sản lượng
cao.
Ví dụ tình hình sản xuất tôm xuất khẩu ở công ty Thông thuận – Ninh Thuận
Với thế mạnh trong lĩnh vực tôm giống và tôm thương phẩm và nguồn
nguyện liệu chủ động, chất lượng, năm 2009 công ty đã mạnh dạn đầu tư vào

lĩnh vực chế biến xuất khẩu thủy sản. Đến nay, công ty đã có 2 nhà máy đang
hoạt động với sản phẩm đầu ra đạt đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế
như Global GAP 3 sao, ACC 3 sao, HACCP, IFS, HALA… tạo ra nguồn sản
phẩm thủy sản xuất khẩu chất lượng xuất khẩu sang các thị trường lớn trên
toàn thế giới, đặc biệt là các thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Trung Đông, Hàn
Quốc,v.v…
Hiện tại, công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy chế biến tôm số 2 tại cụm
công nghiệp Thanh Hải, tp Phan Rang – Tháp Chàm dự kiến đi vào hoạt động
vào quý 2 năm 2013.
Ngoài ra, công ty còn đang xúc tiến đầu tư thêm một nhà máy chế biến thủy
sản xuất khẩu Thông Thuận – Kiên Giang tại khu công nghiệp Thạnh Lộc,
huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang
Thông Thuận – Ninh Thuận với 2 nhà máy chế biến:
Nhà máy chế biến số 1 tại số 104, Ngô Gia Tự, tp Phan Rang – Tháp Chàm.
Hiện có hơn 1.000 công nhân làm việc ổn định với công suất trên 3.000 tấn
thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 20 triệu USD/ năm.
Nhà máy chế biến số 2: được xây dựng trên diện tích 33.000 m
2
với tổng số
vốn đầu tư 260 tỉ. Theo thiết kế, khi đi vào hoạt động, nhà máy sản xuất
8.000 tấn thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 50 triệu USD/ năm.
Cung cấp việc làm ổn định cho hơn 2.000 lao động địa phương và là nhà máy
chế biến tôm lớn nhất khu vực miền Trung.
Trực thuộc công ty cổ phần thủy sản Thông Thuận – Cam Ranh. Nhà máy chế
biến có vị trí tại lô A1,A11, A12, A13, A14 khu công nghiệp Suối Dầu, huyện
Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Với số cán bộ công nhân viên trên 1.500 người.
Có công suất 4.600 tấn thành phẩm/ năm. Doanh số 30 triệu USD/ năm.
Thông Thuận – Kiên Giang : Được thiết kế với 2 phân xưởng chế biến + Phân
xưởng chế biến tôm xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.000 – 8.000
tấn thành phầm/ năm. Dự kiến sẽ bước vào hoạt động năm 2014 và doanh số

hằng năm lên đến 50 triệu USD/ năm.
Phân xưởng chế biến cá xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.500 –
8.000 tấn thành phẩm/ năm. Theo kế hoạch, phân xưởng chế biến cá sẽ đi vào
hoạt động năm 2015 với năng lực chế biến lên tới 20 triệu USD/ năm. Khi đi
vào hoạt động, nhà máy sẽ cung cấp việc làm ổn định cho 3.000 lao động địa
phương, đồng thời bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm từ các farm nuôi
của công ty với dự kiến sẽ lên đến 10.000 – 13.000 tấn tôm nguyên liệu/năm
vào năm 2014.
2.2 Điểm yếu.
2.2.1 Thiếu vốn sản xuất tôm nguyên liệu.
Tôm đang có giá tốt nhưng do thiếu vốn nên người nuôi đành thả nuôi cầm chừng.
Đã sắp hết vụ nuôi tôm đợt 1/2013 nhưng các tỉnh trọng điểm Bạc Liêu, Cà Mau,
Sóc Trăng vẫn chưa hoàn thành kế hoạch diện tích.
Giá giảm, diện tích giảm
Tại ĐBSCL, tôm sú loại 30 con/kg đang bán được 190.000 - 195.000 đồng/kg, tăng
10 - 15%, tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg bán được 85.000 - 90.000 đồng/kg,
tăng hơn 10% so cùng kỳ năm ngoái.
Ông Phạm Hoàng Giang, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng Thủy sản (NTTS) Bạc
Liêu cho biết, giá tốt vậy nhưng vẫn không đủ hàng bán cho nhà máy chế biến xuất
khẩu. Đó là do người nuôi gặp khó khăn từ vụ thả nuôi năm trước, nay chưa hồi
phục, lại thiếu vốn nên thả nuôi cầm chừng, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng,
dẫn đến mất cân đối cung cầu.
Tỉnh Bạc liêu có diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp 11.913 ha, đến
nay đã thả nuôi 10.007 ha, mới đạt 84% kế hoạch. Tỉnh Sóc Trăng chưa thống kê
diện tích, nhưng vùng trọng điểm nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp huyện
Trần Đề diện tích "treo ao" do thiếu vốn còn nhiều. Ông Giang Đại Hòa (ấp Chợ, xã
Trung Bình, huyện Trấn Đề) có 3 ao nuôi, diện tích 1,5 ha, do không vay được vốn
ngân hàng nên phải nuôi tôm sú gối đầu, hiện 1 ao sắp thu hoạch, 2 ao còn lại mới
thả được 2 tháng và 1 tháng. Ông Ca Minh Chí (cùng ấp) có 8 ao, diện tích 4,5 ha,
cũng chỉ dám thả nuôi 4 ao, còn lại phải chờ thu hoạch để quay vòng vốn mới tính

