Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 76 trang )

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
I- Khái niệm và các nguồn hình thành nguồn vốn FDI
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi công dân của một nước ( nước đầu tư ) nắm
giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế ở một nước khác ( nước chủ nhà hay nước
nhận đầu tư ).
2. Các nguồn hình thành vốn FDI
• Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận
biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một
đơn vị của yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng
suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn.
Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn
các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có
năng suất cận biên cao mới được các doanh nghiệp tự sản xuất mà cũng có những hoạt
động quan trọng, là sống còn của doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dư hoạt động
đó cho năng suất cận biên thấp.
• Chu kỳ sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì sống của
các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn
sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng
sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được
xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới
1
làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất
để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước
ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị
trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện(giai đoạn sản phẩm chuẩn


hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn
hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều
nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản
xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho
phép chi phí sản xuất thấp hơn.
• Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A.
A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc
thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở
nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư,
những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị)
cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên.Những công ty đa quốc gia thường có
lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân
công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng...ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc
này!
• Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song
phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có
thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song
phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ
sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm
2
này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu
sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
• Khai thác chuyên giao và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển
hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư
trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật

Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các
công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước
công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy
mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc
gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công
ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp
cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong
sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc National
Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal
(Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
• Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những
nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu
tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay
cũng có mục đích tương tự.
II- Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư
trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh
doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh
3
doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp
nhân mới nào.
Ưu điểm :
+Với nước tiếp nhận: giải quyết được tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghê, tạo thêm
đuợc mối quan hệ trong hợp tác kinh doanh, được nắm quyền điều hàng dự án.
+Với nước đầu tư: chia sẻ đuợc sự rủi ro trong đầu tư, tận dụng đựoc hệ thống phân
phối có sẵn , điều hành, phân bổ của nước tiếp nhận trong quá trình đầu tư. Xâm nhập
vào thị truờng nước sở tại đễ dàng hơn mà không mất thời gian thăm dò, nghiên cứu.
Nhược điểm

+Với nước tiếp nhận: khó thu hút vốn đầu tư,chỉ thực hiện được ở một số lĩnh vực sinh
lời.
+Với nước đầu tư: không được trực tiếp điều hành dự án.
2. Công ty liên doanh – Xí nghiệp liên doanh
Xí nghiệp hay công ty liên doanh được thành lập giữa một bên là một thành viên
của nước nhận đầu tư và một bên là các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. Một xí nghiệp
liên doanh có thể gồm hai hoặc nhiều bên tham gia liên doanh.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư: trước hết giải quyết đưoc tình trạng thiếu vốn, đổi mới
công nghệ,nâng cao được trình độ của của người lao động , học hỏi được cách thức
quản lý làm việc chuyên nghiệp.
+Với nước đầu tư: chia sẻ được rủi ro,tận dụng được hệ thông phân phối có sẵn,thâm
nhập được vào thị trường truyền thông và không mất thời gian chi phí cho viêc nghiên
cứu thị trường tại nước sở tại.
Nhựơc điểm
Cả hai bên đều gặp phải những rắc rối khó khăn trong quản lý như mất nhiều thời gian
để thương thảo,bàn luận,khác biệt về văn hoá nhìn nhận trong đầu tư nên dễ xuất hiện
4
mâu thuẫn trong quản lý.
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thay đổi nhân sự ở công ty mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát
triển của liên doanh, đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu vì vậy liên
doanh nhiều khi phai chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.
+Với nhà đầu tư:không chủ động được trong việc điều hành,dễ bị mất cơ hội kinh
doanh.
3. Công ty hay xí nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đây là hình thức các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ
chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được lợi nhuận từ doanh nghiệp(tiền thuê đất,thuế) tiếp

cận đựơc thị trường nước ngoài.
+Với nhà đầu tư nước ngoài:tận dụng được tài nguyên của nước sở tại, chủ động trong
việc quản lý, điều hành.
Nhược điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp thu đựơc kinh nghiệm quản lý,công nghệ để nâng
cao được trình độ của cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp trong nước.Bị
chia sẻ thị truờng của nước mình,bị tận dụng nguồn tài nguyên.
+Với nhà đầu tư nước ngoài:phải chịu hoàn toàn mọi rủi ro trong quá trình đầu tư,mất
nhiều thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị truơng,khó xâm nhập vào nhiều lĩnh
vực thị trưòng trong nước lớn.
4. Các hình thức khác:
Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực hiện những hợp đồng xây
dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T). Những dự án B.O.T thường được chính phủ các
nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ
5
tầng kinh tế.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được vốn đầu tư vào nhưng dự án hạ tầng đòi vốn đầu
tư lớn,giảm sức ép cho ngân sách nhà nước,nâng cao được các công trình hạ tầng trong
nước.
+Với nhà đầu tu nước ngoài:hiệu quả sử dụng vốn được đảm bảo,chủ động quản lý,
điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận.
Nhược điểm:
+Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp cận khả năng quản lý và ra soát công trình.Nhà
nước cung chịu rủi ro ngoài kiểm soat của nhà đầu tư.
+Với nhà đầu tư nước ngoài: mất nhiều thời gian trong việc đàm phán ,thực hiện hợp
đồng.
III- Mối quan hệ giữa công ty đa quốc gia và sự phát triển của
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các công ty đa quốc gia là các công ty mà lĩnh vực hoạt động của nó vượt ra khỏi

