Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.11 KB, 99 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những xu hướng phát triển hiện nay là sự bùng nổ của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Công
nghệ đã làm cho năng lực sản xuất tăng nhanh chưa từng có, chất lượng sản
phẩm nâng cao thoả mãn được hầu hết những đòi hỏi khắt khe của cuộc sống
hiện đại. Những ngành sản xuất có công nghệ càng cao thì tỉ suất lợi nhuận thu
được càng lớn trong khi đó nguyên vật liệu sử dụng không đáng kể. Do vậy
nước nào càng nắm giữ được nhiều công nghệ sản xuất hiện đại tiên tiến thì
kinh tế càng phát triển. Những nền kinh tế hàng đầu thế giới hiện nay như Mỹ,
Nhật Bản và khối EU đều là những nước nắm giữ những công nghệ hàng đầu
thế giới.
Là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, khoa học công nghệ
kém phát triển thì không có con đường nào tốt hơn cho Việt Nam trong việc
chú trọng đầu tư trong công tác nghiên cứu thử nghiệm và sử dụng công nghệ là
thông qua các dự án FDI. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là con đường ngắn nhất,
rẻ nhất để tiếp cận đến công nghệ sản xuất hiện đại. Từ khi tiến hành mở cửa
nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại cho Việt Nam không chỉ
vốn mà cả công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam từ một nước
chỉ có công nghệ cũ kỹ lạc hậu chủ yếu nhận viện trợ từ nước ngoài đến nay đã
du nhập được hầu hết những công nghệ cần thiết phục vụ cho sản xuất cơ bản,
nhiều công nghệ được đánh giá là hiện đại tiên tiến. Sản xuất phát triển, đời
sống nhân dân từng bước được nâng cao. Công nghệ hiện đại còn tạo nên
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu khí, dệt may, giày
dép...
Với mục đích nâng cao hiệu quả của việc tiếp nhận và sử dụng công
nghệ chuyển giao qua các dự án FDI, chuyên đề “Chuyển giao công nghệ
thông qua các dự án FDI: Thực trạng và giải pháp” sẽ phân tích tổng quan
tình hình chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam thời gian qua, đánh giá những mặt đã đạt được, những mặt còn hạn
chế. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp chủ yếu. Với mục đích như trên đề tài
sẽ đưa ra những nghiên cứu, đánh giá và trình bày giải pháp ở tầm vĩ mô mà


không chuyên sâu vào một lĩnh vực hay một doanh nghiệp cụ thể nào. Phương
pháp nghiên cứu dựa vào lý thuyết chung về chuyển giao công nghệ, thực trạng
chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI của Việt Nam và kinh nghiệm của
các nước để đề ra các biện pháp tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả của việc
tiếp nhận và sử dụng công nghệ.
Chuyên đề được chia ra làm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án
FDI.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam thời gian qua.
- Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu
quả của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào
Việt Nam.
Cám ơn Th.S Ngô Thị Tuyết Mai - giáo viên hướng dẫn và C.N Mai Thị
Dần - cán bộ hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội ngày 30 tháng 4 năm 2004
Nguyễn Đoan Trang

CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG
NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1.1. Khái niệm và nội dung của chuyển giao công nghệ
1.1.1.1. Khái niệm
Trên giác độ chung nhất, người ta cho rằng chuyển giao công nghệ là quá
trình đưa công nghệ từ bên có công nghệ (người bán) sang bên nhận công nghệ
(người mua).
Trong cơ chế thị trường, quá trình di chuyển ấy thường là quá trình trao
đổi (mua-bán) một thứ hàng hoá đặc biệt là công nghệ.
Có quan điểm lại cho rằng: chuyển giao công nghệ là hoạt động gồm hai
chủ thể (hai bên). Trong đó, một bên bằng một hành vi pháp lý hoặc/và một

hoạt động thực tiễn tạo cho Bên kia một năng lực công nghệ nhất định. Năng
lực công nghệ là tập hợp những tri thức và giải pháp mà chủ thể có thể sử dụng
để hoàn thành một mục tiêu nhất định.
Có thể nói rằng: chuyển giao công nghệ là một quá trình bao gồm hai
bên: Bên giao và Bên nhận công nghệ.
Bên giao công nghệ gồm một hoặc nhiều tổ chức khoa học, công nghệ và
các tổ chức khác có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân ở nước ngoài có công
nghệ.
Bên nhận công nghệ gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế khoa học, công
nghệ và tổ chức khác có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân tiếp nhận công nghệ.
Tuy nhiên, theo ESCAP (Uỷ ban kinh tế – xã hội – Châu Á - Thái Bình
Dương) thì chỉ có hoạt động chuyển giao công nghệ từ quốc gia này sang quốc
gia khác mới được coi là hoạt động chuyển giao công nghệ. Như vậy, có thể nói
thực chất hoạt động chuyển giao công nghệ là quá trình trong đó công nghệ
được di chuyển qua các Biên giới quốc gia.
1.1.1.2. Nội dung chuyển giao của công nghệ:
Theo Bộ luật Dân sự và Nghị định 45/1008/CĐ-CP (ngày 1/7/1998) quy
định chi tiết về chuyển giao công nghệ thì các hoạt động sau đây được coi là
nội dung (đối tượng) của chuyển giao công nghệ:
- Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy móc thiết
bị mà pháp luật cho phép chuyển giao như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và
nhãn hiệu hàng hoá. Bao gồm cả chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng của các đối tượng đó. Riêng nhãn hiệu hàng hoá buộc phải kèm theo việc
chuyển giao công nghệ mới được gọi là chuyển giao công nghệ.
- Các yếu tố thuộc phần cứng thông tin của công nghệ như: Bí quyết kỹ
thuật, lựa chọn công nghệ, tài liệu thiết kế, công thức bản vẽ, sơ đồ, bảng biểu...
- Các hình thức hỗ trợ và tư vấn cho công nghệ như: Bí quyết kỹ thuật, lựa
chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử các dây chuyền công
nghệ, đào tạo huấn luyện chuyên môn cho cán bộ kỹ thuật, công nhân, lao động
quản lý dịch vụ cung cấp thông tin phục vụ cho công nghệ được chuyển giao.