chuyện thả tiếp.
Khó tiếp cận vốn
Theo nhiều hộ dân Sóc Trăng, không tiếp cận được vốn ngân hàng do từ đầu năm
đến nay Bảo Việt Sóc Trăng không bán hồ sơ bảo hiểm tôm nào cho dân. Trong khi
đó ngân hàng chỉ phát vay nuôi tôm cho những hộ được bảo hiểm; sự trông chờ lẫn
nhau dẫn đến vốn dành cho phát triển NTTS (trong đó có tôm) đang ứ ở ngân hàng
nhưng không cho vay được. Tại tỉnh Bạc Liêu, do không được bảo hiểm và khó tiếp
cận ngân hàng nên nhóm nuôi tôm liên kết của ông Phạm Trúc Điệp (phường Nhà
Mát, TP Bạc Liêu) phải "treo ao" từ đầu năm. 6 tháng đầu năm 2013, ngân hàng
cho vay NTTS được 172,409 tỷ đồng, tổng dư nợ NTTS đến 31/6/2013 là 1.272 tỷ
đồng, so với dư nợ ngày 31/12/2012 chỉ tăng 3,83 %. Nếu trừ dư nợ nuôi cá tra 5 tỷ
đồng thì dư nợ nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm, chỉ 1.248 tỷ đồng, tăng 3,48% so cuối
năm 2012.
Mức dư nợ như vậy cho thấy người nuôi tiếp tục gặp khó về vốn. Trong khi đó
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trương giảm lãi suất và tăng vốn
cho nông nghiệp - nông thôn, nhất là NNTS. Ngày 5/7/2013, tại Hội nghị bàn giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho lúa gạo và thủy sản ĐBSCL, Thống đốc NHNN Nguyễn
Văn Bình khẳng định: "Hoạt động nuôi trồng và chế biến nếu có kế hoạch tốt, ngân
hàng sẽ đáp ứng đủ vốn để sản xuất phát triển. Trong đó hoạt động bảo hiểm sẽ
được đẩy mạnh; những sản phẩm quan trọng, đảm bảo được đầu ra sẽ được xem xét
cấp bảo lãnh tín dụng…".
Song, chưa biết đến bao giờ ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm tại ĐBSCL thực
hiện được như ý kiến Thống đốc. Trong khi đó, dân cứ chạy vốn xoay vòng, phải
bỏ hoang hóa diện tích NTTS, khiến cung cầu mất cân đối. Nhiều doanh nghiệp chế
biến tôm vì thế phải nhập khẩu nguyên liệu, làm cán cân thanh toán ngoại tệ mất
cân đối theo, còn số đông người nuôi tôm vẫn "treo ao" dài dài!
2.2.2 Điểm yếu về tôm nguyên liệu.
Tuy nuôi trồng và khai thác thủy sản được quan tâm và phát triển nhưng việc
phát triển nguyên liệu ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, dễ nảy sinh tác hại đối
với môi trường ảnh hưởng lớn đến phát triển thủy sản bền vững.

Sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch về cơ bản chưa đáp ứng các
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá tôm giống cao, giá thức ăn nuôi
tôm cũng cao đã làm tăng giá thành nguyên liệu, khi tỷ trọng giá nguyên liệu
thường chỉ chiếm đến 90% giá thành sản phẩm. Giá nguyên liệu cao đã là
m
giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam đặc biệt khi thị trường
thế giới biến động, giá xuất khẩu giảm.
2.2.3 Về công tác thị trường
Công tác thị trường tuy đã được quan tâm và đạt được một số kết quả nhưng mới
chỉ ở trình độ thấp. Phương thức tiếp thị và bán hàng tuy đã chuyển sang chủ động
nhưng vẫn thông qua sử dụng thương hiệu của đối tác, chưa có khả năng tiếp cận
người tiêu dùng, chưa xây dựng được chiến lược phát triển thị trường cho sản phẩm
chủ lực cũng như chưa tổ chức triển khai xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm
trên thị trường Mỹ. Nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ nguồn lực chuyên gia
về thị trường, nguồn kinh phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn
chế, chưa có cơ chế thích hợp để huy động kinh phí từ các doanh nghiệp, người sản
xuất để phát triển thị trường cho sản phẩm chủ yếu. Mét trong những nét văn hoá
tiêu dùng của người Mỹ là mua sắm qua các nhà phân phối uy tín, các hoạt động
quảng bá xúc tiến có ý nghĩa rất quan trọng khi kinh doanh trên thị trường này. Yếu
về công tác thị trường là một bất lợi lớn khi tôm Việt Nam xâm nhập thị trường này.
2.2.4 Vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
Công tác quản lí an toàn vệ sinh mới chỉ tập trung thực hiện ở khu vực chế biến
chưa được thực hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch (
chủ yếu sử dụng đá và muối ) nên vẫn còn hiện tượng bị các nước nhập khẩu cảnh
báo và trả lại hàng. Yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang là một thách
thức lớn đối với toàn ngành. Tình trạng tiêm chích tạp chất vẫn còn diễn ra ở nhiều
nơi, việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu vẫn chưa kiểm
soát tốt. Mặt khác do thiếu những cơ sở dịch vụ như cho cá tập trung ở các vùng
sản xuất nguyên liệu nên đã tạo kẽ hở cho tư thương đánh phá giá nguyên liệu ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất của nông ngư dân, nhất là vào những thời điểm có