khuôn khổ một quốc gia nào đó để mở rộng hoạt động ở các quốc gia khác trên thế giới.
Hầu hết các công ty đa quốc gia đều hướng đến việc phát triển kinh doanh trên thị
trường thế giới. Khi nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ của một quốc gia trở nên
hạn chế, việc sản xuất kinh doanh ở những nước khác hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận
ròng hơn là nước sở tại, các nhà đầu tư ở đây là các công ty đa quốc gia sẽ tìm đến
những vùng đất mới có nguồn lực và thị trường tiêu thụ màu mỡ hơn. Điều này gây nên
một sự dịch chuyển tư bản mạnh mẽ từ quốc gia này sang quốc gia khác, hình thành nên
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy có thể nói chính sự quốc tế hoá hoạt động kinh
doanh của các công ty đa quốc gia là nguyên nhân cơ bản tác động đến sự ra đời và phát
triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên, cùng với quá trình đầu tư nước ngoài để tìm kiếm siêu lợi nhuận, các
công ty đa quốc gia cũng đối đầu với nguy cơ mới: rủi ro. Sự khác biệt về luật pháp,
6
chính sách kinh tế, sự biến động và rủi ro của thị trường các nước nhận đầu tư sẽ hình
thành nên những rủi ro mà các công ty đa quốc gia phải quan tâm khi quyết định đầu tư
vào một quốc gia khác.
Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của thương
mại quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát triển của thương
mại quốc tế. Những tác động này ảnh hưởng không chỉ đến những nước nhận đầu tư mà
ngay cả những nước xuất khẩu tư bản (đầu tư). Những tác động đó bao gồm:
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu hút nguồn nhu cầu mới.
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp thâm nhập vào những thị trường nơi có thể đạt
được lợi nhuận cao.
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng năng suất
• Sử dụng yếu tố nước ngoài trong sản xuất
• Sử dụng nguyên vật liệu nước ngoài.
• Sử dụng công nghệ nước ngoài.
• Khai thác các thuận lợi về độc quyền
• Đa dạng hoá ở tầm cỡ quốc tế.

• Phản ứng với giá trị thay đối của ngoại tệ
• Phản ứng với các kiềm hãm thương mại
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những thuận lợi về mặt chính trị
IV- Lợi ích và rủi ro của vốn FDI
1. Lợi ích của vốn FDI
a) Về mặt kinh tế
 Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn lực):
7
Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa được phát
huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn
lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ quản
lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta cần có vốn và công
nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ được du
nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương,
các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công
nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở các nước đang
phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nước chuyển sang đi vay các nước khác, những
luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan trọng cho việc hình thành vốn của một vài
nước đang phát triển. Giữa năm 1979 và năm 1981, luồng vốn đầu tư trực tiếp chiếm
khoảng 25% trong tổng số vốn cố định được đầu tư của Singapore; 11% ở Malaixia; gần
5% ở Chile và Philipines; khoảng 15% tại Brazil, Indonesia, Mehico, còn ở Hàn Quốc,
Ấn Độ và Nigeria không đáng kể. Tuy nhiên, những con số này chưa phản ánh đủ sự
đóng góp của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài vào tổng số vốn được đầu tư.
Lợi nhuận tái đầu tư đã không được kể đến ở một số nước đang phát triển; ngoài ra, quĩ
khấu hao của các doanh nghiệp FDI đã trang trải cho một phần cơ bản của các khoản chi
tiêu trong tổng số vốn của các nước này, mà lại không đưa vào định nghĩa FDI.
Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho các luồng

vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có những tác động đến
sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư, cũng như những khác biệt trong các
yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng vốn chảy vào. Các nước có thị trường nhỏ
bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu hàng
công nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có những qui chế
tự do và những ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó nói chung cũng không có khả
8
năng vay nợ theo các điều kiện thương mại thông thường, và chủ yếu dựa vào kết quả
ưu đãi. Kết quả là những khả năng thay thế giữa tín dụng thương mại nước ngoài và FDI
chủ yếu có liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc có
khu vực công nghiệp khá phát triển. Các nước đã có được một số lượng lớn các nguồn
FDI nói chung cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu tương lai của nguồn vốn, bởi vì họ
cũng có thể tác động tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh
hiện hữu thuộc các công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số lượng vay từ các nguồn trong
nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với vay nước ngoài, FDI có xu hướng
tập trung nhiều hơn tại một số ít nước.
 Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở
Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa
trên địa bàn tỉnh năm 2006.
 Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước :
Do có các nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào các thị trường vốn có các nhà đầu tư
trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, nhưng ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà
đầu tư trong nước khi ưu thế về nguồn lực của nhà đầu tư nước ngoài trội hơn hẳn.
Chính vì vậy các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ
trước từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và phương pháp
quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó. Đó chính là một trong những thử thách tất
yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản xuất trong nước, không có kẻ yếu nào
có thể tồn tại nếu không tự nó làm mình mạnh lên để sống trong cơ chế đó.