- Các giải pháp hợp lý hoá sản xuất.
Chú ý rằng: các hoạt động xuất nhập khẩu máy móc thiết bị thuần tuý
không được coi là chuyển giao công nghệ.
1.1.2. Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và qua
các dự án FDI nói riêng.
Chuyển giao công nghệ là một tất yếu khách quan, vì các lý do cơ bản
sau đây:
- Do sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất và khoa học công
nghệ giữa các quốc gia.
- Do đòi hỏi của thực tiễn công nghệ trong quá trình hội nhập kinh tế với
các nước trong khu vực và toàn cầu và nhu cầu phát triển ở từng quốc gia.
- Do sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc đã chia cắt quá trình
nghiên cứu cơ bản với quá trình ứng dụng các nghiên cứu vào thực tiễn.
- Do mức độ rủi ro và các yêu cầu có tính chất điều kiện của quá trình
nghiên cứu cơ bản quá cao làm cho nhiều quốc gia không thể thực hiện được
các hoạt động nghiên cứu cơ bản trong hầu hết các lĩnh vực cần thiết.
- Do sự phát triển của cơ chế thị trường đòi hỏi các quốc gia đều phải tính
toán xem đi theo con đường nào thì có hiệu quả hơn.
- Do vòng đời của công nghệ trên một thị trường nhỏ ngày càng ngắn lại
nên các chủ thể có công nghệ đều phải tìm cách chuyển giao nó sang các thị
trường khác để kéo dài chu kỳ sống của nó một cách hợp lý, tạo thành các làn
sóng công nghệ trên thị trường thế giới.
Việc chuyển giao công nghệ có thể thực hiện được bằng nhiều con đường
như thương mại quốc tế, phi thương mại, đầu tư quốc tế... Song ngày nay, đầu
tư quốc tế là con đường phổ biến của chuyển giao công nghệ vì các ưu điểm nổi
bật của nó là có thể tranh thủ được bí quyết kinh doanh, mạng lưới tiếp thị
(marketing) quốc tế của các xí nghiệp đa quốc gia,... do đó có thể rút ngắn được
quá trình phát triển công nghiệp.
1.1.3. Đặc điểm và tác động của việc chuyển giao công nghệ qua các dự án
FDI

Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để
phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện ở
hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát
triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu. Đây là những mục tiêu
quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện
chủ yếu bởi các TNCs, dưới các hình thức: chuyển giao trong nội bộ giữa các
chi nhánh của một TNCs (intra-firm networks) và chuyển giao giữa các chi
nhánh của các TNCs (inter-firm networks). Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, các hình thức này thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng.
Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang
nước chủ nhà (nhất là các nước đang phát triển) ở hình thức 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng
mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ
thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công
nghệ marketing. Theo số liệu thống kê của Trung tâm TNCs của Liên Hợp
Quốc (UNCTC) năm 1993 cho thấy, các chi nhánh của TNCs ở các nước đang
phát triển nhận được khoảng 95% các hạng mục công nghệ trên từ các công ty
mẹ của chúng (xem bảng 1.1)
Bảng I.1. Chuyển giao công nghệ của TNCs cho các nước đang phát triển (*)
Đơn vị: hạng mục
Hạng mục công nghệ Đông Nam
á
Mỹ Latinh Các nước khác Tổng
1. Tiến bộ công nghệ
2. Sản phẩm công nghệ
3. C.nghệ thiết kế & XD
4. C.nghệ K.tra chất.L
5. Công nghệ quản lý
6. C.nghệ marketing

135
150
87
135
110
630
154
158
111
105
75
57
141
152
96
131
101
65
430
460
294
371
286
185
Tổng cộng 680 660 686 2.026
Ghi chú: (*) Chỉ tính chuyển giao công nghệ của 221 chi nhánh TNCs.
Nguồn: Small and Medium – Sized transnational corporation, UN, 1993, p.109.
Nhìn chung, các TNCs rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới, có
tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật
hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước (technological imitation), cải

biến (adaptation) hoặc nhái lại (copy) công nghệ của các công ty nước chủ nhà.
Mặt khác, do nước chủ nhà còn chưa đáp ứng được các yêu cầu sử dụng công
nghệ của các TNCs.
Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNCs tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Mức tăng
trung bình hàng năm khoảng 300 hợp đồng chuyển giao công nghệ (inter-firm
technology agreements) trong giai đoạn từ đầu thập kỷ 80 đến giữa thập kỷ 90
(xem biểu đồ I.2). Trong giai đoạn 1980-1996, các TNCs đã thực hiện khoảng
8.254 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó 100 TNCs lớn nhất thế giới
chiếm bình quân khoảng35% (World Investment Report 1998, p.24).
Ở các nước đang phát triển, các hợp đồng chuyển giao công nghệ tập
trung nhiều vào các lĩnh vực công nghệ thông tin, chiếm khoảng 37% tổng số
hợp đồng chuyển giao công nghệ. Số hợp đồng chuyển giao công nghệ trong
lĩnh vực này tăng nhanh, từ mức trung bình 74 hợp đồng giai đoạn 1980-1983
lên tới 284 hợp đồng giai đoạn 1992-1995 và đạt được 254 hợp đồng vào năm
1996. Tiếp theo là các ngành dược phẩm (28% năm 1996) và ô tô (khoảng 8%
năm 1996).
Biểu đồ I.2. Tốc độ tăng của các hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNCs, giai đoạn 1980-1996 (số hợp đồng)
Sè hîp ®ång
280
493
502
626
650
0
100
200
300
400

500
600
700
1980-83 1984-87 1988-91 1992-95 1996

Nguồn: MERIT/UNCTAD database, World Investerment Report 1998, p.23.
Ở các nước đang phát triển, lĩnh vực công nghệ thông tin cũng thu hút
được nhiều nhất các hợp đồng chuyển giao công nghệ, chiếm khoảng 27% tổng
số hợp đồng chuyển giao công nghệ trong các nước đang phát triển (giai
đoạn1980-1996), tiếp theo là các lĩnh vực hoá chất (19%), vật liệu mới (9%), ô
tô (9%), dược phẩm (5%). Trong số các hợp đồng chuyển giao công nghệ vào
các nước đang phát triển, các TNCs của Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảg
2/5), tiếp theo là các TNCs của Châu Âu và Nhật Bản.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs
còn góp phần tích cực đối với năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) của
nước chủ nhà. Qua các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, các TNCs chi phí cho
hoạt động này thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng doanh số bán của chúng ở
nước chủ nhà và khá cao so với tỷ lệ chi phí cho R&D/GDP ở nhiều nước.
Theo điều tra của UN năm 1993, các chi nhánh của TNCs đã chiếm hơn
15% tổng chi phí R&D của các nước Ấn Độ, Hàn Quốc và Sinhgapore trong
những năm năm 1970. Hơn nữa, đến năm 1993 đã có 55% các chi nhánh của
các TNCs lớn và 45% các chi nhánh của các TNCs vừa và nhỏ thực hiện các
hoạt động R&D ở các nước đang phát triển. Trong những năm gần đây, xu
hướng này còn tiếp tục tăng nhanh ở các nước đang phát triển Châu Á.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu còn cho thấy phần lớn các hoạt động
R&D của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp
với điều kiện sử dụng của địa phương. Chẳng hạn, trong cuộc phỏng vấn các
nhà quản lý của 218 TNCs Nhật Bản cho thấy, có 57% số người được hỏi thừa
nhận đặc điểm này. Ở nước ta, qua điều tra của JETRO và AMTRAM năm
1996 về thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam

cũng cho thấy tình trạng tương tự như vậy. (Nguồn: Đầu tư quốc tế – NXB
Quốc gia Hà Nội 2001).
Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ
các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp
tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá
trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là trong các dự án liên doanh),
các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được (learning by doing
things) cách thiết kế, chế tạo,... công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp
với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành những công nghệ
của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của đầu tư
nước ngoài đối với phát triển công nghệ ở nước chủ nhà, đặc biệt là các nước
đang phát triển.
Do có các tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước chủ nhà
đã được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy
được tăng trưởng.
Bên cạnh những tác động tích cực, chuyển giao công nghệ qua đầu tư
nước ngoài cũng đặt ra nhiều vấn đề cho nước chủ nhà, trong đó nổi bật là:
công nghệ cũ (bãi thải công nghệ), công nghệ không phù hợp với điều kiện của
các nước đang phát triển, gây ô nhiễm môi trường, giá cả đắt hơn giá thực tế,...
Vấn đề tiếp nhận công nghệ cũ (cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình) luôn là mối quan tâm lớn của nước chủ nhà, đặc biệt là các nước đang
phát triển. Một mặt, công nghệ cũ thường giá rẻ, sử dụng nhiều lao động và dễ
sử dụng. Nhưng mặt khác các công nghệ này lại kém sức cạnh tranh, năng suất
thấp và gây ô nhiễm môi trường. Do đó, việc chuyển giao công nghệ cũ phụ
thuộc quan trọng vào sự lựa chọn của nước chủ nhà.
Đã từ lâu, vấn đề chuyển giao công nghệ không phù hợp vào các nước
đang phát triển đang là đề tài gây nhiều tranh luận trong giới kinh tế học phát
triển. Nhiều quan điểm cho rằng, phần lớn công nghệ chuyển giao vào các nước
đang phát triển qua con đường đầu tư nước ngoài là không phù hợp. Bởi vì các

công nghệ này được sản xuất ở các nước phát triển (với các đặc điểm: tiết kiệm
lao động, nhiều vốn, yêu cầu trình độ tay nghề cao, sử dụng nguồn nguyên liệu
được chuẩn hoá...), trong khi các nước đang phát triển lại không đáp ứng được
các yêu cầu này. Hơn nữa, sự khác biệt về điều kiện khí hậu (khô lạnh của các
nước cung cấp công nghệ ở Phương Bắc – các nước phát triển và nóng ẩm của
các nước nhận công nghệ ở Phương Nam – các nước đang phát triển) là yếu tố
làm hao mòn nhanh chóng công nghệ và khó sử dụng (thiết kế) ở nước tiếp
nhận công nghệ. Ngoài ra, khả năng hạn chế về cung cấp các dịch vụ kỹ thuật
và phụ tùng thay thế ở các nước đang phát triển cũng là những khó khăn trong
tiếp nhận công nghệ nước ngoài. Các đặc điểm này đã làm giảm hiệu quả sử
dụng công nghệ.
Do yêu cầu chặt chẽ trong các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường ở các nước
phát triển, các TNCs đã chuyển nhiều công nghệ gây ô nhiễm môi trường cao
sang khai thác ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, các công nghệ trong các dự
án đầu tư nước ngoài chủ yếu trong các lĩnh vực công nghiệp và khai thác tài
nguyên. Vì thế mặc dù các chủ dự án đầu tư nước ngoài và các cơ quan hữu
trách của nước chủ nhà đã tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường nhưng
cũng không loại bỏ được tình trạng ô nhiễm môi trường nước chủ nhà. Đây là
vấn đề khá phổ biến ở các nước đang phát triển.
Giá cả công nghệ cao hơn giá thực tế là hiện tượng phổ biến trong các
hợp đồng chuyển giao công nghệ vào các nước đang phát triển. Do các nước
này bị hạn chế về vốn, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm đàm phán,... nên các
TNCs thường ép và tính giá công nghệ cao hơn giá thị trường. Hiện tượng này
biểu hiện rất rõ trong các dự án liên doanh. Trong nhiều trường hợp, giá cả
công nghệ “phần cứng” bình thường nhưng “phần mềm” lại quá cao. Cách tính
này làm tăng phần giá trị vốn góp của bên nước ngoài hoặc giảm phần lợi
nhuận chịu thuế của họ.
1.1.4. Một số vấn đề cần chú ý khi tiếp nhận công nghệ qua các dự án
FDI.
1.1.4.1. Các chuẩn bị cần thiết cho quá trình tiếp nhận công nghệ

qua các dự án FDI.
Ngay từ khi hình thành dự án FDI, các nhà đầu tư đã phải xác định các
giải pháp về kỹ thuật công nghệ để thực hiện dự án. Sau đây là các công việc cơ
bản trong khâu chuẩn bị tiếp nhận công nghệ.
- Chuẩn bị cơ sở hạ tầng để tiếp nhận công nghệ mới
- Tìm kiếm các nguồn công nghệ có khả năng đáp ứng và các Bên đối
tác có tiềm năng.
- Nghiên cứu đặc điểm của từng nguồn công nghệ và đối tác tương ứng.
- So sánh các công nghệ khác nhau và lựa chọn “Công nghệ phù hợp
nhất” đáp ứng tốt nhất yêu cầu của dự án.
- Lựa chọn đối tác cung cấp công nghệ đó.
- Hoạch định chiến lược đàm phán với đối tác
1.4.2. Đàm phán với đối tác và ký kết hợp đồng chuyển giao công
nghệ.
Trong các dự án FDI, việc chuyển giao công nghệ nước ngoài thường
xảy ra 1 trong 2 tình huống: Một là, Bên giao công nghệ đồng thời là đối tác
tham gia liên doanh. Hai là, Bên giao công nghệ là Bên thứ ba không nằm trong
liên doanh. Các kịch bản có thể diễn ra như sau:
Thứ nhất, nếu Bên cung cấp công nghệ đồng thời là đối tác tham gia liên
doanh thì việc chuyển giao công nghệ là một bộ phận không thể tách rời của dự
án liên doanh. Giá trị công nghệ được tính như một bộ phận góp vốn và lợi
nhuận được chia theo tỷ lệ này. Vì vậy, Bên nước ngoài thường kê cao giá của
công nghệ, thiết bị mang vào góp vốn, đưa đến sự thiệt hại không chỉ trước mắt
mà còn lâu dài đối với Bên tiếp nhận công nghệ. Thực tế đó, đòi hỏi Bên tiếp
nhận công nghệ phải hết sức thận trọng, cần cân nhắc kỹ những điều khoản về
chuyển giao công nghệ. Đặc biệt, cần phải cụ thể hoá mức độ tiên tiến của công
nghệ và tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị. Trong hợp đồng, tránh những
cụm từ chung chung, dễ bị Bên nước ngoài lợi dụng dẫn đến những sai lầm
nghiêm trọng, muốn sửa cũng gặp nhiều khó khăn.
Kinh nghiệm cho thấy nếu đối tác tham gia liên doanh đồng thời là Bên

