Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phát triển cụm công nghiệp ô tô nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 99 trang )


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiện nay, cụm công nghiệp là một thuật ngữ đã xuất hiện trong nền kinh
tế thế giới. Quá trình hình thành và phát triển cụm công nghiệp đã chứng tỏ vai
trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quá trình
tham gia vào cụm công nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ hội tăng năng
suất, có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào, thông tin, công nghệ, nguồn nhân
lực và nhà cung cấp dễ dàng hơn, cũng như sự hỗ trợ phù hợp từ phía chính phủ.
Trên thực tế, phát triển cụm công nghiệp là một trong những nhân tố thu hút
mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn vốn đặc biệt quan trọng với nền
kinh tế các nước đang phát triển. Trong quá trình tìm kiếm địa điểm đầu tư, các
nhà đầu tư luôn cân nhắc kỹ những yếu tố liên quan đến hiệu quả đầu tư.
Công nghiệp ô tô ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Nó có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các quốc gia đã
không ngừng hoàn thiện nhiều chính sách liên quan đến ngành công nghiệp ô tô.
Những năm gần đây, châu Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên
thế giới và ngành công nghiệp ô tô rất phát triển. Chính thành công trong quá
trình thu hút FDI được đánh giá là một trong những động lực tạo nên sự phát
triển của ngành công nghiệp này tại nhiều quốc gia đang phát triển. Trong đó,
điểm nổi bật chính là sự nỗ lực của các chính phủ trong quá trình phát triển các
cụm công nghiệp phục vụ cho ôtô nhằm thu hút FDI.
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam cũng có nhiều chính sách nhằm phát
triển ngành công nghiệp này. ừ

2

đ


những chính sách khi đầu tư vào ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam, các
doanh nghiệp còn được hưởng những ưu đãi đặc biệt từ chính quyền tỉnh. Với
phương châm, coi s

hội thu hút ngày càng nhi
Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Phát triển cụm công
nghiệp ô tô nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Nhóm nghiên cứu sẽ tập trung phân tích thực trạng phát triển các cụm
công nghiệp phục vụ cho ngành công nghiệp ôtô và khả năng thu hút FDI tại
Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất một só giải pháp cụ thể.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên
cứu truyền thống như thu thập, tổng hợp và phân tích thống kê trên cơ sở các
nguồn tài liệu liên quan đến ngành công nghiệp ôtô và cụm công nghiệp trên thế
giới và Việt Nam, đặc biệt là số liệu thực tế về lĩnh vực này tại tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là phát triển cụm công nghiệp phục vụ cho ngành
công nghiệp ô tô trong bối cảnh kinh tế Vĩnh Phúc nói riêng, Việt Nam nói
chung nhằm thu hút FDI.
Phạm vi nghiên cứu là các cụm công nghiệp trong ngành công nghiệp ô tô
được hình thành và phát triển từ những năm 1990 đến nay (2009), tại tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng và Việt Nam nói chung.

3

5. Dự kiến kết quả nghiên cứu:
Một là, tổng hợp một số vấn đề lý luận liên quan đến cụm công nghiệp và
FDI
Hai là, có bức tranh tổng quan thực trạng phát triển cụm công nghiệp ô tô

rong ngành công nghiệp ôtô vào FDI tại Việt Nam và Vĩnh Phúc.
Ba là, đánh giá khả năng phát triển cụm công nghiệp phục vụ cho công
nghiệp ô tô và thu hút FDI vào Việt Nam và Vĩnh Phúc.
Bốn là, đề xuất một số giải pháp để phát triển cụm công nghiệp ô tô nhằm
thu hút FDI tại tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu bao gồm 3 chương sau:
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC
NGOÀI VÀ CỤM CÔNG NGHIỆP
Chương II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC CỤM CÔNG
NGHIỆP Ô TÔ VÀ KHẢ NĂNG THU HÚT FDI TẠI VĨNH PHÚC
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỤM CÔNG
NGHIỆP Ô TÔ NHẰM THU HÚT FDI TẠI VĨNH PHÚC
Do thời gian cũng như tài liệu và kiến thức còn hạn, nên công trình nghiên
cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

4

CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀ
CỤM CÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Đầu tư là việc chủ đầu tư bỏ vốn tiến hành hoạt động đầu tư trong lĩnh vực
cụ thể để thu hút lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội.
Dựa vào nguồn gốc của chủ đầu tư, có hoạt động đầu tư trong nước hoặc
đầu tư nước ngoài và dựa và mục đích, cách thức tham gia vốn góp, mà người ta
chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment):
- Theo Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF): FDI là một hoạt động đầu tư được thực
hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp, trên lãnh thổ
của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư. Mục đích của chủ đầu tư
là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp (BPM5, fifth edition).
Định nghĩa này chỉ nghiêng về quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài,
không quan tâm đến lợi ích của nước chủ nhà tiếp nhận đầu tư.
- Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương Mại và Phát triển UNCTAD năm
1999, cũng đưa ra một định nghĩa về FDI: Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn
được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu
tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở
phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.