 Tiếp cận với thị trường nước ngoài:
Nếu như trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có
thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tế
mới không phải trong nước. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có,
9
và họ cũng đang cần thì ở nơi đối tác lại có, do vậy cần phải tăng cường hợp tác sẽ có
nhiều sản phẩm được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời cũng cần phải
nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Từ các việc trao đổi thương
mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư giữa các nước. Như vậy quá trình đầu tư
nước ngoài và thương mại quốc tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau
và cùng phát triển.
 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế:
Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước
sở tại theo chiều hướng tích cực hơn. Nó thường tập trung vào những ngành công nghệ
cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin. Nếu là một nước nông nghiệp thì
bây giờ trong cơ cấu kinh tế các ngành đòi hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã
tăng lên về tỷ trọng và sức đóng góp cho Ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung.
Ngoài ra về cơ cấu lãnh thổ, nó có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển
giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa khai phá
vào quá trình sản xuất và dịch vụ, và làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát
triển.
b) Về mặt xã hội
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế và tăng thu nhập quốc dân.
 Góp phần giải quyết công ăn việc làm, đẩy lùi nạn thất nghiệp, từ đó góp phần nâng
cao đời sống của người dân trong các nước kém hoặc đang phát triển.
 Thông qua việc tiếp nhận kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến, đầu tư trực tiếp sẽ
giúp cho các nước đang phát triển đuổi kịp trình độ phát triển cao của thế giới.
 Đầu tư trực tiếp cũng góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng của nền kinh tế mà nguồn

vốn trong các nước đang phát triển không đủ khả năng cung ứng.
2. Rủi ro của vốn FDI
10
a) Về mặt kinh tế:
 Rủi ro chuyển giá :
Hiện tượng chuyển giá , không chỉ làm ngân sách quốc gia bị thất thu một số tiền
lớn, mà nó còn có thể gây ra những hậu quả tiêu cực cho cả nền kinh tế
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và
tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo
giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations
Company) trên toàn cầu.
Nói nôm na, chuyển giá là việc dùng một số phương thức khác nhau để trốn tránh
được các khoản thuế, phí thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, để rồi
chuyển lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài.
- Ở góc độ vĩ mô, vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI có thể gây thất thoát
cho nguồn thu ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa.
- Còn xét ở cấp độ vi mô, thủ đoạn này sẽ tạo ra bất công trong cạnh tranh giữa doanh
nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa. Chẳng hạn, một doanh nghiệp FDI sử dụng công
cụ chuyển giá để tối ưu hóa lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài trong khi đó báo cáo
thua lỗ tại quốc gia đang kinh doanh để khỏi đóng thuế và nhiều trường hợp được hoàn
thuế, như vậy công ty FDI đó sẽ có nhiều nguồn lực về tài chính hơn để đầu tư vào các
hoạt động tiếp thị, quảng bá.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay
đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có
đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao
dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
 Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn
toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua
hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
11

 Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên
sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích
không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
 Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm
liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế
của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang
nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các
quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng
nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch
mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Các doanh nghiệp FDI trong giai đoạn đầu có thể hạ giá để giành thị phần và bóp
chết các doanh nghiệp nội địa cạnh tranh với mình. Nhưng về lâu dài, khi họ thành công
và chiếm lĩnh thị trường và thị phần, người tiêu dùng sẽ buộc phải tuân theo luật chơi,
mà chính xác hơn là sẽ phụ thuộc vào sản phẩm, vào giá cả mà các doanh nghiệp FDI
này đưa ra.
Cho nên, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các
chủ thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính sách về giá
mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích đạt được
từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với trường hợp khai giá
giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện
thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ
không phải thực hiện vế sau của việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao
dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt và vận dụng được những quy định khác biệt về
thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn
hợp pháp. Như thế, vô hình trung, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực
hiện nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về
lợi ích, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.
 Ăn sổi
12
FDI vào công nghiệp và xây dựng đứng đầu. Kế theo là dịch vụ và sau chót là nông

