Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.94 KB, 26 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại chặng đường đổi mới nền kinh tế, chúng ta có thể thấy được vài trò
và sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong quá trình đưa đất nước đi lên. Với
quan điểm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đưa đất nước trở
nên hùng mạnh có thể sánh vai được với các cường quốc trên thế giới. Đảng và
Nhà nước luôn luôn quan tâm đầu tư phát triển tất cả các thành phần kinh tế, các
ngành. Với trọng tâm phát triển ngành công nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay thì sự đầu tư phát triển ngành công nghiệp nhẹ là một lợi thế của chúng
ta.
Ngành công nghiệp da giầy cũng là một trong những ngành được đặc biệt
quan tâm, không chỉ bởi nó đem lại một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước
mà nó còn là một trong những ngành giải quyết được nhiều gánh nặng cho đất
nước (như việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân...). Tuy nhiên trong giai
đoạn hiện nay thì ngành da giầy của chúng ta so với ngành da giầy của các nước
khác trên thế giới còn nhiều lạc hậu. Để có thể có được các thị trường mạnh như
Mỹ, EU, Nhật đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư hơn nữa trong những năm tới.
Đặc biệt là chúng ta đã ra nhập AFTA và tiến tới là nhập vào tổ chức thương
mại quốc tế WTO. Do đó chúng ta cần một phương hướng, một chiến lược, một
kế hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy trong những năm tới.
Từ sự cấp thiết của vấn đề trên mà em xin chọn lựa đề tài : “Phương hướng
đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 201 ”.
Bài viết ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận gồm ba phần:
Phần I : Lý luận chung
Phần II : Thực trạng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da
giầy
Phần III : Phương hướng và giải pháp đầu tư phát triển ngành công
nghiệp da giầy đến năm 2010
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hà đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có được sự góp ý của thầy cô cùng bạn


bè để bài viết được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !
1

Phần I: LÝ LUẬN CHUNG
I. Khái niệm, vai trò,đặc điểm của đầu tư
1. Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau, đứng trên mỗi
góc độ (như góc độ tài chính, góc độ tiêu dùng...) người ta đều có thể đưa ra một
khái niệm.
Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư
như sau: ” Đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác trong
hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra, hoặc khai thác sử dụng
tài sản nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai “.
Thông qua khái niệm chung về đầu tư chúng ta có thể thấy được bản chất
và đặc điểm của đầu tư. Do đó ta có thể phân biệt một số loại đầu tư như sau :
a- Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính ).
Đây là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu
chính phủ, đầu tư chứng khoán...) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của các công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này)
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức cá nhân đầu tư. Song nó có
vai trò tương đối quan trọng (là nguồn cung cấp vốn ) cho đầu tư phát triển.
b- Đầu tư thương mại.
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó
bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.
Loại đầu tư cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến
ngoại thương ) mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư. Tuy nhiên
đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất, từ

đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát
triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
c- Đầu tư phát triển.
Đầu tư là một bộ phận cơ bản của đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm
lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để
tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc
bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang
thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực,
thực hiên các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang
tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
2- Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Từ việc xem xét khái niệm đầu tư phát triển trên ta có thể đưa ra được các
đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển như sau:
- Thứ nhất : Tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho một công
cuộc đầu tư thường là rất lớn.
2

- Thứ hai : Thời gian kể từ khi bắt đầu tiến hành một công đầu
tư cho đến khi các thành quả của một công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng
đem lại lợi ích kinh tế xã hội thường kéo dài.
- Thứ ba: Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng thường
kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn.
- Thứ tư : Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình
xây dựng, vật kiến trúc như nhà máy, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi đường xá
cầu cống bến cảng... sẽ hoạt ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các
điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu
tư cũng như tác động sau này của các kết quả đầu tư.
- Thứ năm : Với đặc điểm là thời gian thực hiện đàu tư dài, vốn
lớn, lao động nhiều, thời gian vận hành các kết quả đầu tư dài. Do đó nó tạo ra