5

- Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài
sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở
nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay đựơc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con"
hay "chi nhánh công ty"
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là họ có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách
pháp nhân, trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường
hoặc có quyền biểu quyết, điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp, là chủ định thực
hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia đều sử

dụng mức 10%, làm mốc xác định FDI, trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ
sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10%, nhưng họ vẫn
được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng
vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Nhìn chung, các khái niệm quốc tế đều có điểm chung là hoạt động thiết
lập các mối quan hệ lâu dài hay lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư và thể hiện quyền
kiểm soát, ảnh hưởng và tiếng nói của nhà đầu tư tới việc quản lý doanh nghiệp.
- Theo nguồn Việt Nam: Luật đầu tư năm 2005 mặc dù không có khái
niệm về FDI nhưng từ những khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư
nước ngoài” và “đầu tư ra nước ngoài” có thể hiểu FDI là hình thức đầu tư do
nhà đầu nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt
Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư, tham gia quản lý hoạt động đầu

6

tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
Như vậy, dù không có khái niệm cụ thể và riêng biệt nhưng theo quan
niệm của Việt Nam có thể hiểu FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt
động đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
Từ các khải niệm trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối
quan tâm lâu dài, phản ánh lợi ích dài hạn và quyền kiểm soát của một chủ thế
cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư tực tiếp nước ngoài hoặc doanh
nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế
của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp chi
nhánh hay chi nhánh nước ngoài).
Thứ hai, chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc
quản lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác. Tiếng nói hiệu quả trong

quản lý, phải đi kèm với mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là FDI.
1.1.2. Đặc điểm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
1.1.2.1. Đầu tƣ tƣ nhân
FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân, với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi
nhuận, và để trở thành đối tượng của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nhà đầu tư phải thỏa mãn hai điều kiện cơ bản: có quốc tịch nước ngoài và
thực hiện hoạt động đầu tư vào một quốc gia không cùng quốc tịch với mình;
nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp từ hành vi đầu tư đó.
Phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp nước ngoài: Xét
về khái niệm cơ bản thì hai loại hình đầu tư này không khác biệt nhau nhưng

7

trong thực tế áp dụng thì FDI thường mang nhiều màu sắc chính trị - xã hội hơn
là mục đích kinh tế đơn thuần và thường được thực hiện bởi một tổ chức (đa
quốc gia hoặc phi chính phủ) nào đó.
1.1.2.2. Tỷ lệ vốn góp
Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định cuả dự án
đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định.
Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, còn theo quy
định của OECD( 1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết của doanh nghiệp- mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài
tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp. Việt Nam theo Luật đầu tư 2005 thì
không quy định vốn tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3. Quyền kiểm soát
Chủ đầu tư nước ngoài, có toàn quyền quyết định đầu tư, quyết định sản
xuất kinh doanh, tự lựa chọn lĩnh vực, hình thức, thị trường, quy mô đầu tư để có
được lợi nhuận cao nhất và tự chịu trách nhiệm lỗ lãi. Vì vậy, hình thức đầu tư
này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về
chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.

1.1.2.4. Thu nhập của chủ đầu tƣ
Thu nhập mà chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức xuất phát từ đặc điểm có quyền tham gia kiểm soát doanh
nghiệp của họ.
1.1.2.5. FDI thƣờng kèm chuyển giao công nghệ
FDI thường kèm chuyển giao công nghệ cho nước nhận đầu tư.

8

Do trong hình thức đầu tư trực tiếp, các chủ đầu tư nước ngoài quan tâm
chính là lợi ích lâu dài hay mối quan hệ lâu dài trong các doanh nghiệp nhận đầu
tư, nên họ không những góp vốn bằng tiền mà còn mang theo cả công nghệ, trình
độ quản lý để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ những đặc điểm trên, có thể kết luận rằng:
Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm
soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tạo cho
nước sở tại có cơ hội được tiếp thu công nghệ và kĩ thuật hiện đại, tiếp thu được
môi trường quản lý và tác phong làm việc tiên tiến của nước ngoài, giúp các
nước sở tại khai thác một cách hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn
vốn trong nước, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Nhà đầu tư không
dễ dàng rút vốn để chuyển sang hình thức đầu tư khác nếu thấy sự bất ổn của nền
kinh tế nước nhận đầu tư. Tuy nhiên nhược điểm là nước tiếp nhận đầu tư bị
phục thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI, khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu
tư theo ngành và theo vùng lãnh thổ.
Nếu nước tiếp nhận đầu tư không có một quy hoạch đầu tư cụ thể, dễ dẫn
đến việc đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức, ô nhiễm môi trường trầm trọng và có thể bị nhập máy móc thiết bị công
nghệ cũ kĩ lạc hậu với giá đắt.