nhiều nguyên liệu.
2.2.5 Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật
Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất tôm tuy có được quan tâm
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao nhằm tạo sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Nhiều kết quả nghiên cứu còn chậm được phổ biến áp dụng trong
sản xuất. Các quy trình nuôi chuẩn, các quy phạm nuôi trồng tốt chưa được ban
hành và phổ biến đầy đủ cho nhân dân.
Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn nhiều hạn chế. Công nghệ
chế biến tôm chưa bắt kịp với tốc độ tiến bộ của công nghệ trên thế giới.
Công tác đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ tiếp cận thị trường, công nhân kỹ thuật
chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ
trong sự chỉ đạo và điều hành giữa các chương trình phát triển tôm, trong khi đó
yêu cầu quản lí đối với sản phẩm là xuyên suốt không thể tách rời. Vì vậy trong sản
xuất kinh doanh cũng như đầu tư còn bị cắt khúc và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng
giữa sản xuất nguyên liệu, hậu cần dịch vụ và chế biến xuất khẩu gây nên tình trạng
vừa thừa vừa thiếu, vừa lãng phí vừa gây cạnh tranh không lành mạnh trên thị
trường trong và ngoài nước.
2.2.6 Vấn đề dịch vụ hậu cần thủy sản
Việc hình thành và xây dựng cơ sở dịch vụ hậu cần cho khai thác hải sản diễn ra
trên 3 lĩnh vực: cơ khí đóng sửa tàu thuyền, các cảng cá bến cá, dịch vụ cung cấp
nguyên vật liệu, thiết bị và hệ thống tiêu thụ sản phẩm. Tuy đã đạt được một số
thành công nhất định nhưng dịch vụ hậu cần thủy sản vẫn tồn tại một số yếu kém
như sau:
Các cơ sở đóng sửa tàu thuyền phần lớn quy mô nhỏ, phân tán và công nghệ lạc
hậu. Các doanh nghiệp Nhà nước về đóng tàu thuyền không đủ khả năng đầu tư đổi
mới thiết bị, Ýt khách hàng. Nhân lực kỹ thuật quá Ýt ỏi, công nhân đóng sửa tàu
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, hạn chế về tiếp thu công nghệ mới.
Điều này gây bất lợi lớn khi xuất khẩu thủy sản sang Mỹ bởi khoảng cách giữa Mỹ
và Việt Nam quá lớn, nếu không có các đội tàu lớn chúng ta không thể dành được
quyền vận chuyển trong buôn bán và không chủ động được trong việc cung ứng

hàng.
Nền kinh tế thế giới không ngừng vận động và phát triển, quá trình phân công
lao động hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng tạo ra những thách thức và cơ hội mới,
nếu ngành tôm Việt Nam không khắc phục những điểm yếu trên thì sẽ bị đào thải.
Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để tồn tại và phát triển thì thủy sản Việt Nam còn
phải nỗ lực hơn nữa, tạo ra nhiều thế mạnh mới, khắc phục những yếu kém. Nếu
không sẽ không giữ được vị trí hiện có trên thị trường Mỹ mà còn thất bại trên cả
những thị trường dễ tính hơn.
2.3 Cơ hội.
2.3.1 Hàng rào thuế quan của Mỹ được dỡ bỏ.
Ngày 21/9/2013, Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC) ra tuyên bố ngành sản
xuất tôm Mỹ không bị thiệt hại bởi tôm nhập khẩu từ Việt Nam. Như vậy, việc hoàn
thuế ký quỹ của các doanh nghiệp là theo đúng luật định.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt
Nam (VASEP), nhận định: “Đây là lần hiếm có trong lịch sử kiện chống trợ cấp,
Mỹ công bố sản phẩm tôm một nước bị coi có nền kinh tế phi thị trường không bị
áp loại thuế này. Vài ngày trước, tôm Việt Nam cũng lần đầu tiên được minh oan
không bán phá giá tại Mỹ. Từ đây, các doanh nghiệp nước ta sẽ có thêm nhiều cơ
hội xuất khẩu tôm sang Mỹ”.
Từ đầu năm đến nay, giá tôm tại Mỹ liên tục tăng. Cụ thể, giá tôm sú tháng 9/2013
tăng thêm trung bình 3,6 USD/kg, giá tôm chân trắng tăng thêm 4,2 USD/kg. Tháng
8/2013, xuất khẩu tôm tăng 66% so với cùng kỳ năm 2012, riêng thị trường Mỹ
tăng đến 146%.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, 8 tháng đầu
năm 2013, giá trị xuất khẩu các loại thủy sản đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với
cùng kỳ. Trong đó riêng mặt hàng tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22%.
Riêng tháng 8, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi mặt hàng
tôm vẫn tăng 65,5% so với tháng 8 năm ngoái. Giá trị tôm xuất khẩu sang 10 thị
trường lớn đều tăng trưởng mạnh như Mỹ tăng gần 146%, Hàn Quốc tăng 96,2%,
EU tăng 54,5%

Từ đầu tháng 9, tôm Việt đón nhận 2 tin vui khi thoát cả thuế chống bán phá giá và
chống trợ cấp khi vào thị trường Mỹ. Theo đó, toàn bộ các khoản tiền ký quỹ đã thu
hoặc dự định sẽ phải thu của doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt sẽ được hoàn trả
hoặc bãi bỏ.
8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng hơn
52% so với cùng kỳ 2012. VASEP cho biết, tôm Việt xuất sang Mỹ hiện có một số
thuận lợi, đó là nguồn cung từ Thái Lan giảm mạnh, trong khi giá mặt hàng này
đang tăng cao.
2.3.2 Cơ hội chiếm lĩnh thị trường
Không giấu nổi vui mừng, ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy
sản và Thương mại Thuận Phước, bày tỏ: “Khi nhận được thông tin, không chỉ
chúng tôi mà nhiều DN xuất khẩu thủy sản khác thấy như trút được gánh nặng đã
đè trên vai quá lâu. Kể từ khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá lần đầu tiên năm 2004,
gần chục năm rồi tôm Việt Nam mới được minh oan. Rồi còn thoát khỏi thuế chống
trợ cấp. Chúng ta thắng kiện như một kỳ tích!”.
Các DN trong nước sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ.
Ảnh: CTV
Ông cho rằng trong giai đoạn kinh tế khó khăn, tôm Việt Nam đã chứng tỏ được
sức cạnh tranh trên thị trường thế giới khi tăng gần 70% so với cùng kỳ năm 2012,
đạt 1,7 tỉ USD. Nay với việc không phải chịu thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp
cơ hội tăng sản lượng và giá trị tôm xuất khẩu vào Mỹ càng rộng mở.
“Thông tin này rất có lợi cho DN tôm Việt Nam vì thời điểm này chỉ còn mỗi Việt
Nam là có nguồn cung nguyên liệu lớn nhất; các nước xuất khẩu tôm lớn như Thái
Lan, Indonesia bị dịch bệnh tôm chết sớm gây thiệt hại nặng nề hơn” - ông Phạm
Hoàng Việt, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, nói thêm.
Việc tôm Việt không phải chịu hai loại thuế trên không chỉ cởi bỏ được áp lực cho
DN xuất khẩu nước ta mà cả với nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ chọn tôm Việt Nam vì
bán được giá cạnh tranh hơn và có nhiều lợi nhuận hơn trong khi nguồn cung từ
Thái Lan, Argentina, Indonesia giảm mạnh, nhu cầu thế giới tăng cao, giá bán tôm
cũng tăng.