nghiệp. Đầu tư vào công nghiệp, các nhà FDI lại ngại công nghệ phụ trợ. Họ “bao sân”
nguyên vật liệu, phụ tùng, chi tiết máy móc nhập vào lắp ráp, hoàn thiện, buộc chặt ta
vào guồng máy kinh tế của họ, “ẵm gọn” chuỗi lợi nhuận tạo ra từ quá trình đó.
Nở rộ khách sạn nhiều sao, nhà hàng sang trọng, khu nghỉ dưỡng cao cấp (resort), sân
golf nhiều lỗ. Có khu nghỉ dưỡng chiếm luôn một khúc bãi biển.
 Thất vọng chuyển giao công nghệ
Mặt bằng công nghệ của các FDI khi mang vào cao hơn mặt bằng của ta, song ngần
ấy chưa đủ để vực nền công nghiệp nhằm làm rường cột cho mộng ước “đi tắt, đón
đầu”. Một số nhà đầu tư đã đưa vào máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, thải loại.
Gia công dệt may, da giày, phần mềm; lắp ráp điện tử không thể là tiêu chí của quốc
gia “cơ bản là nước công nghiệp”.
 Bấp bênh xuất khẩu
FDI (không kể phần dầu thô) đóng góp trên dưới 20% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Nếu loại trừ phần nguyên liệu ngoại nhập rất cao trong cấu thành trị giá hàng dệt
may, da giày, điện tử, phần mềm..., kim ngạch thực thụ của nó sẽ rất thấp, kéo theo tổng
kim ngạch xuất khẩu của nước ta vốn đã đì đẹt còn lùn hơn. Họ lo cả đầu ra, nên xuất
khẩu nước ta đã, đang và sẽ phụ thuộc vào bên ngoài. Được vài mặt hàng mới trong
màn chào hỏi, từ đó đến nay danh mục mặt hàng xuất khẩu của khối FDI vẫn y nguyên.
Nền xuất khẩu của Việt Nam - dù đã được tiếp sức của FDI, so sánh với chính mình
thấy rạng rỡ, nhưng chỉ cần liếc sang các nước trong khu vực thì thấy vẫn dẫm chân tại
chỗ, với những đặc trưng: Gia công - manh mún - hàng thô; trung gian - giá cả - mấp mô
thị trường.
 Lấn sân phân phối
Các hãng phân phối quốc tế từ lâu đã nhìn thấy Việt Nam là thị trường bán lẻ hấp
dẫn vừa vì dân số lớn mà hệ thống phân phối, mạng lưới bán lẻ của Việt Nam còn non
13
trẻ. Từ 1/1/2009 - theo lộ trình cam kết quốc tế ta phải mở cửa cho các hãng phân phối
100% vốn nước ngoài - họ xung trận với vốn liếng dồi dào, hàng hoá đầy ứ, trình độ
quản lý cao, tầm nhìn chiến lược, kỹ năng tiếp thị sành sỏi, quảng cáo, khuyến mại mê
hồn, phương thức văn minh. Trong khi đó, ta có 9.000 chợ các loại, hơn 70 trung tâm

mua sắm, 400 siêu thị lớn nhỏ, kể ra đã là lực lượng hùng hậu so với 20 năm trước đây.
Đông mà không mạnh, chẳng hợp sức để cải thiện tình hình ngoại trừ việc ngoắc tay
tăng giá.
Hơn thế nữa lực lượng “cổ động viên sân nhà” với tâm lý xính dùng hàng ngoại,
tiền nào của ấy, không lăn tăn về mọi mặt .., sớm muộn gì cũng quay lại cổ suý cho “đội
khách”. Trận đấu mới bắt đầu, song hồi kết sẽ tới với kết quả được báo trước, không cần
đến chú bạch tuộc tiên tri.
b) Về mặt xã hội
 Khấp khểnh vùng miền
Là những nhà kinh doanh lọc lõi, họ mang vốn liếng sang không phải làm từ thiện
mà để kiếm lời càng sớm, càng nhiều càng tốt. Họ chỉ chọn những thành phố, những địa
phương giáp biển, có cảng hàng không, có trục giao thông huyết mạch, miền xuôi, vùng
có mặt bằng lý tưởng..., đỡ phải đầu tư ban đầu.
Chỉ có 21/63 địa phương có vốn đăng ký của FDI từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó 6
địa bàn: TP HCM, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Ninh Thuận đã
chiếm 67% tổng số vốn đăng ký FDI trong cả nước. Các tỉnh mạn ngược đất rộng,
người thưa, địa chất công trình tốt, nhưng ngổn ngang khó khăn, nên không được FDI
ngó ngàng. Hố ngăn cách được đào rộng, moi sâu.
 Căng thẳng quan hệ chủ thợ
Từng mong muốn FDI sẽ thu hút nhiều lao động. Điều đó có nhưng không bõ bèn.
Số lao động làm việc cho FDI tại thời điểm 1/7/2000 là 358 nghìn chiếm tỷ lệ 1,0% tổng
số lao động trên của toàn quốc. Các cặp số liệu tương ứng của 2005 là 1,112 triệu -
2,6%. Năm 2008 là 1,694 triệu - 3,7%. Năm 2009 là 1,611 triệu - 3,4%.
14
Nhưng một số doanh nghiệp bộc lộ nhiều nhược điểm như trả lương chậm - chậm
tăng lương - bớt xén tiêu chuẩn bảo hiểm, an toàn lao động - sa thải - cúp phạt...
Các nhà FDI xuất xứ từ nền công nghiệp phát triển nên họ thừa hiểu việc xây dựng
cơ sở sản xuất bao giờ cũng gắn liền với bảo vệ môi trường. Song với lý do “tế nhị” quy
chuẩn tối thiểu này khi đầu tư vào Việt Nam đã không bị bắt buộc, mà Vedan chỉ là ví
dụ điển hình. Kiện, họ bồi thường, nhưng chất độc hoà vào dòng nước, thâm sâu lòng