một đặc điểm cho hoạt động đầu tư phát triển là mức độ rủi ro cao.
3- Vai trò của đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển có một vai trò hết sức quan trọng với mọi quốc gia cũng
như với mọi doanh nghiệp. Thông qua hoạt động đầu tư thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển của mỗi quốc gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp. Chúng ta có thể xem xét một cách cụ thể vai trò của đầu tư phát triển
trên hai góc độ như sau :
a- Đứng trên góc độ vĩ mô.
-Thứ nhất : Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
Đối với tổng cầu thì đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn. Theo số liệu của
ngân hàng thế giới đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu
của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động ngắn hạn đến tổng cầu. Đối
với tổng cung thì kết quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng làm cho tổng
cung dài hạn tăng lên. Từ đó kích thích tiêu dùng, tăng sản xuất.
-Thứ hai : Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế.
Tăng đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định nền kinh tế. Mặt tích cực là
tăng đầu tư dẫn đến sản xuất phát triển, từ đó tăng thu nhập, việc làm tăng, nâng
cao đời sống xã hội, giảm các tệ nạn xã hội. Mặt tiêu cực đó là khi đầu tư tăng
thì giá tăng lên dẫn đến lạm phát làm cho thu nhập thực tế giảm, chi phí đầu vào
tăng, dẫn đến sản xuất giảm,việc làm giảm.
Giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt. Tác động tích cực là khi giảm đầu tư
dẫn đến lạm phát giảm từ đó làm tăng lợi nhuận cho người sảm xuất, kích thích
sản xuất. Tác động tiêu cực là đầu tư giảm dẫn đến sản xuất giảm, việc làm
giảm, thu nhập giảm.
Thứ ba : Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kết quả của các nhà nghiên cứu kinh tế cho thấy muốn giữ được tốc
độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15- 25% so với
GDP và phải tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước :
3


Vốn đầu tư
Ta có: ICOR =
Mức gia tăng GDP
Vốn đầu tư
Suy ra : Mức gia tăng GDP(g) =
ICOR
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước là khác nhau, nó tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế của mỗi nước.
Thứ tư : Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự tác động của đầu tư làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ nông nghiệp
sang công nghiệp và từ công nghiệp dần sang dịch vụ. Chuyển dần các vùng
lãnh thổ nghèo kém, chậm phát triển thành các vùng có tốc độ phát triển cao
hơn, đẩy lùi được đói nghèo.
Thư năm : Đầu tư tác động đến sự phát triển khoa học công nghệ của đất
nước.
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có công
nghệ thiết bị tiên tiến. Mà để có công nghệ thiết bị hiện đại phù hợp với yêu cầu
phất triển thì có hai con đường đó là tự nghiên cứu và tiến hành đầu tư mua công
nghệ tư nước ngoài. Bất cứ con đường nào cũng đòi hỏi phải có sự đầu tư và chỉ
có đầu tư mới phát triển được trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất
nước.
b-Đứng trên góc độ vi mô.
Trên góc độ vi mô, ta thấy đầu tư có vai trò quyết dịnh đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Bởi doanh nghiệp chỉ có
thể tồn tại khi sản phẩm đầu ra được tiêu thụ. Muốn vậy thì các sản phẩm của
doanh nghiệp phải có chất lượng cao, giá rẻ, đẹp. Để có được điều này thì cầc
tăng cường hoạt động đầu tư bởi vì:
-Đầu tư làm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
-Đầu tư tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
-Đầu tư dẫn đến làm giảm chi phí sản xuất, tư đó sẽ giảm giá thành sản

phẩm và tất là sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhiều hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp
tư đó cũng được tăng lên.
-Thông qua đầu tư chiều sâu sẽ làm cho chất lượng sản phẩm ngày càng tốt
hơn, mẫu mã ngày càng phong phú và đa dạng đồng thời kết hợp với giá thành
hạ sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp
trong nước và quốc tế.
-Một vai trò nữa của đầu tư đứng trên góc vi mô đó là đầu tư tác động đến
việc nâng cao trình độ tay nghề của các bộ công nhân viên, cải thiện hệ thống
quản lý của doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển của thị trường.
II. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành.
1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư.
4

Hiệu quả có thể được khái niệm một cách chung nhất là mức độ đáp ứng
nhu cầu phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người lao động của cơ sở, của
ngành địa phương hoặc của cả nước Chỉ tiêu hiệu quả được tính như sau:
Các kết quả của đầu tư
Chỉ tiêu hiệu quả =
Chi phí để có đựoc các kết quả trên
Để đánh gía hiệu quả đầu tư người ta sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau mỗi
chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh hiệu quả, đáp ứng một yêu cầu nhất định trong
quản lý, nghiên cứu kinh tế.
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội
Thông thường hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá ở hai mặt đó
là mặt tài chính và mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên ở đây chúng ta đánh giá hiệu
quả đầu tư của một ngành, do đó chúng ta chỉ xét trên mặt hiệu quả kinh tế xã
hội.
Về phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư xét trên mặt kinh tế xã hội được
đứng trên hai góc độ vĩ mô và vi mô cũng có sự khác nhau.
a- Đứng trên góc độ vi mô ta có:

-Mức đóng góp vào ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi các kết
quả của hoạt động đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động như thuế doanh thu, thuế lợi
tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế đát, lệ phí chuyển nhượng...) từng năm của
ngành.
-Số chỗ làm việc tăng thêm của từng năm do hoạt động đầu tư của nghành
tạo ra :
Phương pháp
tính :
Số làm việc
tăng thêm
=
Số lao động
thu hút thêm
-
Số lao động
mất việc làm
-Số ngoại tệ thu hút được từ hoạt động đầu tư đem lại :
Phương pháp
tính :
Số ngoại tệ
thực thu
=
Tổng thu
ngoại tệ
-
Tổng chi
ngoại ệ
-Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư.
-Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư.


Phương pháp
tính :
Mức độ
chiếm lĩnh
thị trường
mới
=
Doanh thu do bán sản phẩm
của cơ sở tại thị trường này
Doanh thu tiêu thụ sản
phẩm cùng loại tại thị
trường này
- Nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ kỹ thuật sản
xuất, trình độ quản lý.
5

-Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng
thời kỳ.
b. Đứng trên góc độ vĩ mô
Đối với cấp quản lý vĩ mô của nhà nước, của địa phương và ngành khi xem
xét hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư cần tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián
tiếp có liên quan đến việc thực hiện đầu tư, mọi lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu
được do đầu tư đem lại.
Chi phí ở đây bao gồm chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành
và của đất nước.
Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa
phương và cả nền kinh tế được hưởng.
Để xác định các chi phí, lợi ích đầy đủ của công cuộc đầu tư phải sử dụng
các báo cáo tài chính, tính lại giá đầu vào, đầu gia theo giá xã hội (giá ẩn, giá

tham khảo) không thể sử dụng giá thị trường để tính các khoản thu chi và lợi ích
kinh tế xã hội vì giá thị trường chịu sự chi phối của các chính sách tài chính,
kinh tế của nhà nước.
Vì vậy, khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những công cuộc đầu tư
có tầm cỡ lớn bao quát cả một vùng, một ngàn rộng lớn hay quan trọng với nền
kinh tế thì phải điều chỉnh lại giá này theo giá xã hội, phải lưu ý đến các yếu tố
bên ngoài có ảnh hưởng đến dự án và ngược lại.
3. Các chi tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư xét ở
tầm vĩ mô.
Chỉ tiêu 1: giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm (NVA).
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư. NVA
là mức chênh lệch gữa giá trị đầu gia và giá trị đầu vào.
Phương pháp tính : NVA = O - (Mi+i
v
)
Trong đó : NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem
lại.
O: là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư
Mi: là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và dịch vụ mua
ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây.
i
v
: là vốn đầu tư hoặc khấu hao
NVA có thể được tính theo từng năm như sau:
Phương pháp tính : NVA
i
= O
i
- (Mi
i

+D
i
)
D
i
:là khấu hao năm thứ i
Đối với các dự án liên doanh NVA gồm hai bộ phận là:
-Giá trị sản phẩm thuần tuý gia tăng quốc gia. Giá trị này chính là phần
giá trị gia tăng được sử dụng trong nước (NNVA).
6
[ ]
IvoipvRPMINNVA
n
i
n
i
−+−=
∑∑

=

=
1
0
1
0
)(0

-Giá trị gia tăng thuần tuý được chuyển ra nước ngoài (RP) là tiền lương,
tiền thưởng, trả lãi vay vốn, lợi nhuận thuần, lãi cổ phần của người nước ngoài,

các khoản thanh toán khác không được đưa vào trong đầu vào nguyên vật liệu.
NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của đầu tư đối với nền kinh tế của
đất nước.

Ta có:
Chỉ tiêu 2: Số lao động có việc làm do thực hiện dự án và có việc làm tính
trên một đơi vị giá trị vốn đầu tư.
-Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp
cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (số lao động gián
tiếp).
-Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư :
Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư, cũng
tương tự như đối với số lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án
đang xem xét và số vốn đầu tư của các dự án liên đới. Sau đó ta tính toán các chỉ
tiêu :
• Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu
tư trực tiếp (Id).
Id =
Ld
Ivd
Ld : là số lao động trực tiếp.
Ivd : Số vốn đầu tư trực tiếp
• Toàn bộ số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy
đủ (It)
It =
Lt
Ivt
Lt : là toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp.
Ivt : là toàn bộ số vốn đầu tư đầy đủ.
Lt = Ld +Lind (Lind: số lao động có việc làm gián tiếp)