2.3.3 Sản lượng tôm Thái Lan, nước chi phối nguồn cung tôm thế giới, giảm mạnh
do ảnh hưởng của dịch bệnh khiến nguồn cung hạn chế. Theo dự báo của Hiệp hội
Thực phẩm đông lạnh Thái Lan, sản lượng tôm của nước này trong năm 2013 dự
kiến giảm 50% so với 550.000 tấn năm 2012.
- Giá tôm trên thị trường thế giới đang tăng nhanh.
Giá tôm tại Mỹ, Nhật Bản và EU có xu hướng tăng.
Trên thị trường Mỹ, giá tôm sú 6 tháng đầu năm 2013 tăng thêm 2,26 USD/kg từ
6,40 USD/pao lên 7,53 USD/pao. Giá tôm chân trắng cũng tăng 2,86 USD/kg từ
4,10 USD/pao lên 5,53 USD/pao.
Trên thị trường Nhật Bản, tôm sú HLSO Việt Nam cỡ 16/20 cuối tháng 6/2013 tăng
thêm 5,5 USD/kg so với tháng 1/2013, từ 10,72 USD/kg lên 16,23 USD/kg. Tôm sú
HLSO cỡ 16/20 từ Ấn Độ cũng tăng thêm gần 5 USD/kg, từ 11,03 USD/kg lên
15,95 USD/kg. Tôm Indonesia tăng 3 USD/kg. Giá tôm chân trắng
của Indonesia trên thị trường này trong 6 tháng đầu năm nay cũng tăng đáng kể.
Tôm HLSO cỡ 16/20 tăng 1,8 USD/kg, từ 11,32 USD/kg lên 13,1 USD/kg. Cổng
thông tin VASEP, cho thấy Việt Nam xuất khẩu 3.570 tấn tôm nguyên liệu đông
lạnh vào thị trường Nhật Bản trong tháng 8 với giá trị 4,3 tỷ Yên, đứng đầu về khối
lượng và giá trị xuất khẩu vào thị trường này.
Indonesia và Ấn Độ chia nhau vị trí thứ hai và thứ ba, với giá trị xuất khẩu mặt
hàng này sang Nhật Bản lần lượt đạt 3,25 tỷ Yên và 3,17 tỷ Yên. Tuy nhiên, khối
lượng xuất khẩu của Indonesia trong tháng 8 (2.657 tấn) lại thấp hơn Ấn Độ (3.320
tấn) do giá xuất khẩu của Indonesia cao hơn.
Tính chung 8 tháng đầu năm, Việt Nam xếp thứ hai về khối lượng xuất khẩu tôm
nguyên liệu đông lạnh sang Nhật Bản với 21.904 tấn, đứng sau Indonesia với khối
lượng đạt 21.964 tấn, và đứng ngay trước Ấn Độ với 17.609 tấn.
Về giá trị xuất khẩu, Việt Nam lại đứng đầu do giá xuất khẩu bình quân cao hơn 2
nước trên. Giá trị xuất khẩu tôm nguyên liệu của Việt Nam sang Nhật Bản trong 8
tháng đạt 25,4 tỷ Yên, cao hơn so với con số 24,9 tỷ Yên của Indonesia và 17 tỷ
Yên của Ấn Độ.
Giá xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này đạt mức trung bình 1.159