đất, bao người dân được thụ hưởng hàng chục năm nay, chỉ có bệnh viện K, nghĩa trang,
đài hoá thân hoàn vũ mới giải quyết triệt để.
 Cơ chế bất cập
Kể từ khi ban hành lần đầu tiên vào năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa
đổi tới 4 lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000. Đến năm 2005, với việc Ban hành
luật đầu tư chung đã sáp nhập Luật đầu tư nước ngoài với Luật khuyến khích đầu tư
trong nước. Qua 5 năm thi hành Luật mới - được xem là đánh dấu phát triển đặc biệt của
hệ thống pháp luật của Việt Nam - song đã sớm bộc lộ nhiều khiếm khuyết: mục đích
không rõ rằng, nhiều khái niệm mù mờ, không ít quy định trùng lặp, mâu thuẫn với
chuyên ngành khác.
Vì nóng lòng tăng trưởng GDP, muốn có thứ hạng cao về chỉ số năng lực cạnh
tranh, muốn có số thu ngân sách vượt trội, nên khi được phân cấp “làm việc” với các
nhà FDI, cấp dưới đều háo hức trải thảm đỏ, đua nhau săn đón , đãi đằng hậu hĩ, chiều
chuộng, chăm sóc hết lòng, không dám ràng buộc, cũng chẳng tinh tường để ràng buộc,
nên đã nhanh chóng bộc lộ những bất cập, lúc bung bét ra sân gôn, cho thuê rừng, đào
quặng... lại đổ tội cho cơ chế. Khi phân quyền còn hàm ý bớt sách nhiễu, phiền hà, song
những chiêu này được cấp dưới tiếp thu và vận dụng sáng tạo. Nhà FDI chả chịu thiệt
mà “kính chuyển” tắp lự vào giá thành.
 Gian nan quản lý
Toàn bộ quá trình từ đưa máy móc vào - cung ứng nguyên liệu - tổ chức sản xuất,
gia công đến thu xếp đầu ra đều được khép kín, phía Việt Nam không được phép biết.
15
Vì vậy họ thoải mái dùng các thủ pháp thổi giá vật tư, máy móc để tâng giá trị dự án và
tăng tỷ lệ góp vốn trong liên doanh, khai khống giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tạo
giá thành ảo, hạch toán vờ, trốn thuế thật. Năm 2009 gần 60% số doanh nghiệp FDI tại
thành phố Hồ Chí Minh báo cáo lỗ. Tựu chung đóng góp vào ngân sách nhà nước của
Khối này đáng thất vọng, trong các năm 2005 -2008 chỉ xung quanh 9-10% tổng thu
ngân sách quốc gia. Năm 2009, vin cớ khủng hoảng, đóng góp của họ giảm 11,25%,
trong khi khu vực tư nhân chỉ giảm 4,4%, còn doanh nghiệp nhà nước vẫn tăng 6,2%.
16

CHƯƠNG II:
XU HƯỚNG DÒNG VỐN FDI TRÊN THẾ GIỚI – VẬN
DỤNG VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM
I- Xu hướng dòng vốn FDI trên thế giới
1. Giai đoạn 1990-2000
Với sự hội nhập thị trường vốn quốc tế, dòng FDI toàn cầu đã tăng mạnh trong thập
niên 1990 với tỷ lệ khá cao trên cả sự tăng trưởng kinh tế và mậu dịch. Dòng đầu tư
chảy vào toàn cầu tăng trung bình là 13% một năm trong giai đoạn 1990-1997. Sau đó,
bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi hoạt động sáp nhập và mua bán (M&As-Mergers and
Acquisitions), lượng vốn chảy vào này đã tăng trung bình gần 50% một năm giai đoạn
1998-2000, đạt kỷ lục là $1.500 tỷ năm 2000 (Bảng). Dòng FDI lại sụt giảm xuống
$729 tỷ năm 2001, phần lớn là do kết quả của sự giảm mạnh trong hoạt động M&A qua
biên giới giữa những nước công nghiệp từ mức $1.100 tỷ năm 2000 xuống khoảng $600
tỷ năm 2001.

Các nước công nghiệp đã chiếm giữ một thời gian dài trong việc thu hút cũng như
đầu tư FDI và giải thích cho gần 94% đầu tư FDI và 70% thu hút FDI (Hình). Dòng
chảy FDI vào những nước đang phát triển tăng trung bình là 23% một năm trong suốt
1990-2000. Năm 2001, dòng chảy này đã sụt 13% xuống mức $215 tỷ, phản ánh phần
lớn sự sụt giảm ở Hồng Kông, Ac-hen-ti-na, Bra-xin. Ngoại trừ những nước này, FDI
vào những nước đang phát triển tăng khoảng 18% trong năm 2001. Giai đoạn 1998-
17
2001, dòng FDI chảy vào các nước đang phát triển này tính trung bình là $225 tỷ một
năm.
Trong suốt giai đoạn 1998-2001, trong số $900 tỷ FDI chảy vào các nước đang phát
triển thì châu Á chiếm $407 tỷ. Hai nước ở châu Á thu hút FDI lớn nhất là Trung Quốc
với $165 tỷ và Hồng Kông với $124 tỷ. 5 quốc gia thu hút FDI lớn nhất là Trung Quốc,
Ác-hen-ti-na, Bra-xin, Hồng Kông và Mê-xi-cô- chiếm hơn ½ dòng chảy vào FDI. Các
nước đầu tư FDI lớn nhất là Mỹ, Anh, Pháp, Đức, chỉ có 12% trong đầu tư FDI toàn cầu
là từ các nước đang phát triển.