Ivt = ivd +ivind (ivind: số vốn đầu tư gián tiếp )
Chỉ tiêu 3: Mức tiết kiệm ngoại tệ.
Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem
xét tác động của dự án đến các cân thanh toán của dất nước. Xác định chỉ tiêu
mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức đóng góp vào cán cân thanh toán
của đất nước.
Bước 1: Xác định chênh lệch thu chi ngoại tệ của dự án xem xét. Phần
chênh lệch này được tính cho cả đời dự án và từng năm.
Bước 2: Xác định mức thu ngoại tệ của dự án có liên quan xem xét (chênh
lệch gián tiếp ).
7



=

=
=
1
0
1
0
)(
n
i
n
i
DRipv
ipvFEP
IC


Bước 3: Tính mức chênh lệch thu chi ngoại tệ dự án trực tiếp và gián tiếp
bằng cách cộng bước1 và bước2.
Bước 4: Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế hàng
nhập khẩu không phải nhập của nước ngoài.
Bước 5: Xác định mức tiếp kiệm ngoại tệ bằng cách cộng toàn bộ mức
chênh lệch của bước 3 và bước4.
Chỉ tiêu 4: Tác động của dự án tới việc phân phối thu nhập trong xã hội.
Bước 1: Tính mức gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng.
Bước 2: Tính mức giá trị gia tăng phân phối cho vùng.
Chỉ tiêu này được tính bằng phần giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho
các nhóm đối tượng thuộc vùng đó.
Bước 3: Xác định tỷ trọng giữa giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho
từng nhóm đối tượng so với tổng mức giá trị gia tăng hàng năm của dự án
Chỉ tiêu 5: Khả năng cạnh tranh quốc tế.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự
án sản xuất ra trên thị trường quốc tế.
Phương pháp tính chỉ tiêu này như sau:
-Xác định P(FE).
Tính đầu vào của dự án từ nguồn trong nước (vốn đầu tư, nguyên vật liệu,
dịch vụ kết cấu hạ tầng, tiên lương trả cho người lao động trong nước...)phục vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Giá trị các đầu vào này
được tính theo giá thị trường trong nước điều chỉnh, ở mặt bằng thời gian hiện
tại và tỷ giá hối đoái điều chỉnh.
So sánh số ngoại tệ tiết kiệm với giá trị các đầu vào trong nước. Nếu tỷ số
này >1 thì sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Ta có :
Trong đó: iC: là chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế
DR: là các đầu vào trong nước dùng để sản xuất sản phẩm xuất
khẩu.

Chỉ tiêu 6: Một số tác động khác của dự án.

III. Một số vấn đề về ngành công nghiệp da giầy.
1. Đặc điểm của ngành công nghiệp da giầy.
Khi nghiên cứu hoạt động đầu tư trong ngành da giầy chúng ta thấy được
các đặc điểm nổi bật như sau:
Một là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã
hội. Số lao động có việc làm tính đến năm 1999 vào khoảng 300000 người,
8

ngoài ra tạo thêm nhiều việc làm gián tiếp thông qua việc phát triển các ngành
nghề phụ như chăn nuôi gia súc...
Hai là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành có công nghệ đơn giản hơn so
với các ngành công nghiệp khác, cần ít vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế
cao. Mặc dù đặc điểm là thiết bị gản đơn song ngành công nghiệp da giầy hiện
nay vẫn phải mua máy móc thiết bị, công nghệ của nước ngoài.
Ba là, Ngành công nghiệp da giầy nước ta hiện nay có hệ thống công
nghệ, máy móc thiết bị tương đối lạc hậu.
Bốn là, Ngành công nghiệp da giầy phụ thuộc tương đối vào nước ngoài
về các nguyên liệu đầu vào.
Năm là, Ngành da giầy là ngành sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu
ăn mặc, thời trang. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Vì vậy đặc điểm
của ngành da giầy là luôn có sự đổi mới về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản
phẩm.
Sáu là, Là ngành có tiềm năng xuất khẩu tương đối lớn, thu được nhiều
ngoại tệ cho đất nước.
2. Vai trò của ngành công nghiệp da giầy
Cùng với một số ngành công nghiệp khác, ngành công nghiệp da giầy
được nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, đưa ra cấc kế hoạch định
hưóng tới năm 2010, bởi lẽ nó có một vai trò tương đối quan trọng trong công