Yên/kg, cao hơn so với mức 1.133 Yên của Indonesia và 939 Yên của Ấn Độ.
Philipin là nước xuất khẩu tôm với giá cao nhất sang thị trường Nhật Bản là 1.361
Yên/kg.
Cơ quan Hải quan Nhật Bản cho biết trong tháng 8/2013 nước này nhập khẩu
14.337 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh trị giá 15,85 tỷ Yên, giảm 10% về khối lượng
nhưng tăng 24% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 8 tháng, Nhật Bản nhập khẩu 105.140 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh,
trị giá 108,27 tỷ Yên, giảm 4% về khối lượng nhưng tăng 18% về giá trị so với
cùng kỳ năm 2012. Giá nhập khẩu trung bình đạt 1.089 Yên (11,14 USD)/kg.
Tính cả tôm chế biến các loại, Nhật Bản đã nhập khẩu tổng cộng 154.083 tấn tôm
trong 8 tháng đầu năm 2013, trị giá 156,47 tỷ Yên (1,62 tỷ USD).
XK tôm sang Nhật Bản: Dự báo sẽ tăng nhẹ 4% đạt 642 triệu USD
do:
Trên thị trường EU, giá tôm chân trắng HOSO tăng 7% trong 6 tháng đầu năm
2013, từ 9,41 USD/kg tôm cỡ 31/40 lên 10,05 USD/kg. Giá tôm sú HLSO tăng
16% từ 8,60 USD/kg tôm cỡ 16/20 lên 10 USD/kg.
- Giá tôm nguyên liệu đang tăng trở lại
Phần nào khuyến khích người nuôi tôm thả nuôi trở lại, giúp giảm bớt căng thẳng
về nguồn nguyên liệu cho chế biến trong nước. Tôm sú nguyên liệu cỡ 30 con/kg có
giá bán 180.000 đồng/kg tăng 20% so với đầu năm. Tôm chân trắng cỡ 100 con/kg
có giá bán 102.000 đồng/kg, tăng 8,5%.
2.3.4 Dịch bệnh có chiều hướng giảm, EMS được kiểm soát tốt hơn.
Theo báo cáo của một số địa phương về tình hình nuôi tôm 6 tháng đầu năm 2013,
tôm nhiễm bệnh hoại tử gan tụy đã giảm đáng kể so với năm 2011 & 2012. Nhiều
hộ nuôi tôm đã kiểm soát tốt đối với hội chứng hoại tử gan tụy trên tôm nuôi.
Thống kê của Tổng Cục Thủy sản cho thấy, 6 tháng đầu năm 2013, diện tích nuôi
tôm bị thiệt hại khoảng 23.938 ha, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2012.
2.3.5 Những ưu đãi từ phía chính phủ Việt Nam
Trong những năm qua, chính phủ và các ban ngành khác luôn quan tâm đến việc
xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế có thế mạnh của

nước ta, phát huy lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
-Về định hướng phát triển
Theo điều 5 của luật thủy sản:
Nhà nước có chính sách bảo đảm phát triển thủy sản bền vững: khuyến khích tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi
thủy sản, đảm bảo tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản trên
biển, sông, hồ, đầm các vùng tự nhiên.
Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng
dụng công nghệ tiên tiến phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát
triển nuôi thủy sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ có hiệu quả
hoạt động thủy sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, khuyến khích các tổ
chức cá nhân tham gia bảo hiểm về người và thuỷ sản trong hoạt động thủy sản.
-Về khai thác thủy sản:
Nhà nước có chính sách đồng bộ về đầu tư, đào tạo nghề, xây dựng hệ thống
thông tin liên lạc, điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, dịch vụ hậu cần khuyến
khích tổ chức cá nhân phát triển khai thác thuỷ sản xa bê.
Tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động khai thác thủy sản xa bờ được áp dụng
theo luật khuyến khích đầu tư và ảnh hưởng các chính sách ưu đãi khác của nhà
nước.
-Về nuôi trồng thuỷ sản
Được cơ quan chuyên ngành phổ biến đào tạo, tập huấn chuyển giao kỹ thuật
mới về nuôi trồng thuỷ sản, thông báo về tình hình môi trường dịch bệnh, thông tin
về thị trường thuỷ sản.
Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản tập
trung theo qui hoạch kế hoạch phát triển ngành thủy sản.
Nhà nước có chính sách khuyến khích nghiên cứu giống thủy sản quí hiếm, tạo
giống thủy sản quốc gia quản lí công tác xuất nhập khẩu giống thuỷ sản.
-Các hoạt động dịch vụ thuỷ sản
Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển tàu cá phù hợp với chiến lược
khai thác thủy sản xa bờ. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của cảng cá, khu

neo đậu trú bão của tàu cá, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của bến cá, chợ
thủy sản và quản lí kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ngay tại các chợ đầu mối.
2.4 Thách thức.
2.4.1 Thách thức từ nguồn nguyên liệu.
Sản lượng tôm thu hoạch giảm
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, năm 2012,
cả nước có 30 tỉnh, thành phố nuôi tôm nước lợ, với tổng diện tích thả nuôi là
657.523 ha, sản lượng 476.424 tấn; tăng 0,2% về diện tích nhưng giảm 3,9% sản
lượng so với năm 2011. Trong đó, nuôi tôm sú chiếm 94,1% diện tích và 62,7% sản
lượng tôm nuôi trong cả nước; tôm thẻ nuôi chiếm 5,9% diện tích, sản lượng chiếm
27,3%.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi tôm nước lợ chủ yếu của cả nước
với tổng diện tích nuôi tôm là 595.723 ha, sản lượng 358.477 tấn (chiếm 90,61%
diện tích, 75,2% sản lượng nuôi tôm cả nước); trong đó diện tích nuôi tôm sú là
579.997 ha, sản lượng 280.647 tấn (chiếm 93,6% diện tích, 94% sản lượng tôm sú
cả nước), diện tích nuôi tôm chân trắng là 15.727 ha, sản lượng 77.830 tấn (chiếm
41,2% diện tích, 42% sản lương tôm chân trắng nuôi cả nước).
Tổng cục Thủy sản nhận định, dịch bệnh xảy ra trầm trọng trên diện rộng là nguyên
nhân chính khiến hiệu quả sản xuất năm 2012 bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bên cạnh
các khó khăn khác như giá thức ăn, vật tư đầu vào liên tục tăng cao, giá mua tôm
một số thời điểm thấp và rào cản thương mại về kiểm tra dư lượng Ethoxyquin ở thị
trường Nhật Bản.
Từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 100.776ha diện tích tôm nước lợ bị thiệt
hại do dịch bệnh (trong đó tôm sú là 91.174ha), bao gồm các bệnh hội chứng hoại
tử gan tụy cấp tính (AHPNS), đốm trắng, đầu vàng gây thiệt hại lớn về kinh tế
cho người nuôi và ảnh hưởng đến sản lượng, giá trị xuất khẩu.
Các địa phương bị dịch bệnh nhiều nhất là Sóc Trăng thiệt hại 23.371,5ha (56,6%
diện tích thả nuôi); Bạc Liêu 16.919ha (thiệt hại trên 50% 8.377ha, thiệt hại dưới
50% 8.542ha); Bến Tre thiệt hại 2.237ha nuôi thâm canh, bán thâm canh (29,06%
diện tích thả nuôi); Trà Vinh thiệt hại 12.200ha (49,3% diện tích); Cà Mau diện tích