Một xu hướng khác là sự sụt giảm trong đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ năm 1999 và
Trung Quốc đang ngày càng chiếm quy mô lớn hơn đã khiến cho nhiều nước đang phát
triển lo lắng. Nhưng nếu nhìn sâu xa hơn ta sẽ thấy đó là một xu hướng mới và đầy hứa
hẹn. FDI đã được đầu tư từ nhiều quốc gia hơn và vào nhiều lĩnh vực hơn.
Dòng chảy FDI vào các nước đang phát triển giảm đi vào năm 1999 trong khi quy mô
của Trung Quốc thì tăng từ 21% lên 39% (Hình). Trung Quốc lúc này đã trở thành nước
dẫn đầu trong sản xuất với lực lượng lao động lớn, linh hoạt, có trình độ và giá rẻ, trong
khi Ấn Độ dường như thích hợp với đầu tư vào dịch vụ. Khu vực châu Phi, Trung Đông
và Nam Á thì lại có nguồn vào FDI thấp. Các nước Đông Âu thì lại dựa vào sự hội nhập
khối liên minh châu Âu để tăng cường dòng vào FDI.
18
Sau 13 năm tăng trưởng trung bình hơn 17% mỗi năm tính theo đô la thì đến năm 1999
lại có sự sụt giảm. Sự sụt giảm này phần lớn là do sự tăng mạnh trong vấn đề tư nhân
hóa trong lĩnh vực tài chính, xăng dầu và cơ sở hạ tầng trong thập niên 1990, trong khi
FDI ở những lĩnh vực khác vẫn gần như không biến động. Một nguyên nhân khác là do
sự khủng hoảng về mặt vĩ mô ở những nước châu Mỹ Latin.
2. Giai đoạn 2000-2009
Dựa theo số liệu mới nhất của WB, IMF, ADB và nhiều tổ chức quốc tế khác, đã có
hiện tượng tăng lên trong dòng chảy FDI trên thế giới kể từ đầu niên kỷ. Dòng chảy này
đạt đỉnh vào năm 2000, sụt giảm gần 40% trong năm 2001 và cũng sụt giảm lần nữa vào
2002-2003. Theo số liệu, đó là một sự sụt giảm dài nhất và lớn nhất. Tuy nhiên, năm
2004 đã đánh dấu một khởi đầu cho sự phục hồi nhanh. Trong suốt thời gian này dòng
FDI toàn cầu tăng lên 20% mỗi năm. FDI đang được cho là trải qua một thời kỳ khá
thuận lợi và có thể mở rộng trong những năm còn lại của thập kỷ.
Từ sau 2003, dòng FDI thiên về các thị trường của nền kinh tế mới nổi. Nguồn vốn FDI
chảy vào những khu vực này tăng lên 57% năm 2004, tăng 26% năm 2005 lên mức đỉnh
là $400 tỷ. Dự đoán trong tương lai dòng FDI chảy vào thị trường các nền kinh tế mới
nổi sẽ vẫn tiếp tục tăng giai đoạn 2006-10, trung bình khoảng $400 tỷ mỗi năm. Ngược
lại, ở những khu vực như Thái Lan, Bra-xin, Ba Lan thì việc FDI vào lĩnh vực bán lẻ là
một nguồn quan trọng cho sự tăng trưởng trong sản xuất đã dẫn đến giá cả hàng hóa

thấp hơn và tiêu dùng tăng cao hơn.
19
Trong năm 2006, FDI vào những thị trường mới nổi tăng chỉ 3% trong khi dòng vào
FDI ở khu vực các nước phát triển được cho là tăng khoảng 36%. Một phần là do quá
trình hồi phục ở những thị trường mới nổi này phần lớn đã hoàn thành trong khi ở
những nước đã phát triển chỉ là mới bắt đầu. Nước Mỹ-nền kinh tế lớn nhất thế giới
được kỳ vọng là tiếp tục hấp dẫn được nguồn vốn nước ngoài, gần ¼ nguồn vốn FDI
giai đoạn 2006-10. 10 quốc gia thu hút FDI chủ yếu là ở những nước phát triển được
cho là chiếm hơn 2/3 nguồn FDI toàn cầu.
Giai đoạn khủng hoảng 2008-2009
Theo nhận định của các nhà kinh tế, cuộc khủng hoảng 2008-2009 đã tác động mạnh mẽ
đến dòng FDI. Sau khi giảm 17% trong năm 2008 xuống còn 1.720 tỷ USD, so với mức
2.080 tỷ của năm 2007; trong năm 2009, FDI toàn cầu tiếp tục giảm khoảng 41% xuống
còn 1.000 tỷ USD. Sự suy giảm này cho thấy nguồn tín dụng sẵn có giảm, mức độ suy
thoái nghiêm trọng ở các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển cũng như việc
né tránh rủi ro trên quy mô rộng của các nhà đầu tư.
Do tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu nên dòng vốn FDI chảy vào các nước đang
phát triển giảm sút 35% trong năm 2009 sau khoảng thời gian 6 năm tăng trưởng liên
tục. Ban đầu, dòng FDI vào các thị trường mới nổi không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng
hoảng. Năm 2008, trong khi dòng FDI vào các nước phát triển giảm 1/3 thì dòng FDI
vào các nước mới nổi lại tăng 11%. Trong năm 2009, dòng FDI vào các nước mới nổi
cũng giảm mạnh, khoảng 36%, xuống còn khoảng 532 tỷ USD. Nhưng mức giảm này
vẫn thấp hơn so với ở các nước phát triển - giảm 45%, xuống còn 488 tỷ USD. Do vậy,
năm 2009 là năm đầu tiên các nước mới nổi thu hút được FDI nhiều hơn các nước phát
triển.
Thị phần của các nền kinh tế đang nổi trong dòng FDI toàn cầu có xu hướng tăng trong
thời kỳ suy thoái vì việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp giảm mạnh ở các nước phát
triển. Mặc dù việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp xuyên biên giới ở các nước đang
nổi tăng đều trong những năm gần đây, nhưng hoạt động này vẫn chủ yếu diễn ra ở các
nước phát triển. Trong năm 2008, khoảng 80% các vụ mua bán và sáp nhập doanh