cuộc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của
ngành công nghịêp da giầy được biểu hiện qua một số điểm như sau:
Một là, Giải quyết công ăn việc làm cho toàn xã hội. Đây là một vai trò to
lớn của ngành bởi vì trong giai đoạn phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay thì
vấn đề việc làm trở thành gánh nặng cho Nhà nước. Với việc tăng trưởng và
phát triển còn khiêm tốn thì việc phát triển các ngành nghề giải quyết được
nhiều việc làm, đặc biệt là các việc làm thủ công, không đòi hỏi trình độ cao trở
lên hết sức quan trọng.
Hai là, Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong
những năm qua sự phát triển của ngành công nghiệp da giầy đã đem lại cho Nhà
nước nhiều khoản thu, thông qua việc mở rộng sản xuất, tăng kim ngạch xuất
nhập khẩu. Tăng thu ngoại tệ, làm giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh
toán. Tạo ra sự tăng trưởng và phát triển tương đối trong những năm vừa qua.
Ba là, Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, Có vai trò trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên
trong nước.
3.Vai trò đầu tư với việc phát triển ngành da giầy.
Trong những năm vừa qua ngành da giầy đã có những bước đi mang tính
đột phá. Sản phẩm không ngừng tăng, quy mô không ngừng phát triển. Đã tạo ra
cho mình một vai trò, vị trí tương đối trong việc thúc đẩy sự phát triển nền sản
xuất kinh tế xã hội. Đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển cuả
đất nước. Để có được những kết quả đó chúng ta phải kể đến vai trò của hoạt
9

động đầu tư phát triển. Thông qua hoạt động đầu tư mà tác động đến ngành da
giầy được cụ thể ở một số vai trò như sau.
-Thứ nhất: Đầu tư tác động đến quy mô của ngành da giầy. Nhờ có chính
sách khuyến khích của Nhà nước, thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, cùng với sự phát triển của ngành giầy thế giới và các nước trong khu
vực. Các hoạt động đầu tư phát triển của ngành da giầy ngày càng nhiều và hiệu

quả, tác động đến quy mô, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Cụ thể tính đến
năm 1998 ngành công nghiệp da giầy Việt Nam có 196 doanh nghiệp, trong đó:
+Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước có 109 đơn vị.
+Các doanh nghiệp sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân có 34 đơn vị.
+Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có 39 đơn vị.
+Các doạnh nghiệp liên doanh có 14 đơn vị.
Quy mô sản phẩm không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn nhiều so với
năm trước. Theo số liệu thống kê thì năm 1998 toàn ngành đã sản xuất được 300
triệu đôi giầy dép các loại; 26 triệu đôi túi, cặp; 17 triệu(SQFT) da thuộc các
loại. Đến năm 1999 với 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại sản lượng đã
tăng là 80 triệu đôi giầy dép các loại, bốn triệu cặp túi và năm triệu sản phẩm da
thuộc. Qua đây ta có thấy được vai trò của đầu tư đối với sự phát triển quy mô
của ngành da giầy.
-Thứ hai : Đầu tư tác động đến sự phát triển trình độ kỹ thuật sản xuất,
trình độ quản lý.
Bằng việc đầu tư cải tiến công nghệ, mua linh kiện, thiết bị mới đồng thời
thông qua tăng cường đầu tư hợp tác với liên doanh với các doanh nghiệp nhà
đầu tư nước ngoài mà trình quản lý của cán bộ kỹ thuật và công nhân được nâng
cao, tính năng động, tính sáng tạo và sự khéo léo của lực lượng lao đông trẻ
được phát huy. Trình độ quản trị kinh doanh của các cán bộ quản lý, ý thức kỷ
luật có nhiều tiến bộ.
-Thứ ba: Đầu tư tác động đến sức cạnh tranh của sản phẩm của ngành da
giầy trên thị trường thế giới.
Thông qua hoạt động đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
ra các hình thức mẫu mã phù hợp, thời trang mà trong những năm qua các sản
phẩm của ngành chiếm được một số thị trường mới và đầy tiềm năng như EU,
Mỹ, Nhật và đồng thời khôi phục lại một số thị trường truyền thống như Nga và
các nước Đông Âu.
Trên đây là một số vai trò cơ bản của đầu tư đã tác động trực tiếp đến sự
tồn tại và phát triển ngày càng mạnh của ngành da giầy trong một số năm qua.

Song thông qua sự phát triển một cách nhanh chóng mà ngành da giầy
cũng tác động trở lại đến đầu tư. Bởi vì sự tăng trưởng và phát triển nhanh tạo ra
một môi trường đầu tư tương đối hấp dẫn. Do đó mà Nhà nước cũng như các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư đều có kế hoạch, chiến lược đầu tư phát triển
ngành da giầy trong tương lai.
10

×