giao công nghệ thì khi đàm phán để ký hợp đồng liên doanh, cần đàm phán và
thoả thuận luôn những điều khoản về chuyển giao công nghệ. Trong thực tế, có
nhiều liên doanh sau khi được cấp giấy phép đầu tư mới tiến hành đàm phán về
chuyển giao công nghệ. Cách làm này gây không ít rắc rối cho các cơ quan có
thẩm quyền, mà còn nảy sinh những bất đồng giữa các Bên đối tác, ảnh hưởng
đến hoạt động chung của liên doanh sau này.
Thứ hai, nếu quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện từ đối tác
thứ ba (không nằm trong liên doanh), thì trong quá trình đàm phán nhất thiết
phải có các chuyên gia về kỹ thuật chuyên ngành và giá cả tham gia. Để phục
vụ cho đàm phán được tốt, cần phải có chuẩn bị kỹ càng trước khi ngồi vào
đàm phán. Một vấn đề có tính nguyên tắc là không bao giờ ngồi vào đàm phán,
khi ngay cả các chuyên gia chuyên ngành cũng chưa có đủ thông tin và những
hiểu biết kỹ càng về công nghệ và thiết bị chuyển giao. Cần chú ý cụ thể hoá và
giám sát tiến độ, địa điểm chuyển giao công nghệ vì thực tế đã có trường hợp
Bên nước ngoài nhận công nghệ mới đưa về công ty họ ở nước ngoài và chuyển
thiết bị cũ từ công ty của họ góp vào liên doanh ở Việt Nam.
Sau khi đàm phán với đối tác xong thì 1 Bên phải soạn thảo hợp đồng
chuyển giao công nghệ, coi như một bộ phận của hồ sơ dự án. Hợp đồng
chuyển giao phải được soạn thảo đúng luật để tránh những phiền toái về sau.
Hợp đồng phải được cả hai bên ký theo đúng thông lệ quốc tế. Các nội dung
cần được đàm phán là: Mục tiêu của chuyển giao công nghệ, phạm vị sử dụng
công nghệ và bán sản phẩm, các nhiệm vụ của Bên giao và Bên nhận, các vấn
đề được chuyển giao hỗ trợ kỹ thuật ban đầu, tiến độ chuyển giao, phí chuyển
giao và cách tính, điều kiện bảo đảm, bảo hành, phương thức kiểm tra, chia sẻ
rủi ro.
1.4.3. Phê duyệt và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Các hợp đồng chuyển giao công nghệ dưới dạng góp vốn bằng chuyển
giao được các Bên ký kết trong quá trình chuẩn bị đầu tư liên doanh, do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư thẩm định, phê duyệt (sau khi có ý kiến của Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường) đồng thời với việc thẩm định và cấp giấy phép đầu

tư. Như vậy, đối với các dự án có vốn FDI, khi thành lập doanh nghiệp, việc
chuẩn y Hợp đồng chuyển giao công nghệ do:
- Hoặc là Bộ Kế hoạch và Đầu tư trực tiếp phê duyệt sau khi có ý kiến
chính thức bằng văn bản của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.
- Hoặc là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trực tiếp phê duyệt.
Trong đầu tư quốc tế, Hợp đồng chuyển giao công nghệ là một bộ phận
của hồ sơ dự án, nên quá trình thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ được
thực hiện đồng thời với quá trình triển khai dự án FDI. Trong giai đoạn này, các
thoả thuận đã được chính thức hoá bằng hợp đồng chuyển giao công nghệ, vì
thế, nhiệm vụ của Bên tiếp nhận là phải kiểm tra, đánh giá thật kỹ các thiết bị
và dây chuyền công nghệ đưa vào thực hiện dự án. Điều cần lưu ý, việc thực
hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ không chỉ diễn ra và kết thúc trong quá
trình triển khai thực hiện dự án mà nó vẫn còn tiếp tục trong giai đoạn vận hành
kết quả đầu tư. Trong giai đoạn này, Bên tiếp nhận cần phải đánh giá được kết
quả và hiệu quả của chuyển giao công nghệ. Đó là việc đánh giá sự phát triển
năng lực công nghệ của Bên nhận đã đạt được ở mức độ nào? Đánh giá việc
đáp ứng các mục tiêu đặt ra ban đầu cho chuyển giao công nghệ và hiệu quả
của việc chuyển giao công nghệ ấy.
1.1.5. Kinh nghiệm du nhập và tiếp thu công nghệ qua các dự án FDI của
Hàn Quốc
(Chỉ phân tích trong giai đoạn đầu những năm 60 đến cuối những năm 80
vì giai đoạn này đã đủ cho thấy các kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình
công nghiệp hoá. Do đó ở đây không đề cập tình hình sau thời gian nói trên).
Mặc dù Đầu tư trực tiếp nước ngoài bị chính phủ Hàn Quốc kiểm soát
ngặt nghèo và chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư (2% thời kỳ 1976-1987)
nhưng nó đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ
vào nước này.
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát triển từ thập kỷ 60, khi các nước đang
phát triển nói chung rất cảnh giác đối với các công ty đa quốc gia. Là nước có ý
thức dân tộc rất mạnh mẽ, Hàn Quốc cũng có khuynh hướng cảnh giác với sự

chi phối của nước ngoài. Năm 1962 là năm Hàn Quốc bắt đầu thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất, và cũng là năm họ bắt đầu đưa công nghệ nước ngoài
vào nước mình. Nhưng từ đó cho đến khoảng năm 1980, họ đã thi hành chính
sách du nhập công nghệ mà đặc điểm là tránh sự chi phối của các xí nghiệp
nước ngoài. Chính sách đó có hai nội dung chính. Một là, cố gắng hết sức để
đưa kỹ thuật công nghệ vào Hàn Quốc bằng hình thức ký các hợp đồng nhập
khẩu công nghệ, bằng sáng chế kỹ thuật, tránh đầu tư trực tiếp. Hai là, trong
trường hợp phải du nhập công nghệ bằng hình thức đầu tư trực tiếp, họ hạn chế
tỷ lệ góp vốn của xí nghiệp nước ngoài dưới mức 49%.
Vào thời kỳ cuối những năm 1970, nền kinh tế Hàn Quốc phải cạnh tranh
với các nước đang phát triển châu Á khác về các hàng công nghiệp cần nhiều
lao động. Ngoài ra, yêu cầu phát triển kinh tế của Hàn Quốc cũng đòi hỏi phải
phát triển khoa học kỹ thuật. Quá trình phát triển này cần nhiều đến kỹ thuật và
đầu tư của nước ngoài hơn là các món nợ. Các công ty xuyên quốc gia có thể
cung cấp kỹ thuật, ngoại tệ và các kinh nghiệm về tổ chức, quản lý và hơn thế
nữa là sự tiếp cận với thị trường quốc tế. Để thực hiện được mục đích này,
Chính phủ Hàn Quốc đã thông qua một chính sách thúc đẩy đầu tư trực tiếp đã
được FCIA (Đạo luật khuyến khích đầu tư của nước ngoài) tăng cường vào
năm 1981. Các điều khoản nói chung đã loại bỏ hầu hết những hạn chế khắc
nghiệt đối với đầu tư nước ngoài:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép tham gia vào khoảng một nửa
trong số các ngành công nghiệp quốc gia. Khu vực chế biến (chế tạo) chiếm
khoảng 75% các ngành công nghiệp được phép đầu tư.
- Các ngành khác được nhà nước coi là “ưu tiên” khuyến khích đầu tư thì tài
sản của người nước ngoài được phép lên đến 100%, các ngành khác sẽ là 50%.
- Những công ty nước ngoài tuân thủ FCIA, sẽ được đảm bảo chuyển toàn
bộ vốn gốc và lợi nhuận về nước.
Những hướng dẫn về đầu tư này phản ánh tiêu chuẩn lợi ích của quốc
gia: đầu tư chỉ được chấp nhận nếu như nó củng cố lợi ích của Hàn Quốc trong
lĩnh vực thu ngoại hối hay chuyển giao kỹ thuật.