tôm nuôi công nghiệp bị bệnh 958,58ha, tăng trên 420ha so với năm 2011. Riêng
Tiền Giang, diện tích tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh bị thiệt hại là 922,88ha,
chiếm 30,63% tổng diện tích thả nuôi tôm.
2.4.2 Rào cản gia tăng từ các thị trường
Từ Thị trường Mỹ :
Ngày 29/5/2013, DOC đã ra phán quyết sơ bộ về thuế chống trợ cấp đối với tôm
NK từ 7 nước trong đó có Việt Nam với lý do ngành tôm các nước này nhận trợ cấp
từ chính phủ. Việt Nam bị áp thuế 6,07%. Ngày 13/8 tới DOC sẽ ra phán quyết cuối
cùng, tuy nhiên, tôm Việt Nam XK sang Mỹ hoàn toàn có khả năng bị áp thuế
“kép” gồm thuế CBPG và thuế chống trợ cấp. Ngày 12/8/2013, Bộ Thương mại Mỹ
(DOC) ra quyết định cuối cùng, cáo buộc tôm xuất khẩu của Việt Nam được hưởng
trợ giá làm tổn hại tới các nhà đánh bắt và chế biến tôm của Hoa Kỳ.
Theo đó, mức thuế suất chống trợ cấp mà Hoa Kỳ áp dụng với các DN xuất khẩu
tôm của Việt Nam là từ 1,15% đến 7,88%. Dù vậy, mức thuế này đã bị USITC
chính thức phản đổi.
Với phán quyết của USITC, tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ không
phải chịu thuế chống trợ cấp nói trên. Đây không chỉ là tin vui với ngành tôm Việt
Nam mà còn với cả người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy
sản Việt Nam (VASEP), việc DOC áp thuế chống trợ cấp với tôm nhập khẩu Việt
Nam không chỉ là một phán quyết vô lý, không công bằng, ảnh hưởng đến hàng
trăm ngàn người nông dân và DN của Việt Nam mà còn khiến người tiêu dùng Hoa
Kỳ chịu thiệt vì giá tôm nhập khẩu tăng mạnh.
Trước đó, vào ngày 10/9, lần đầu tiên Hoa Kỳ lên tiếng công nhận tôm Việt Nam
không bán phá giá vào nước này giai đoạn từ ngày 1/2/2011 đến 31/1/2012. Như
vậy, việc thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, chịu hai loại thuế vô lý là thuế chống
bán phá giá và thuế chống trợ cấp sẽ giúp tôm Việt Nam có nhiều đất cạnh tranh
hơn trên thị trường Hoa Kỳ.
Theo Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), 8 tháng đầu năm
2013, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với

cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22% và
chiếm tới 41,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước.
Riêng tháng 8/2013, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi xuất
khẩu tôm tăng tới 65,5% so với tháng 8/2012. Đặc biệt, xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ
có tốc độ tăng tới 145,9%. Với đà tăng này, Hoa Kỳ đang vượt qua Nhật Bản, trở
thành thị trường lớn nhất tiêu thụ tôm của Việt Nam.
Xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ bắt đầu hồi phục từ quý II/2013 sau khi giảm 18,6%
năm 2012 và giảm 6,3% trong quý I. Tám tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang
Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng 52,4% so với cùng kỳ năm 2012.
Bang Lousiana của Mỹ đang vin vào lý do bảo vệ ngành tôm khai thác nội địa để
thông qua dự luật cấm tôm NK từ các nước bị ảnh hưởng của EMS.
Xuất khẩu tôm sang Mỹ năm 2013 sẽ tăng trưởng chậm
Trong báo cáo chính thức của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) về quyết định
sơ bộ đối với việc bắt đầu điều tra thuế chống trợ cấp tôm NK từ 7 nước trình lên
Chính phủ Mỹ, ước tính tăng trưởng XK tôm nói chung và sang Mỹ nói riêng năm
2013 từ các nước này sẽ giảm.Trong báo cáo này, ITC cung cấp số liệu của 5 nước
XK tôm hàng đầu sang Mỹ gồm Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam
năm 2012 và ước tính năm 2013. Các số liệu đó cho thấy rõ xu hướng giảm XK
tôm của các nước này sang Mỹ cũng như khả năng mở rộng XK tôm sang các thị
trường khác năm 2013.Theo đó, XK tôm năm 2013 của Indonesia, Thái Lan và Việt
Nam sang Mỹ đều giảm, XK tôm của Ecuadorvà Ấn Độ tăng. Đối với Việt Nam,
theo ITC, XK tôm năm 2013 dự kiến đạt 145.898 tấn, chỉ tăng 3,3% so với 141.221
tấn của năm 2012, trong đó XK sang Mỹ sẽ giảm còn 32.337 tấn từ 33.665 tấn năm
2012 .Bên cạnh thống kê về XK, ITC còn đưa ra lượng dự trữ tôm của các nước tại
Mỹ đầu năm 2013. Trong đó Tổng lượng dự trữ của 3 nước còn lại gồm Thái Lan,
Việt Nam và Indonesia giảm 12% còn 153.000 tấn.Năm 2012, NK tôm từ 5 nước
này chiếm tới 74,5% tổng NK tôm vào Mỹ.
Bảng : Xuất khẩu tôm các nước sang Mỹ năm 2012 và dự báo 2013( tấn).
NướcXK
Tổng XK