Đối với nhà đầu tư, có khả năng kiểm soát sử dụng hoạt động vốn đầu tư
và có thể đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ, do đó, vốn đầu tư được sử
dụng có hiệu quả cao. Ngoài ra, giúp tránh được bảo hộ mậu dịch và chiếm lĩnh
thị trường, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm do khai thác nguồn nguyên liệu
và lao động giá rẻ. Tuy nhiên, điểm bất lợi của nước chủ đầu tư là, nguy cơ rủi ro

9

cao và có thể gây ra hiện tượng chảy máu chất xám nếu chủ đầu tư để mất bản
quyền công nghệ, bí quyết sản xuất.
1.1.3. Phân loại đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
1.1.3.1. Theo mục đích thu hút FDI

- Thay thế nhập khẩu
Trong giai đoạn đầu mới phát triển, do trình độ phát triển thấp, công nghệ,
máy móc thiết bị lạc hâu, thiếu vốn…nên năng lực sản xuất của khu vực kinh tế
trong nước của các nước đang phát triển yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, chính nguồn
vốn FDI vào đã giúp các nước giải quyết được khó khăn trên: khu vực có vốn
FDI đã đáp ứng một phần nhu cầu hàng hóa trong nước, làm giảm căng thẳng
cung cầu, giảm sự phụ thuộc hàng nhập khẩu. Những năm sau, khi FDI vào sản
xuất vật chất ngày càng tăng, thì các doanh nghiệp có vốn FDI tham gia cung
ứng ngày càng nhiều các loại hàng hóa cho tiêu dùng trong nước và trong cơ cấu
nhập khẩu, tỉ trọng hàng tiêu dùng giảm xuống; thêm vào đó, chất lượng, chủng
loại hàng hóa phong phú đáp ứng nhu cầu trong nước.
- Hướng về xuất khẩu
Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, FDI ngày càng hướng mạnh vào xuất
khẩu: Nguồn ngoại tệ đáng kể từ xuất khẩu đã giúp các nước đang phát triển cải
thiện cán cân thương mại, nhập khẩu cũng thay đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu
nhập khẩu thay đổi mạnh, tỷ trọng hàng máy móc thiết bị, công cụ sản xuất tăng.

FDI còn có những tác động tích cực đến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán
nói chung. Ngoài nguồn thu từ xuất khẩu, các nguồn thu khác trong cán cân vãng
lai cũng chịu ảnh hưởng dây chuyền từ hoạt động FDI. Các dịch vụ phục vụ các
nhà đầu tư thu ngoại tệ được mở rộng và phát triển.

10

Khách quốc tế đến các nước đang phát triển với mục đích tìm hiểu cơ hội
đầu tư tăng lên, dịch vụ du lịch, khách sạn, vận chuyển hàng không…cũng theo
đó mà phát triển. Mặc dù ảnh hưởng của FDI đến cán cân thanh toán còn là vấn
đề tranh cãi, do quan điểm cho rằng nguồn lợi nhuận chuyển ra nước ngoài dần
sẽ lớn và có tác động bất lợi. Nguồn thu từ xuất khẩu và từ các dịch vụ thu ngoại
tệ sẽ ngày càng gia tăng, còn nhu cầu nhập khẩu sẽ ổn định.
- Định hướng của chính phủ
FDI giúp các nước tăng GDP. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI
trong cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ngày càng tăng, liên tục có tốc độ tăng
trưởng cao hơn mức trung bình của nền kinh tế. FDI cũng đóng góp phần tăng
thu cho ngần sách nước nhận đầu tư thông qua thuế và tiêu dùng các dịch vụ
công cộng. Chính vì vậy nó góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển, tăng trưởng
kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển
1.1.3.2 Phân loại theo cách thức thâm nhập
Hai hình thức chủ yếu là đầu tư mới (Greenfield Investment –GI ) và Mua
lại và sát nhập qua biên giới (M&A:Cross-border Merger and Acquisition).
Đầu tư mới là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh
doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh
đã tồn tại. Mua lại và sát nhập qua biên giới là một hình thức FDI liên quan đến
việc mua lại hoặc hợp nhất với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động.
Hai thuật ngữ “mua lại” và “sát nhập” được Luật cạnh tranh thông qua
tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực ngày tháng 7 năm 2005, điều 17, có đưa ra
khái niệm rõ hơn. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp

chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một
doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.