Như vậy là cho đến thập kỷ 70, Hàn Quốc còn rất cảnh giác đối với sự
chi phối của công ty nước ngoài, nhưng kết quả thực tế mà họ thu được qua đầu
tư trực tiếp không phải là nhỏ, mà ngược lại trong giai đoạn đầu phát triển kinh
tế còn khó khăn trong tích luỹ vốn kinh doanh, đầu tư trực tiếp còn nhiều hơn
các hợp đồng nhập khẩu bằng sáng chế kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
khởi đầu việc sản xuất trên nhiều dây chuyền làm hàng xuất khẩu phát triển
nhanh chóng. Nghiên cứu cho thấy các công ty trong nước luôn lấy các công ty
xuyên quốc gia làm hình mẫu cho mình. Một số công ty nước ngoài lãnh trách
nhiệm đào tạo chuyên sâu cho kỹ sư và nhà quản lý, cũng như chuyển giao kỹ
năng và bí quyết. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc quan trọng nhất trong việc
mở ra thị trường xuất khẩu cho Hàn Quốc và các nước con hổ châu Á khác.
Cũng có bằng chứng cho thấy rằng các kỹ sư trong nước được đào tạo bởi các
nhà đầu tư nước ngoài đã được công ty mẹ lập công ty riêng cho họ (thường là
công ty con này cung cấp các bộ phận hoặc một số dạng dịch vụ kỹ thuật), do
đó tạo ra mối liên hệ ngược chiều cần thiết.
Đưa công nghệ nước ngoài vào nhưng không có khả năng tiếp thu nó một
cách có hiệu quả thì cũng không có tác dụng trong việc phát triển kinh tế. Cũng
không ngoa nếu nói rằng Hàn Quốc thành công được trong việc phát triển kinh
tế là vì họ đã thu hút được công nghệ của nước ngoài, đồng thời đã không
ngừng nâng cao được khả năng tiếp thu (absorptive capacity) công nghệ, hoàn
chỉnh môi trường để cho công nghệ đó phát huy có hiệu quả. Điều này phản
ánh qua nỗ lực nghiên cứu và triển khai (R&D) chính phủ và những cố gắng
nghiên cứu và triển khai của các xí nghiệp.
Hoạt động nghiên cứu và triển khai của Hàn Quốc có những đặc diểm
như sau:
a) Từ thập kỷ 70 đến 80, chi cho hoạt động nghiên cứu và triển khai tăng
vọt. Năm 1970, mức chi tiêu là 10.5 tỉ Won nhưng đến năm 1975 là 42,7 tỉ
Won, năm 1980 là 211,7 tỉ Won. Tỷ lệ chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai
chiếm trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) nửa đầu thập kỷ 70 chỉ có 0.3%,
nhưng nửa cuối thập kỷ này tăng lên 0.6%, nửa đầu thập kỷ 80 tăng lên 1% và

nửa cuối thập kỷ 80 đạt 2% (năm 1987 đạt 1,9%). Đây là do từ cuối thập kỷ 70,
Hàn Quốc chủ trương thay đổi cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng phát
triển những lĩnh vực tập trung nhiều công nghệ mà trọng tâm là công nghiệp
chế tạo máy. Đi đôi với tự do nhập khẩu công nghệ như đã thấy ở trên, họ đã
tăng cường thể chế tiếp thu công nghệ và phát triển công nghệ mới ở ngay
trong nước.
b) Cho đến thập kỷ 70 chính phủ còn giữ vai trò chủ đạo, nhưng bước
sang thập kỷ 80, xí nghiệp tư nhân có vai trò lớn hơn trong hoạt động nghiên
cứu và triển khai. Đặc biệt từ năm 1983, vai trò của tư nhân tăng lên rõ rệt.
Trong tổng kim ngạch chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai năm 1965, phần
chính phủ chiếm 90% nhưng tỷ lệ này dần giảm đi. Năm 1980 xuống còn 50%,
năm 1985 chỉ còn khoảng 20%.
Nội dung của hoạt động nghiên cứu và triển khai của chính phủ là
gì? Từ cuối thập kỷ 70, chính phủ đã thiết lập một loạt các cơ quan nhằm hoàn
thiện cơ sở cho việc du nhập, khai thác và phổ biến công nghệ. Viện khoa học
kỹ thuật, Trung tâm thông tin khoa học – kỹ thuật, Cơ quan phát triển công
nghệ quốc gia... đã ra đời trong thời kỳ này. Vào nửa cuối thập kỷ 70, nhiều
viện nghiên cứu nhà nước đã được thành lập như Viện nghiên cứu về quy cách,
Viện nghiên cứu khoa học – công nghệ cao cấp, Viện nghiên cứu về các ngành
công nghiệp điện tử, hoá chất... Sau thập kỷ 80, khi nhiệm vụ chủ yếu trong
hoạt động nghiên cứu và triển khai được chuyển cho các xí nghiệp tư nhân thì
vai trò của chính phủ chủ yếu là tổ chức và điều hành các công trình tầm cỡ
quốc gia (international project) nhằm thúc đẩy phát triển các công nghệ mũi
nhọn, chú trọng áp dụng chế độ thuế ưu đãi đối với hoạt động nghiên cứu và
triển khai của tư nhân.
Để tiếp thu có hiệu quả công nghệ nước ngoài, chính phủ Hàn Quốc
không chỉ dựa vào hoạt động nghiên cứu và triển khai mà còn tập trung nâng
cao trình độ giáo dục cho toàn dân. Tỷ trọng dành cho giáo dục chiếm trong
ngân sách của chính phủ cuối thập kỷ 50 là 9-10%, nửa đầu thập kỷ 60 là 15-
16%, nửa cuối thập kỷ 60 là 17-18%, đầu thập kỷ 80 đạt mức 19-21%. Kết quả