nghiệp xuyên quốc gia diễn ra ở các nước phát triển. Tuy nhiên, mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp ở các thị trường đang nổi đã được hỗ trợ bởi các yếu tố khác và làm cho
thị phần của các nước đang phát triển trong dòng FDI toàn cầu tăng lên mức kỷ lục
trong năm 2009. .
Do cuộc khủng hoảng, điều kiện tín dụng thắt chặt hơn và lợi nhuận giảm sút khiến khả
năng tài trợ các dự án ở nước ngoài của các công ty yếu đi. Mặt khác, kinh tế toàn cầu
suy thoái lan rộng và việc rủi ro ngày càng gia tăng đã làm xói mòn niềm tin của các
20
doanh nghiệp và do đó doanh nghiệp không còn muốn mở rộng hoạt động của mình ra
thế giới.
Kết quả là nhiều công ty xuyên quốc gia (TNCs) lớn đang phải điều chỉnh lại kế hoạch
mở rộng kinh doanh ra bên ngoài, và một loạt các dự án đầu tư mới (greenfield) cũng
như thông qua các hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) bị đình lại
hoặc hủy bỏ. Xu hướng này ngày càng lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực từ các
ngành công nghiệp khai thác cho đến sản xuất và dịch vụ.
Việc FDI toàn cầu giảm mạnh trong năm 2008 đặt dấu chấm hết cho chu kỳ tăng trưởng
kéo dài 4 năm.
3. Giai đoạn 2009-2010 và triển vọng trong tương lai
a) Tổng quan giai đoạn 2009-2010: xu hướng FDI sẽ đầu tư vào ngành công nghiệp ít
phát thải các-bon
FDI vào những khu vực ít phát thải các-bon như những ngành công nghiệp tái tạo, tái
chế hay những ngành công nghiệp sản xuất kỹ thuật ít phát thải các-bon đã chiếm một
phần lớn, khoảng $90 tỷ trong năm 2009 và nguồn lực tiềm năng của nó cũng rất lớn.
Đây là một trong những kết luận được ghi trong bài báo cáo về đầu tư thế giới (World
Investment Report) của UNCTAD (United Nation Conference on Trade and
Development - Hội nghị của Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển) công bố
21
vào tháng trước. Bài báo cáo này là bản báo cáo gần nhất trong những bản báo cáo
thường kỳ hàng năm đã tìm ra xu hướng và triển vọng mới nhất đối với nguồn vốn FDI
cũng như những đổi mới trong chính sách.