11

Còn mua lại doanh nghiệp là, việc một doanh nghiệp mua toàn bộ, hoặc một
phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát chi phối toàn bộ, hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, hai thuật
ngữ sáp nhập và hợp nhất cùng là Merger, gần như không có sự phân biệt giữa
hai thuật ngữ này.
Tại Việt nam, quá trình thu hút FDI nhằm thúc đẩy kinh tế trong nước
phát triển thì FDI chủ yếu được khuyến khích thực hiện theo phương pháp GI.
Bằng cách này, chính phủ Việt nam có thể kiểm soát được vấn đề phát triển nền
kinh tế quốc dân (tập trung thu hút đầu tư vào những lĩnh vực cụ thể) mà không
làm mất đi đặc tính vốn có của nó là lấy doanh nghiệp nhà nước làm nòng cốt.
1.1.3.3. Theo quy định pháp lý
Cùng với sự đa dạng của nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư cũng đã
xây dựng được nhiều phương thức khác nhau nhằm thực hiện hành vi đầu tư của
mình.
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh
được kí kết giữa hay hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến
hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không
cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới.
- Doanh nghiệp liên doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài sẽ
cùng với nhà đầu tư trong nước góp vốn thành lập nên một công ty mới hoạt
động trên lãnh thổ nước tiếp nhận đầu tư, theo pháp luật nước sở tại. Liên doanh
có thể bao gồm nhiều nhà đầu tư nước ngoài với nhiều nhà đầu tư trong nước.


12

Hình thức này có đặc trưng là mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên
doanh là một pháp nhân riêng, nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân
độc lập, khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy định vào liên doanh thì dù một
bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Đây là phương pháp phổ biến nhất ở Viêt Nam trong thời gian quan hưng
cũng từ thực tế đã trải nghiệm cho thấy sự hợp tác này không phải lúc nào cũng
suôn sẻ và thường thì phía đối tác Viêt Nam do quản lý kém nên mất quyền kiểm
soát vào tay đối tác nước ngoài.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách
nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt nam.
- Một số hình thức khác
+ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao ( BOT): là một
phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được kí kết giữa
nhà đầu tư nước ngoài ( có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà
nước có thẩm quyển để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạt, hết thời hạn
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà.
+ Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư
nước ngoài trên cơ sở văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng.
Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho
nước chủ nhà.


13

+ Ký hợp đồng hợp tác liên doanh (Business Co-operation Contract):
nhà đầu tư nước ngoài sẽ cùng với Chính phủ quốc gia tiếp nhận đầu tưu ký hợp
đồng về thực hiện một hoặc nhiều dự án đầu tư vào lãnh thổ quốc gia đó.
+ Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (BTO- Build Transfer
Operate) theo đó nhà đầu tư nước ngoài sẽ xây dựng sau đó chuyển giao quyền
sơ hữu công trình đó cho Chính phủ nước sở tại.
1.1.4. Các nhân tố liên quan đến nƣớc nhận đầu tƣ
Thứ nhất là khung chính sách của nước nhận đầu tư, bao gồm: các qui
định liên quan trực tiếp đến FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp tới FDI.
- Các qui định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp FDI
+ Các qui định về việc thành lập, hoạt động của các nhà đầu tư
+ Các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI
+ Các cơ chế hoạt động của thị trường trong đó có sự tham gia của thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Bên cạnh đó, một số các quy định, chính sách trong một số ngành, lĩnh
vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư như:
. Chính sách thương mại, gắn với sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
. Chính sách tư nhân hóa, liên quan đến cổ phần hóa, bán lại các công ty.
. Chính sách tiền tệ, thuế có ảnh hưởng quan trọng đến sự ổn định của nền
kinh tế. Các chính sách này ảnh hưởng đến tốc độ lạm phát, khả năng cân bằng
ngân sách của nhà nước, lãi suất trên thị trường (Các chủ đầu tư đều muốn đầu tư
vào các thị trường có tỷ lệ lạm phát thấp và có các loại thuế thấp).
. Chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá các tài sản ở nước nhận đầu
tư, giá trị các khoản lợi nhuận của các chủ đầu tư được và năng lực cạnh tranh
của các hàng hóa xuất khẩu của các chi nhánh nước ngoài.
. Chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ

14


. Chính sách lao động.
. Chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách y tế.
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngoài thích đàu tư vào những nước có
hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đông bộ, thông thoáng, minh bạch
và có thể dự đoán được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.
Thứ hai là các yếu tổ của môi trường kinh tế: Nhiều nhà kinh tế cho rằng
các yếu tổ kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng quyết
định trong thu hút FDI. Tùy động cơ của chủ đầu tư mà có các yếu tố sau:
- Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu
tố như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng
trưởng của thị trường, khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới, các sở
thích đặc biệt của người tiêu dung ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường
- Các chủ đầu tư tìm kiếm nguyền nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đén
tài nguyên thiên nhiên, lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ, lao động cóa tay
nghề, công nghệ, phát minh, sang chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra
( thương hiệu…) cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, viễn thông),
- Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các
nguồn tài nguyên, tài sản, có cân đối với năng suất lao động, các chi phí như chi
phí vận chuyển, thông tin liên lạc đi/đến hoặc trong nước nhận đầu tư, chi phí
mua bán thành phẩm, tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho
việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.