là giáo dục được phổ biến nhanh chóng ở Hàn Quốc. Tỷ lệ thanh thiếu niên học
các trường cao đẳng (cấp III) năm 1965 mới có 34% thì đến năm 1975 tăng lên
56% và đến năm 1984 tăng vọt lên 91%. Tỷ lệ thanh niên học tại các trường đại
học cùng thời gian này là 6%, 10% và 26% và như vậy, họ đã nhanh chóng tiến
sát trình độ Nhật Bản là 29%. Do đó, chất lượng lao động của Hàn Quốc được
nâng cao với tốc độ nhanh và đương nhiên họ đã thành công trong việc nâng
cao khả năng tiếp thu và phát triển công nghệ.
Tiếp theo đây chúng ta hãy nghiên cứu khả năng tiếp thu công nghệ trong
từng xí nghiệp và chiến lược đuổi bắt công nghệ của Hàn Quốc. Để đẩy nhanh
sự phát triển kinh tế, các xí nghiệp Hàn Quốc hết sức tranh thủ thu hút vốn và
công nghệ của nước ngoài, và ngay từ đầu từng xí nghiệp đã cố gắng để một
ngày nào đó tự mình có thể đứng vững được. Trong trường hợp nhận đầu tư
trực tiếp, tuy là liên doanh với các xí nghiệp nước ngoài, nhưng ngay từ đầu, họ
đã có ý thức cao trong việc tham gia tích cực vào việc kinh doanh của xí nghiệp
liên doanh, họ quán triệt phương châm chỉ dựa vào nước ngoài phần việc mà
mình chưa thể làm nổi. Có thể nêu ra ví dụ sau đây:
Ví dụ về ngành tơ sợi tổng hợp đưa công nghệ vào thông qua kênh đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Tuy có một số xí nghiệp của ngành này đã du nhập công
nghệ thông qua hợp đồng nhập khẩu bằng sáng chế kỹ thuật nhưng đối với Hàn
Quốc, ngành tơ sợi là một ngành mà vai trò của đầu tư trực tiếp tương đối quan
trọng. Điều đáng chú ý là hầu hết các xí nghiệp sợi tổng hợp cuả Hàn Quốc đều
liên doanh với xí nghiệp Nhật, nhưng xí nghiệp nào của Hàn Quốc cũng tìm
cách cố gắng để đuổi kịp Nhật Bản. Một đặc điểm đáng nói là trong trong một
thời gian ngắn họ đã cố gắng tự mình nghiên cứu và đưa vào ứng dụng những
công nghệ nâng cao được năng suất lao động, tiết kiệm được năng lượng và
nguyên liệu. Từ khi thành lập xí nghiệp liên doanh, họ đã muốn xác lập quyền
chủ đạo về kinh doanh, đồng thời hạn chế ở mức tối thiểu số cán bộ kỹ thuật và
quản lý người nước ngoài. Và họ từng bước cố gắng đẻ người Hàn Quốc thay
thế vào vị trí của người nước ngoài. Chúng ta hãy xem trường hợp của Kolon –
một xí nghiệp liên doanh quan trọng trong ngành tơ sợi tổng hợp của Hàn

Quốc. Cán bộ kỹ thuật người nước ngoài của Kolon dần dần giảm đi và cuối
cùng toàn bộ cán bộ kỹ thuật người Hàn Quốc đã điều hành được nhà máy. Đến
năm 1985, khi mở rộng nhà máy, cán bộ kỹ thuật của Kolon đã tự mình làm
toàn bộ công việc kể cả việc thiết kế cơ bản. Bảng 1.2 đã chứng minh điều đó.
Năm 1963, khi xây dựng dây chuyền sản xuất số 1 của nhà máy Taegu, Kolon
đã hoàn toàn nhờ cán bộ kỹ thuật nước ngoài thiết kế cơ bản và thiết kế chi tiết.
Thêm vào đó, công việc xây dựng nhà máy cũng như vận hành thử phải nhờ
khá nhiều cán bộ kỹ thuật nước ngoài. Nhưng đến lần mở rộng nhà máy sau đó,
mức độ tham gia của người Hàn Quốc tăng lên. Khi xây dựng dây chuyền sản
xuất số 3 của nhà máy Gumi thì các công việc từ thiết kế đến cải tạo nhà máy
đều do người Hàn Quốc đảm nhiệm. (Xem hình 1.2).
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, để từng bước mở rộng chất và
lượng các công nghệ có thể hấp thụ được, phải không ngừng nâng cao khả năng
tiếp thu công nghệ. Khả năng tiếp thu công nghệ được hình thành nhờ những cố
gắng về giáo dục và đào tạo và các hoạt động nghiên cứu và triển khai ngay ở
trong nước. Bên cạnh đó cán bộ trong các liên doanh cần phải có ý thức tự chủ,
không ngừng tranh thủ học hỏi công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước
ngoài để một ngày nào đó tự mình có thể đứng vững được.

(Tỷ lệ người Hàn Quốc trong từng giai đoạn, %)
Chỉ tiêu Dây chuyền Dây chuyền Dây chuyền Dây chuyền
SX số 1 (Nhà SX số 1, 2 (Nhà SX số 3 (Nhà SX số 3 (Nhà
máy Taegu) máy Gumi) máy Taegu) máy Gumi)
Năm thiết kế 1963 1969-1970 1973 1985
Khả năng sản xuất 2.5 30 5.4 30
(tấn/ngày)
Thiết kế cơ bản 0(2) 50(4) 50 100
Thiết kế chi tiết 0(5) 67 67 100
Thi công nhà máy 43(12) 75 75 100
Chạy thử 58(26) 83 83 100

Bắt đầu sản xuất 58(26) 83 83 100
Công việc tu sửa 88(17) 88 88 100
Số trong ngoặc là toàn bộ số người trong các công đoạn (kể cả người Hàn Quốc
và người nước ngoài).
Nguồn: Trần Văn Thọ (1992, chương 4, dựa theo tư liệu trong Enos and Park
(1988).
Bảng 1.3
Nỗ lực tự chủ hoá công nghệ sản xuất nilon của Hàn Quốc:
trường hợp công ty Kolon
1.2. Lí THUYT LA CHN CễNG NGH.
1.2.1. S cn thit phi la chn cụng ngh.
Chuyn giao cụng ngh úng mt vai trũ vụ cựng quan trng i vi cỏc
nc, c bit l cỏc nc ang phỏt trin ang cú nhu cu tip nhn cụng ngh
thc hin cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc. Nhng vn t ra l
khụng phi c tip nhn cụng ngh l c m cũn phi la chn cụng ngh
nh th no. õy l vn m ton th gii hin nay ang bn ti mt cỏch sụi
ng. Cú nhiu ý kin cho rng cỏc nc ang phỏt trin v chm phỏt trin nờn
s dng cụng ngh tiờn tin v hin i da vo trỡnh sn cú ca cỏc nc
phỏt trin m thc hin vic cụng nghip hoỏ t nc. Tuy nhiờn trong mt
thi gian thc t s dng v hot ng nhiu ngi bt u nhn ra rng cụng
ngh hin i t nú khụng gii quyt c vn kộm phỏt trin ca cỏc quc
gia. Mt s cụng ngh hin i ó t ra khụng cú hiu qu v khụng thớch hp,
từ đó có nhiều xu hướng muốn tìm ra các giải pháp trung gian giữa công nghệ
mới và cũ, hiện đại và thô sơ. Từ đó xuất hiện các thuật ngữ như: “Công nghệ
phù hợp”, “Công nghệ trung gian”...
Mọi người mong muốn rằng chúng là những giải pháp chung cho mọi
nhu cầu công nghệ. Sự phù hợp với quá trình phát triển, trình độ kinh tế – xã
hội, năng lực công nghệ, trình độ khoa học kỹ thuật của từng nước. Ta biết rằng
công nghệ: máy móc, thiết bị là sản phẩm, là kết quả của tri thức khoa học.
Nhập công nghệ không chỉ đơn thuần là nhập máy móc một cách thụ