năm 2012
Dự báo
tổng xk
năm 2012
XK sang
Mỹ năm
2012
Dự báo XK
sang Mỹ
năm 2013
Lượng dự
trữ đầu
năm 2013
Việt Nam 141.221 145.898 33.665 32.337 33.050
Theo Cơ quan Thống kê Mỹ, NK tôm Việt Nam vào Mỹ năm 2012 giảm 9,5% so
với năm 2011. Năm 2013 dự báo nhu cầu tiêu thụ tôm của nước này sẽ không tăng
cao do nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng. Bên cạnh đó, với sự đồng thuận
“vào cuộc” của Bộ Thương mại Mỹ và ITC trong việc điều tra vụ kiện chống trợ
cấp đối với xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013.Có thể nói, năm 2013 Mỹ
không còn là điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà XK tôm Việt Nam nữa. Do vậy,
XK tôm Việt Nam sang Mỹ năm 2013 khó có thể tăng trưởng.
Từ thị trường Hàn Quốc:
Từ 1/1/2013, Hàn Quốc quyết định kiểm tra Ethoxyquin với dư lượng 0,01ppm đối
với tôm NK từ Việt Nam khiến XK tôm sang thị trường này 6 tháng đầu năm giảm
tới 23,1%.
Mới đây, Cơ quan Quản lý chất lượng thủy sản Hàn Quốc thông báo, Bộ An toàn
Thực phẩm và Dược phẩm Hàn Quốc sẽ thực hiện kiểm tra tăng cường chỉ tiêu axit
Nalidixic trong các lô hàng tôm Việt Nam từ ngày 22/7 - 31/12/2013 với tần suất
kiểm tra là 3% và chỉ tiêu kiểm tra dư lượng cho phép ≤0,03 mg/kg.
Nhật Bản:

- Tỷ giá đồng yên/USD bất lợi cho XK tôm sang Nhật Bản
Năm 2013, chính phủ Nhật Bản hạ giá đồng Yên so với đồng USD. Có thời điểm,
tỷ giá yên/USD đạt trên 103 yên/USD. Sự mất giá đồng yên khiến giá các mặt hàng
thực phẩm thiết yếu tại Nhật tăng mạnh. Thị trường tôm tại nước này chịu ảnh
hưởng mạnh. Tiêu thụ tôm giảm. Hoạt động NK và kinh doanh tôm ở Nhật Bản trở
nên khó khăn.
2.4.3 Dịch bệnh và thiếu vốn tiếp tục gây bất ổn nguồn cung nguyên liệu
Mặc dù EMS được kiểm soát tốt hơn tuy nhiên, người nuôi tôm vẫn đang tiếp tục
đối mặt với các bệnh dịch khác. Thực tế công tác kiểm soát dịch bệnh còn rất hạn
chế, ngay từ kiểm soát chất lượng tôm giống.
Tôm chết loạt do dịch bệnh từ năm 2012 khiến nhiều hộ nuôi tôm kiệt quệ, không
còn đủ vốn để thả nuôi tiếp. Việc thế chấp từ ao đầm đã được người nuôi sử dụng
nhưng việc định giá đất đã được quy định từ nhiều năm nay nên khung giá đất rất
thấp, người dân vay được rất ít.
2.4.4 Chất lượng và uy tín tôm VN bị giảm sút do ảnh hưởng của dịch bệnh
Ngày 18/4/2013, Mexico ban hành lệnh cấm NK tôm từ 4 nước bị ảnh hưởng của
EMS trong đó có ViệtNam.
Ngày 29/7/2013, IntraFish đăng tải thông tin CH Dominica ban hành lệnh cấm NK
tôm từ Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và Bangladesh do lo ngại dịch bệnh.
2.4.5 Chính sách tỷ giá của một số nước cạnh tranh tạo nhiều lợi thế cho XK nước
họ
Một số nước, như Ấn Độ đã sử dụng chính sách hạ giá đồng nội tệ trong năm 2013
nhằm tạo thêm lợi thế cho các DN XK tôm. 6 tháng đầu năm 2013, đồng Rupee của
Ấn Độ mất giá 9% so với đồng USD theo đó, giá trị XK tôm của Ấn Độ tính theo
đồng Rupee tăng thêm 18%.
- Tôm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh mạnh hơn với tôm Ấn Độ trên thị trường này do
XK tôm Ấn Độ sang Mỹ trong 6 tháng cuối năm sẽ khó có thể tăng mạnh do tác
động của thuế chống trợ cấp.
- Quy định kiểm tra Ethoxyquin tiếp tục hạn chế NK tôm Việt Nam vào Nhật Bản
mặc dù nước này đã nới lỏng kiểm tra Trifluralin đối với tôm VN đã giúp giảm bớt