15

Hình 1.1: Các yếu tố của môi trƣờng đầu tƣ
























Nguồn: UNCTAD 1998 (WIR) trang 91
Môi trƣờng đầu tƣ
Các yếu tố hỗ trợ
trong kinh doanh
- Xúc tiến đầu tư (bao
gồm các hoạt động xây
dựng hình ảnh, kêt gọi
đầu tư và các dịch vụ hỗ
trợ đầu tư)
- Khuyến khích đầu tư
Phụ phí ( liên quan đên

tham nhũng, thủ tục hành
chính…)
- Các dịch vụ tiện ích xã
hội đảm bảo chất lượng
cuộc sống cho chủ đầu tư
- Dịch vụ hậu đầu tư
Khung chính sách FDI
- Sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã
hội
- Các quy định về việc thành lập và
hoạt động của các nhà đầu tư nước
ngoài
- Các quy tắc đối xử
- Các chính sách liên quan đến chức
năng và cấu trúc thị trường,(đặc biệt là
chính sách cạnh tranh và M&A)
- Các hiệp định quốc tế về FDI
- Chính sách tư nhân hóa
- Chính sách thương mại (thuế quan và
NTBs), sự liên kết chặt chẽ giữa chính
sách FDI và chính sách thương mai.
- Chính sách thuế

Các yếu tố
kinh tế:
(FDI phân
loại theo
động cơ của
nhà đầu tư)
Tìm kiếm thị trƣờng

- Dung ượng thị trường và
tốc độ tăng thu nhập bình
quân đầu người
- Khả năng tiếp cận thị
trường khu vực và thế
giới
- Sở thích đặc biệt của
người tiêu dùng
- Cấu trúc thị trường
Tìm kiếm nguồn nguyên liệu
và tài sản
- Nguyên liệu
- Lao động trình độ thấp
nhưng giá rẻ
- Lao động có trình độ cao
- Công nghệ, phát minh sáng
chế và các tài sản khác do
doanh nghiệp sáng tạo ra ( Ví
dụ thương hiệu..)
- Cơ sở hạ tầng ( viễn thông,
đường xá, cầu cống…
Tìm kiếm hiệu quả
- Chi phí mua sắm các
nguồn nguyên liệu và tài
sản
- Chi phí đầu vào khác như
chi phí vận chuyển và
thông tin liên lạc
- Tham gia hiệp định hội
nhập khu vực tạo thuận lợi

cho việc thành lập mạng
lưới các doanh nghiệp toàn
khu vực

16

-
Thứ ba là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh, bao gồm chính sách
xúc tiến đầu tư, các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư, giảm các tiêu cực phí
bằng cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính.
1.2. Một số vấn đề lý luận về cụm công nghiệp

1.2.1. Khái niệm cụm công nghiệp

Cụm công nghiệp là một khái niệm đã xuất hiện trong nền kinh tế thế
giới, tuy nhiên, do những cách tiếp cận khác nhau, do những sự khác biệt về
trình độ nền sản xuất công nghiệp cũng như các điều kiện kinh tế xã hội, đã dẫn
tới có khá nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về cụm công nghiệp.
Theo quan điểm của Michael E. Porter, chuyên gia quản lý nổi tiếng hàng
đầu thế giới của Đại học Havard “Cụm là nơi tập trung về mặt địa lý của các
công ty và các thể chế có quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau trong một lĩnh vực
nào đó, ở một khu vực địa lý có lợi thế cạnh tranh khác thường về lĩnh vực đó”
[13]. Như vậy, cụm công nghiệp theo quan điểm của M. Porter là nơi hội tụ
những doanh nghiệp quan hệ mật thiết và liên đới với nhau trong cạnh tranh,
hoặc được mở rộng thành các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm bổ sung, quan hệ
liên đới với nhau về kỹ năng, công nghệ hay các nguyên liệu chung. Kết luận về
lý thuyết theo M. Porter, để phát huy lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp hỗ trợ
nên định vị gần nhau thành các cụm công nghiệp hỗ trợ chuyên ngành, hoặc
những ngành sản xuất rất gần nhau về công nghệ, về yêu cầu lao động…