động nhằm tiêu dùng sản phẩm của người khác mà không có khả năng sáng tạo.
Do vậy tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể thực tế mà tự lựa chọn những
công nghệ phù hợp sao cho có hiệu quả sử dụng một cách tốt nhất để có một cơ
sở khoa học cho việc lựa chọn công nghệ phù hợp. Chúng ta có thể xem xét
một số lý thuyết lựa chọn công nghệ.
1.2.2. Mô hình lý thuyết lựa chọn công nghệ
1.2.2.1. Mô hình 1: Công nghệ sử dụng nhiều lao động – ít vốn.
Xét hàm sản xuất Y = f(K,L,R,R1)
Từ hàm sản xuất ta thấy: với mọi sự kết hợp của các biến số sẽ cho ta các
kết quả khác nhau Y. Với mô hình này ta giả định rằng các yếu tố khác không
đổi mà chỉ hai yếu tố (biến số) V và L thay đổi vì nó chiếm tỉ lệ lớn trong giá
thành của sản phẩm.
Y là đường sản phẩm
T
1
:T
2
là hai công nghệ
OK biểu thị vốn, OL biểu thị lao động
ad và cb là giới hạn chi phí của hai công nghệ T
1
và T
2
(v
1
:
l
1
) tạo sản
phẩm O

1
, (v
1
:
l
2
) tạo sản phẩm O
2
Hình 1.3. Công nghệ sử dụng nhiều lao động - ít vốn

V: Vốn lao động
L: Lao động
R: Lãi suất
R1: Giá đất
Nguồn: Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế thị trường phát
triển, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1994.
Giả định: chất lượng lao động là thuần nhất và không có sự tác động của
các yếu tố phi kinh tế qua sơ đồ, đồ thị hàm giới hạn khả năng sản xuất ta thấy
với mỗi sự kết hợp

(v
1
:
l
1
) (v
2
:
l
2

) chỉ tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất
định:Y
1. Sự kết hợp giữa (v
1
:
l
1
) sử dụng công nghệ nhiều vốn ít lao động điều
này đòi hỏi cho việc chi phí công nghệ là rất lớn bởi vì công nghệ này cho
phép sử dụng ít lao động nhưng vẫn tạo ra được một khối lượng sản phẩm
nhất định.
2. Sự kết hợp giữa (v
2
:
l
2
) là sử dụng công nghệ nhiều lao động ít vốn,
điều này làm cho chi phí ban đầu cần ít vốn. Tránh được sự mạo hiểm đối
với các quốc gia nghèo.
3. Ta thấy rằng đường chi phí của 2 công nghệ T
1
và T
2
tương ứng với
hai đường ad và cb, độ dốc của ad > độ dốc của cb khi đường chi phí càng
sát với trục tung (tức là hình chữ L) thì chi phí càng lớn, T
1
> T
2
.

K
O
2
a
c
v
1
v
2
O
l
1
l
2
d b L
T
1
T
2
Y
2
O
1
Y
1
Trong phần lớn các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng thông thường lao động thì dư thừa mà vốn thì khan hiếm. Nhiều nước
ngoài điều kiện tự nhiên thì lao động cũng được coi là vốn (tài nguyên) của đất
nước. Chẳng hạn như ở Việt Nam, vấn đề tạo công ăn việc làm cho người lao
động là yêu cầu bức thiết. Trong khi trình độ khoa học chưa cao, trình độ tay

nghề còn thấp kém do đó đối với những nước này, việc sử dụng công nghệ T
2
trong giai đoạn đầu đối với các nước đang phát triển là phù hợp bởi vì bước đầu
nó giải quyết được một khối lượng lao động lớn.
Từ mô hình này chúng ta có thể rút ra một số điểm cần chú ý sau:
Một là, phần lớn các sản phẩm hàng hoá không đảm bảo tính kỹ thuật và
cạnh tranh trên thị trường như T
2
tạo ra cho nên việc chọn công nghệ từ thực tế
không phải là điều đơn giản.
Hai là, kỹ thuật dùng nhiều lao động chưa chú trọng vào việc sử dụng các
điều kiện sẵn có của các quốc gia phát triển mà chưa quan tâm đến đầu ra (sản
phẩm do T
2
tạo ra), do vậy tiết kiệm vốn, sử dụng nhiều lao động thì hiệu quả
lại bị giảm mạnh.
Ba là, nguồn lao động dồi dào và giá rẻ nhưng đặc trưng của mặt hàng
lao động này là trình độ kỹ thuật của người lao động chưa cao chỉ phù hợp với
các công việc thô, đòi hỏi sức lực cơ bắp do đó sản lượng thấp, sản phẩm có
hàm lượng chất lượng không cao dễ làm mất tính cạnh tranh của sản phẩm.
Bốn là, chính yếu tố cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới mà
công nghệ sử dụng nhiều lao động ít vốn là không phù hợp. Tuy nhiên ở đây
không có nghĩa là không phù hợp thì không nhập. Vấn đề đặt ra là đối với hàng
hoá trên thương trường quốc tế việc sử dụng công nghệ dùng nhiều lao động ít
vốn là không phù hợp. Còn sử dụng các sản phẩm này trong tiêu dùng nội địa
thì một phần nào đáp ứng được nhu cầu ban đầu. Tận dụng được một khối
lượng lao động lớn dư thừa và tận dụng được các nguyên vật liệu sẵn có. Ví dụ
như các ngày may mặc, dệt, giày da.
Năm là, các nước sử dụng loại công nghệ T
2

này bước đầu thành công
trong việc giải quyết công an việc làm cho một khối lượng lao động lớn nhưng
về mặt hiệu quả kinh tế lâu dài thì chưa đạt được. Tuy nhiên việc tạo ra một sản
phẩm có tính cạnh tranh tốt còn cần nhiều yếu tố khác nhau chứ không chỉ đơn
thuần là công nghệ.
1.2.2.2. Mô hình 2: Công nghệ cần nhiều vốn sử dụng nhiều lao động.
Ta vẫn sử dụng hàm sản xuất Y = f(K,L,R,R
1
)
Hình I.4. Công nghệ sử dụng nhiều vốn nhiều lao động
OK: biểu thị về vốn
OL: biểu thị về lao động
V : Vốn
L : Lao động
R: lãi suất
R
1:
Giá đất