phần nào gánh nặng cho tôm XK VN sang đây.
- Chính sách tỷ giá yên/USD cũng là một yếu tố không có lợi cho NK tôm vào Nhật
năm 2013 này.
2.4.6 Sự khác biệt trong văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh của người Mỹ khác biệt rất nhiều so với người Châu Á nói
chung. Một số cơ quan nghiên cứu đã đưa ra 18 điểm đối nghịch giữa văn hóa kinh
doanh của người Mỹ và Nhật. Những điểm đó cũng rất tương thích khi so sánh văn
hóa kinh doanh giữa người Mỹ và người Việt Nam. Hiểu được văn hóa kinh doanh
của người Mỹ là một nhân tố quan trọng để xâm nhập sâu rộng vào thị trường Mỹ.
+ Thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ
Người Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng, hàng hóa dù chất lượng
cao hay vừa đều có thể bán được trên thị trường Mỹ, mẫu mã có thể không quá cầu
kỳ nhưng cần sự đa dạng, sự đặc thù, hợp thị hiếu và tiện dụng. Với thu nhập cao,
mua sắm không thể thiếu trong văn hóa hiện đại của nước này. Qua thời gian người
tiêu dùng Mỹ có một niền tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lí
bán lẻ, nơi họ có sự đảm bảo về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này là
một thách thức với doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam. Bởi hiện nay
hệ thống phân phối hàng thủy sản của ta còn quá nghèo nàn, chủ yếu là xuất khẩu
FOB, chưa có nhiều nhà phân phối trực tiếp. Trong khi đó các nước khác nh
Mexicô, Thái Lan xâm nhập trước ta đã xây dựng được một hệ thống đa dạng các
kênh phân phối.
Ở Mỹ không có các lệ ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc nh
những nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hóa, tôn giáo của
mình và dần dần theo thời gian hòa trộn ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo ra
sự khác biệt so với văn hóa tiêu dùng của người Châu Âu, cũng tôn trọng chất
lượng nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của
người Mỹ. Với sự thay đổi nh vậy, giá cả trở nên có vai trò quan trọng. Điều này
giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát triển có chất lượng
kém hơn vẫn có chỗ đứng trong thị trường Mỹ ( điều này khó xảy ra tại Châu Âu ).
Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội cho hàng thủy sản Việt Nam vì hàng thủy sản

Việt Nam có lợi thế về giá so với các sản phẩm thủy sản cùng loại nhưng các mặt
hàng chưa đa dạng, các sản phẩm giá trị gia tăng còn chiếm tỷ lệ thấp trong khi
người Mỹ rất chú ý đến sự phong phú của sản phẩm.
+ Văn hóa trong hợp tác kinh doanh
Khi làm việc với các đối tác mới, người Mỹ thường trông đợi đối tác công khai
với họ những thông tin chính yếu về doanh nghiệp kể cả báo cáo tài chính công
khai và được kiểm toán của doanh nghiệp. Họ cũng trông đợi các doanh nghiệp sử
dụng các công cụ đáng tin cậy và hiện đại trong kinh doanh như: hệ thống thanh
toán qua các ngân hàng có uy tín, tư vấn luật sư, tiếng Anh thông thạo, chuẩn xác
trong ngôn ngữ hợp đồng mà những lĩnh vực này doanh nghiệp kinh doanh hàng
thủy sản Việt Nam vẫn còn yếu và thiếu.
Ngoài ra người Mỹ rất sợ các đối tác không hiểu luật. Hiện nay ở Mỹ có hơn
một triệu luật sư. Công ty nào của Mỹ cũng có tư vấn luật trước, rà soát trước. Cái
gì của Mỹ cũng dựa trên pháp luật, nếu không áp dụng được điều này rất khó làm
ăn với Mỹ. Họ lo sợ bên đối tác không hiểu biết pháp luật mà vẫn ký. Điều này thì
các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam còn Ýt quan tâm và chưa có kinh nghiệm.
Khắc phục sự thiếu hiểu biết những thói quen không phù hợp và khoảng cách về
văn hóa kinh doanh giữa hai bên là điều hoàn toàn không đơn giản đối với kinh
doanh thủy sản nói riêng và các mặt hàng khác của Việt Nam nói chung khi thâm
nhập thị trường Mỹ. Đổi mới trong cách nghĩ cách làm, thay đổi tác phong làm
việc, phải có tác phong công nghiệp: giao hàng đúng thời hạn, địa điểm, thích ứng
với nhiều phương thức kinh doanh cũng như phương thức thanh toán không được
giữ tác phong nông nghiệp trước đây. Đó là nhược điểm rất lớn trong văn hoá kinh
doanh của người Việt Nam cần khắc phục khi tham gia kinh doanh trên thị trường
Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
2.4.7 Sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ khác
Mỹ là thị trường rất mở nhưng cạnh tranh cũng rất quyết liệt. Có thể thấy, tôm
Việt Nam chưa có sản phẩm giá trị gia tăng cao, chưa có những thương hiệu uy tín
khẳng định chất lượng cao cho sản phẩm nên khả năng cạnh tranh của nhiều mặt
hàng thuỷ sản không vững chắc, sẽ luôn bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh,

các sản phẩm thay thế. Kinh nghiệm của tôm Việt Nam tại Mỹ không phải là cá
biệt và các vụ kiện như vậy sẽ xuất hiện khi hàng việt Nam chiếm được thị phần
đáng kể đe doạ đến vị trí của các doanh nghiệp Mỹ. Đó là áp lực từ phía các nhà
sản xuất nội địa.
Ngoài ra tôm Việt Nam còn bị sức cạnh tranh từ các nhà xuất khẩu khác như:
Thái Lan, Trung Quốc, Ên Độ thông qua các biện pháp giảm giá, chào bán, đa
dạng hoá sản phẩm xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường. Chẳng hạn hàng tôm Việt
Nam thường xuất khẩu theo điều kiện FOB, thanh toán ngay trong khi đối thủ của
ta thường xuất khẩu của ta chào giá CFR. Thời hạn trả tiền 30-60 ngày kể từ ngày
cấp vận đơn. Hơn nữa các đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trường tôm Mỹ cũng
có lợi thế tương tự Việt Nam như: Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia đều coi thị
trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản noia chung
và tôm nói riêng, cho nên chính phủ và doanh nghiệp các nước này đều ưu tiên tập
trung dành thị phần trên thị trường Mỹ. Mặt khác họ vào thị trường Mỹ sớm hơn
chúng ta, khi mà thị trường đã ổn định về người mua, mối bán, thói quen sở thích
thì đây được coi là thách đố đối với tôm Việt Nam. Đánh giá khả năng cạnh tranh
về mặt hàng tôm của một số nước so với tôm Việt Nam ta có bảng sau:

×