17

Hình1.2: Sơ đồ về cụm công nghiệp của M. Porter

Nguồn: Havard Business week, 1998; trang 78
Theo Sonobe và Otsuka thì cụm công nghiệp là sự tập trung về mặt địa lý
của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm tương tự nhau hoặc có liên quan
gần gũi với nhau trong một khu vực nhỏ. Theo như quan điểm này, cụm công
nghiệp không những phải là sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất các sản
phẩm tương tự hoặc có liên quan gần gũi với nhau.
Theo A. Kuchiki cụm công nghiệp là sự tập trung về mặt địa lý của các
công ty có liên kết với nhau, các nhà cung cấp chuyên biệt, các nhà cung cấp
dịch vụ và các tổ chức liên quan thuộc một lĩnh vực cụ thể [15].
Như vậy, theo quan điểm thế giới, cụm công nghiệp có hai đặc điểm
chung là sự tập trung về mặt địa lý và của doanh nghiệp có quan hệ mật thiết,
liên đới với nhau trong cạnh tranh.
CÁC NGÀNH KINH DOANH CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ CÁC NGÀNH LIÊN QUAN
Các nhà cung cấp
trình độ trung cấp
Các nhà cung cấp
vốn, hàng hoá
Dịch vụ sản xuất
Tư vấn
Hợp đồng R&D

Giáo dục (trường đại
học, cao đẳng)
Đào tạo
Phòng thí nghiệm
R&D

Các cơ quan phát
triển
Cơ quan pháp lý

Công nghệ tương
tự

Chia sẻ chung
nguồn nhân lực

Chiến lược giống
nhau


18

Tại Việt Nam, trước khi có Quy chế thành lập và quản lý cụm công
nghiệp, khái niệm cụm công nghiệp thường gắn liền với khái niệm khu công
nghiệp. Cụm công nghiệp có thể là các khu công nghiệp vừa và nhỏ được hình
thành ngoài quy định của Chính phủ theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, tức
là các khu công nghiệp không nằm trong quy hoạch được Chính phủ phê duyệt
thành lập, mà do chính quyền địa phương ra quyết định thành lập. Một quan
điểm khác lại cho rằng cụm công nghiệp là địa điểm đã phát triển công nghiệp
trước đây, này quy hoạch lại để phát triển theo mô hình khu công nghiệp.
Ngày 19/08/2009, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 105/2009/QĐ –
TTg về việc ban hành Quy chế thành lập và quản lý Cụm công nghiệp thống nhất
trên cả nước. Theo Quy chế này, Cụm công nghiệp là khu vực tập trung các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ
phục vụ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác
định, không có dân cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp

xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ
gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do UBND các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập.
Cụm công nghiệp được thành lập khi đáp ứng các điều kiện sau:
. Có trong quy hoạch phát triển Cụm công nghiệp đã được phê duyệt;
. Có khả năng đạt tỷ lệ lấp đầy > 30% trong một năm sau khi thành lập.
Xuất phát từ thực tế tình hình phát triển công nghiệp hiện nay ở Việt Nam,
nhóm chúng tôi nhận thấy rằng cụm công nghiệp là một dạng khu công nghiệp
với quy mô nhỏ, có ranh giới địa lý xác định, tập trung các doanh nghiệp sản
xuất có liên quan hoặc tương tự nhau.
Theo quan điểm trên, mặc dù cụm công nghiệp được nhìn nhận là một
hình thức khu công nghiệp – khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp

19

chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng
công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính
phủ hoặc Thủ tưóng Chính phủ quyết định thành lập (Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997) – song bên cạnh những điểm tương đồng, cụm công nghiệp và khu
công nghiệp vẫn có nhiều điểm khác nhau rõ rệt:
1

- Quy mô cụm công nghiệp nhỏ hơn khu công nghiệp: cụm công nghiệp
có quy mô từ 50 ha đến 70 ha, khu công nghiệp thường lớn hơn 100 ha
2

- Cơ sỏ hạ tầng của khu công nghiệp thường được trang bị tốt và hiện đại
hơn, vị trí địa lý cũng thuận lợi hơn, so với cụm công nghiệp.
- Sự thành lập khu công nghiệp nhằm thu hút các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp, dịch vụ có quy mô lớn cả trong, ngoài nước, còn cụm công nghiệp

chủ yếu các doanh nghiệp quy mô nhỏ, sản xuất công nghiệp dịch vụ trong nước.
1.2.2. Đặc điểm cụm công nghiệp
Qua một số khái niệm về cụm công nghiệp đưa ra ở trên, có thể thấy có
khá nhiều quan điểm khác nhau về cụm công nghiệp, tuy nhiên, nhìn chung các
quan điểm đều có chung một số đặc điểm chính về cụm công nghiệp như sau:
1.2.2.1. Tập trung về mặt địa lý
Cụm công nghiệp là một khu vực với quy mô nhỏ bao gồm nhiều doanh
nghiệp tập trung sản xuất các mặt hàng có liên quan với nhau, nhờ có tính tập
trung, chi phí sản xuất và chi phí quản lý của các doanh nghiệp trong cụm công
nghiệp được tiết kiệm đáng kể. Ngoài ra, sự tập trung theo địa lý của các doanh
nghiệp cũng được tiết kiệm đáng kể, tạo ra các thể chế thúc đẩy sự hình thành và