Nguồn: Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế thị trường phát triển,
NXB Khoa học Xã hội, 1994.
Sản lượng đầu ra Y phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau nhưng liên
quan trực tiếp và chủ yếu tới giá thành của sản phẩm lại chính là 2 nhân tố vốn
và lao động, đây là 2 nhân tố tác động tác động mạnh hơn so với các yếu tố còn
lại.
Do vậy giả định rằng chỉ có 2 nhân tố V và L biến động còn các nhân tố
khác coi như không đổi và coi như không có sự tác động của các nhân tố phi
kinh tế khác.
K
a

b
c
v
1
v
2
l
1
l
2
l
3
O
O
1
O
2
T
1
T
2
T
3
Y
2
Y
3
L
d
O

3
Y
1
l
1
l
1
Tại đường Y
2
với mỗi sự kết hợp các yếu tố V và L khác nhau đều cho ta
mức sản lượng như nhau: v
1
kết hợp l
1
cho O
1
, v
2
kết hợp l
2
cho O
2
. Công nghệ
T
1
cho ta sử dụng nhiều lao động ít vốn, công nghệ T
2
cho phép ta sử dụng
nhiều vốn và ít lao động. Kết hợp T
1

, T
2
ta thấy:
T
2
tận dụng được lợi thế của các quốc gia đang phát triển đó là sử dụng
nhiều lao động và tiết kiệm vốn.
T
1
tận dụng được lợi thế của các quốc gia thừa vốn nhưng khan hiếm lao
động.
Thế nhưng với cùng lượng vốn v
1
thì công nghệ T
3
lại sử dụng được
nhiều lao động hơn cả và sản xuất được những sản phẩm có tính cạnh tranh và
hàm lượng kỹ thuật lớn.
Ta thấy rằng đường sản lượng Y càng dịch chuyển sang phải lên trên bao
nhiêu thì sản lượng càng tăng bấy nhiêu.
T
3
với cùng một lượng chi phí về vốn v
1
nhưng lại sử dụng lượng lao
động lớn gấp nhiều công nghệ T
1
.
Trong 3 công nghệ T
1

, T
2
, T
3
đối với các nước đang phát triển bước đầu
công nghệ T
2
đã giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động và tiết
kiệm được vốn thế nhưng chỉ sản xuất các sản phẩm tiêu thụ trong thị trường
nội địa. T
1
là công nghệ tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao nhưng với
điều kiện có nhiều vốn và đòi hỏi người lao động phải có trình độ tay nghề cao,
trong khi các nước đang phát triển bước đầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đât nước thì trình độ tay nghề của người lao động không thể đáp ứng được yêu
cầu trên.
Ta thấy công nghệ T
3
cho mức sản lượng cao và sản phẩm đủ tính cạnh
tranh và kỹ thuật, đồng thời cũng sử dụng được nhiều lao động so với 2 công
nghệ T
1
và T
2
trong khi vốn chỉ cần ở mức v
1
.
Từ việc phân tích mô hình này ta có thể chú ý tới một số vấn đề sau:
- Công nghệ T
3

cần và đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn song song
với độ lớn của vốn thì lao động cũng gia tăng.
l
1
l
1
- Sản phẩm của công nghệ T
3
tạo ra có tính cạnh tranh cao trên thị
trường do đó công nghệ loại này phù hợp với các ngành sản xuất sản
phẩm xuất khẩu
Để sử dụng được công nghệ T
3
đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ kỹ thuật
tốt, công nhân tay nghề cao và chuyên sâu.
1. 2.2.3. Mô hình 3: Công nghệ phục vụ mục đích trước mắt hay lợi ích
lâu dài.
Hình I.5. Công nghệ phục vụ mục đích trước mắt hay lợi ích lâu dài
OQ: là trục sản lượng
OT: là trục thời gian
Nguồn: Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế thị trường
phát triển, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1994
Tại thời điểm O hai công nghệ T
1
, T
2
có điểm xuất phát khác nhau
T
1
có mức sản lượng là A

T
2
có mức sản lượng là B
Sản lượng B > sản lượng A
Công nghệ T
2
sử dụng nhiều lao động và tiết kiệm vốn hơn so với công
nghệ T
1
. Với công nghệ T
2
đã tận dụng được lao động dư thừa của các nước
Q
O
A
B
Q
1
Q
2
Q
3
C D
A’
T
1
- Công nghệ cao
T
2
- Công nghệ thấp

T
đang phát triển và lao động ở đây chỉ cần về số lượng tức là lao động không đòi
hỏi phải có tay nghề cao. Mức sản lượng của công nghệ T
2
là do số lượng đông
đảo của lao động phổ thông làm ra, nó mang tính chất là chiều rộng chứ không
đi vào chiều sâu tức là không chuyên môn hoá sâu vào ngành nghề. Đối với
công nghệ T
1
trước mắt không sử dụng nhiều lao động nhưng đòi hỏi phải sử
dụng một khối lượng đầu tư vốn ban đầu lứon và yêu cầu đối với người lao
động phải có trình độ về khoa học kỹ thuật tay nghề cao, điều muốn nói ở đây
là muốn sử dụng được công nghệ T
1
thì phải tổ chức đào tạo hướng dẫn sử
dụng chuyên sâu tay nghề, nó không còn phải là công nghệ đòi hỏi lớn về lao
động phổ thông nữa mà nó đòi hỏi người sử dụng phải qua đào tạo nữa. Như
vậy, để đi vào công nghệ T
1
thì vấn đề chi phí cho nó là rất lớn, bởi vì yếu tố
lao động ở đây là không phải sẵn có mà phải qua đào tạo.
Từ mô hình ta thấy trong giai đoạn đầu những năm (O-C) công nghệ T
1
có mức sản lượng thấp hơn mức sản lượng của công nghệ T
2
, nguyên nhân là
do công nghệ T
1
là công nghệ mới đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ lao
động do vậy đây là giai đoạn làm quen và học tập đào tạo sử dụng chuyên sâu

máy móc của công nghệ. Đây cũng là tiêu đề cho sự cất cánh về sản lượng sau
này. Bước vào năm C mức sản lượng của công nghệ T
1
và T
2
bằng nhau. Sau
năm C ta thấy mức sản lượng của công nghệ T
1
tiến nhanh ngày càng vượt xa
so với công nghệ T
2
. Sở dĩ có sự gặp nhau vào năm C là do ban đầu người sử
dụng công nghệ T
1
phải mất một thời gian làm quen và học tập vận hành do đó
ngay ban đầu sản lượng không cao. Còn người sử dụng công nghệ T
2
đặc trưng
là ban đầu công nghệ T
2
thường là công nghệ cũ kỹ lạc hậu với các nước phát
triển nhưng với các nước đang và chậm phát triển thì nó là công nghệ mới.
Ngay từ đầu nhờ sử dụng lực lượng lao động đông đảo lại không phải qua đào
tạo nên sản lượng lớn, song do công nghệ T
2
là công nghệ đã qua sử dụng hoặc
không còn phù hợp với sức cạnh tranh dẫn đến sự suy giảm về sản lượng trong
khi công nghệ T
1
ngày càng phù hợp và sản lượng tăng không ngừng vào những

năm tiếp.
Thông qua việc phân tích mô hình ta thấy xét về lâu dài công nghệ T
1

hiệu quả hơn so với công nghệ T
2
mặc về điểm xuất phát về thời gian là như
nhau. Từ đó có thể nêu ra một số quan điểm về lựa chọn công nghệ ở một số
nước đang phát triển.

×