1
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính Phủ. ( theo Luật đầu
tư 2005)


20

phát triển các mối quan hệ, sự hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nhgiệp trong
cùng một lãnh thổ. Đồng thời, một mạng lưới các nhà cung cấp mang lại sự đổi
mới và lợi ích chung cho các thành viên trong cùng lãnh thổ.
1.2.2.2. Có tính chuyên môn hoá
Trong cụm công nghiệp, việc chuyên môn hoá vào một ngành nghề không
những tiết kiệm được chi phí sản xuất, gia tăng tổng mức hàng hoá, dịch vụ mà
còn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, đội ngũ lao động; sản phẩm sản xuất ra
đảm bảo chất lượng, tạo nên vị trí của cụm công nghiệp trong nên kinh tế.
1.2.2.3. Các doanh nghiệp có mối liên kế chặt chẽ
Theo như khái niệm về cụm công nghiệp đã trình bày, sản phẩm sản xuất

ra của các doanh nghiệp trong cụm công nghiệp phải tương tự hoặc có liên quan
tới nhau, là lợi thế vừa tạo ra thị trường chung vừa gia tăng chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra các doanh nghiệp có thể sản xuất những sản phẩm có mối liên hệ với
nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo quan hệ
hợp tác trong toàn cụm công nghiệp.
Tại Việt Nam hiện nay, mặc dù mô hình cụm công nghiệp còn khá mới
mẻ, nhưng kể từ loại hình cụm công nghiệp làng nghề hay các cụm công nghiệp
tổng hợp hiện đại, thì đều có thể thấy rõ đặc điểm này.
1.2.2.4. Tạo cơ sở hạ tầng đồng bộ
Các cụm công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện nước,
điện thoại…tạo thuận lợi cho việc liên kết, kết nối, vận tải, thông tin liên lạc, các
yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp. Rõ ràng yếu tố cơ sở hạ tầng hiện đại và
đồng bộ là yếu tố gắn liền với sự phát triển của cụm công nghiệp.

21

1.2.3. Phân loại cụm công nghiệp
1.2.3.1. Theo hình thức tổ chức
- Cụm công nghiệp làng nghề
Hoạt động sản xuất tiểu - thủ công nghiệp ở nước ta đã có từ rất sớm và
song song với sự hình thành, phát triển của các làng, xã trong suốt chiều dài lịch
sử của nông thôn, do vậy, nhiều làng nghề truyền thống đã trở nên nổi tiếng.
Nét nổi bật của sản xuất làng nghề là thường tổ chức theo hộ gia đình, tại
nhà. Tuy nhiên, cùng với xu thế phát triển sản xuất của làng nghề, hình thức tổ
chức sản xuất này đã bộc lộ nhiều hạn chế, nổi bật nhất là khó khăn trong việc
mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại và gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng tại các làng nghề. Vì thế, những năm gần đây, ở nhiều nơi
đã hình thành các cụm công nghiệp làng nghề. Cụm công nghiệp làng nghề ra
đời góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng thu ngân sách, làm

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực, tạo công ăn việc làm
và nâng cao thu nhập , đời sống cho dân cư…. và được thành lập theo quyết định
của chính quyền địa phương (tỉnh hoặc huyện).
Cụm công nghiệp với mục tiêu là phát triển sản xuất kinh doanh công
nghiệp, trên cơ sở giải quyết tốt vấn đề tạo ra kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
môi trường, thực hiện tách biệt khu sản xuất khỏi khu dân cư sinh sống.
Đối tưọng vào cụm công nghiệp làng nghề là các cơ sở sản xuất, kinh
doanh (doanh nghiệp vừa, nhỏ, hộ kinh doanh gia đình) ở làng nghề chuyển đến.
- Cụm công nghiệp hiện đại
Cụm công nghiệp hiện đại là loại hình cụm công nghiệp được xây dựng
mới hoàn toàn, chủ yếu do các công ty nước ngoài, doanh nghiệp lớn trong nước
đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng nhanh và chất lượng khá cao, tạo điều kiện

22

hấp dẫn các công ty nước ngoài có công nghệ kĩ thuật cao, khả năng tài chính
lớn và có chiến lược kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
Trong cụm công nghiệp hiện đại thường bao gồm đầy đủ các khu chức
năng chính như: khu dịch vụ kỹ thuật, khu nhà máy xí nghiệp, khu cây xanh, các
dự án kế cận, thuận lợi trong liên lạc giữa các khu chức năng với nhau trong nội
khu, cũng như hợp lý trong mối liên hệ với khu vực
1.2.3.2. Theo cơ cấu ngành nghề
- Cụm công nghiệp tổng hợp
Cụm công nghiệp tổng hợp thường có quy mô lớn hơn cụm công nghiệp
làng nghề: diện tích ban đầu có thể từ 5-10 ha, giai đoạn sau phát triển lên
khoảng 30-50 ha. Các cụm công nghiệp này, thường được hình thành trên cơ sở
nhu cầu của một số các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có phải di dời hoặc cần
phát triển mới, cũng có một số cơ sở sản xuất tự nguyện góp vốn xây dựng và tự
thành lập ban quản lý riêng.
Nguồn vốn xây dựng các cụm công nghiệp này, có thể một phần là vốn

góp cổ phần, một phần là vốn vay ưu đãi nếu được địa phương ủng hộ hoặc sự
dụng vốn ngân sách địa phương để làm công tác chuẩn bị đầu tư và xây dựng hạ
tầng ngoài hàng rào. Sự ưu đãi của chính sách nhà nước đối với chúng, thường
dựa trên khả năng sử dụng nguyên liệu, nhân công tại chỗ và mức đóng góp cho
ngân sách địa phương.
- Cụm công nghiệp chuyên ngành
Cụm công nghiệp chuyên ngành là các cụm công nghiệp được hình thành
trên cơ sở hoạt động sản xuất công nghiệp gắn liền với nguồn nguyên liệu nông,
lâm, thuỷ sản, khoáng sản… Doanh nghiệp trong các cụm công nghiệp chuyên

23

ngành hoạt động trong lĩnh vực ngành dệt may, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
chế tạo, sản xuất nguyên phụ liệu…
Đặc trưng của các cụm công nghiệp chuyên ngành là phần lớn thuộc lĩnh
vực công nghệ cao, hàm lượng chất xám khá, tỷ suất đầu tư lớn, đòi hỏi lực
lượng lao động có tay nghề cao, đã qua trường lớp đào. Sản phẩm của cụm công
nghiệp đã rất nổi tiếng và có giá trị lớn về nhiều mặt đối với kinh tế - xã hội.
1.3.Vai trò của đầu từ nƣớc ngoài và phát triển cụm
công nghiệp
1.3.1. Vai trò đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đối với nền kinh tế
1.3.1.1. Đối với nƣớc nhận đầu tƣ
- Bổ sung nguồn vốn
FDI là một trong những nguồn quan trọng, để bù đắp sự thiếu hụt về vốn
ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công
nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng
tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì
hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó

vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn
quẩn” đó, để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước nhận
đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng,
khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa, lượng vốn này còn có lợi
thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định, đôi khi
quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.

24

Như vậy đầu tư nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Chuyển giao công nghệ
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ
sảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ
đầu tư không chỉ đưa vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật
như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là phần cứng), tri thức khoa
học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.)
Do vậy đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu
tư, cụ thể FDI đã và sẽ:
.Thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm
lượng công nghệ cao.
. Đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật
cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo
và quá trình vừa học vừa làm.
. Mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận
công nghệ của các nước nhận đầu tư.
. Thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo kỹ sư, nhà quản lý
có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu dịch chuyển trong nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự

phát triển nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa đời
sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào
quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước

25

trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho
phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của
nước phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
1.3.1.2. Đối với nƣớc đi đầu tƣ
Do đầu tư là người nước ngoài là người trực tiếp điều hành và quản lý vốn
nên họ có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ, vì thế
họ có đảm bảo hiệu quả của vốn FDI.
Đầu tư nước ngoài sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguyên
liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đầu tư, cũng như trên thế giới.
Do khai thác được nguồn tài nguyền thiên nhiên và lao động rẻ, thị trường tiêu
thụ rộng lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được lợi thể kinh tế của quy
mô từ đó có thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm.
1.3.2. Vai trò của cụm công nghiệp đối với nền kinh tế
1.3.2.1. Phát triển ngành công nghiệp trọng tâm
Quá trình hình thành và phát triển cụm công nghiệp đã chứng tỏ cụm công
nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp và kinh tế-xã
hội. Các Cụm công nghiệp đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, cũng như phát triển ngành công nghiệp trọng
tâm cần được chú trọng.
1.3.2.2. Tạo thuận lợi trong việc tiếp thu công nghệ và kinh

nghiệm quản lý tiên tiến
Cụm công nghiệp là môi trường tiếp nhận chuyển giao và sử dụng hiệu
quả những thành tựu khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản xuất.

×