Dòng chảy vào FDI đã giảm 37% từ năm 2008 đến 2009 xuống mức $1.114 tỷ (Hình).
Tuy nhiên, con số này vẫn chiếm vị trí cao thứ 5 về lượng vốn đầu tư ra nước ngoài, nó
giải thích cho 11% tổng sản lượng GDP toàn cầu và hơn 80 triệu việc làm. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài toàn cầu đã bắt đầu thoát ra khỏi đáy vào gần cuối 2009 và tiếp tục cho
sự phục hồi vào nửa đầu 2010, khởi đầu cho một sự lạc quan đáng chú ý đối với triển
vọng FDI trong ngắn hạn. Trong dài hạn, quá trình phục hồi FDI được kỳ vọng sẽ trong
đà tăng mạnh. Ngoài ra, những dấu hiệu gần đây cho thấy sẽ có sự phục hồi vào năm
2010 với dòng vốn chảy vào kỳ vọng đạt $1200 tỷ, $1300-1500 vào năm 2011 và hướng
tới $1600-2000 năm 2012. Như vậy, FDI trên toàn thế giới đã có sự tăng trưởng trở lại
sau sự khủng hoảng từ cuối 2008, tuy nhiên, tình hình phục hồi có khả quan nhưng cần
thận trọng. Lí do là vì cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa kết thúc và những rủi ro tại các
thị trường như châu Âu, Mỹ với tình trạng nợ công vẫn còn tiềm ẩn.
Mặc dù có sự giảm sút trong hoạt động mua bán và sáp nhập năm 2009 nhưng trong
năm 2010 được kỳ vọng là sẽ có sự phục hồi khi mà việc định giá trở nên rẻ hơn và
ngày càng tăng trong sự hợp nhất của các công ty. Xu thế M&A xuất hiện nhiều hơn ở
22
các nước đang phát triển chứ không dừng lại ở các nước phát triển như trước. Lí do là
các nền kinh tế mới nổi đã có những doanh nghiệp lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng hết sức sôi động và giá trị kinh tế tăng gấp nhiều lần.
Những nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi và mới nổi đã thu hút ½ FDI và đầu tư
xấp xỉ ¼ FDI toàn cầu năm 2009.Những nước này đang dẫn dắt cho sự phục hồi FDI và
là điểm đến được ưa chuộng cho việc thu hút FDI. Trong khu vực nền kinh tế chuyển
đổi và mới nổi thì khối BRICs-Bra-xin, Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc chiếm phần lớn
nhất trong nguồn vốn FDI đầu vào (41%) trong khi khu vực thị trường mới nổi như
Colombia, Indonesia, Việt Nam, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi chỉ chiếm phần nhỏ
hơn (dưới 9%). Theo báo cáo về đầu tư của UNCTAD, ở khu vực châu Á, trong khi
luồng vốn FDI vào các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan
và Philippin đã giảm mạnh từ năm ngoái thì ở Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia
và Việt Nam, FDI vẫn có dấu hiệu tốt.
Khoảng 40% dự án đầu tư FDI vào khu vực ít phát thải các-bon trong suốt thời gian

2003-2009 là vào những nước đang phát triển. Vẫn còn rất tiềm năng cho FDI “xanh”
tăng nhiều hơn ở những nền kinh tế đang phát triển.
Đầu tư FDI ra bên ngoài vào những ngành dịch vụ đại diện cho phân nửa dòng vốn FDI
năm 2009, trong khi đó thì FDI đầu tư vào sản xuất vẫn ngày càng giảm đi tầm quan
trọng theo thời gian.
Hiện tại, xu hướng FDI không chỉ là nước giàu đầu tư cho nước nghèo mà đã có quy
trình ngược lại để nhập khẩu công nghệ, quy trình quản lý, xây dựng thương hiệu… FDI
ngày nay không đơn thuần là mang vốn vào nước khác để đầu tư kinh doanh, sản xuất,
mà còn mang nhiều sắc thái về môi trường, về công nghệ, lao động.
Về khía cạnh chính sách, trong năm 2009 đã có hơn 102 chính sách mới đưa ra đã tác
động đến FDI. 70% trong những chính sách này là hướng về tự do hóa dần trong FDI.
Tuy nhiên, 30% số còn lại thì khắt khe hơn đối với nguồn vốn FDI, cho thấy một xu
hướng mới khi chính phủ các nước đang cân nhắc nghiêm túc luật hạn chế đầu tư nước
ngoài hay giám sát chặt chẽ hơn bằng các quy định của chính phủ.
b) FDI đang trên đà phục hồi
Sự sụt mạnh trong hoạt động mua bán và sáp nhập (M&As) qua biên giới đã giải thích
phần lớn cho sự sụt giảm trong FDI năm 2009. M&As thường nhạy cảm nhiều hơn đối
với tình hình tài chính so với dự án đầu tư mới (Greenfield). Điều này là do những biến
động rối loạn trên thị trường chứng khoán đã che khuất đi những dấu hiệu biến động
của giá cả, trong khi M&As lại phụ thuộc vào giá cả thị trường chứng khoán. Thêm vào
đó, chu kỳ đầu tư của M&As cũng thường ngắn hơn so với đầu tư mới.
23
Sự phục hồi mới đây diễn ra theo sau một sự sụt giảm mạnh trong dòng FDI thế giới
vào năm 2009. Sau khi giảm 16% trong năm 2008 thì dòng chảy vào FDI toàn cầu giảm
đến 37% xuống mức $1.114 tỷ (Hình) và dòng FDI chảy ra giảm 43% xuống mức
$1.101 tỷ.

Trừ khi đầu tư tư nhân lấy lại được vị thế dẫn đầu trong nền kinh tế, nếu không thì việc
duy trì quá trình hồi phục FDI toàn cầu sẽ vẫn là một dấu chấm hỏi lớn. Dòng FDI có sự
hồi phục nhẹ trong quý hai của năm 2009 nhưng vẫn còn ở mức thấp. Hoạt động mua

bán và sáp nhập qua biên giới vẫn còn thấp ở mức $250 tỷ năm 2009, tăng lên 36%
trong 5 tháng đầu của 2010 so với cùng kỳ năm trước. Điều này có nghĩa là FDI có khả
năng phục hồi lại vào năm 2010 nhờ vào tăng trưởng kinh tế ở những nước chính yếu.

Dòng FDI chảy vào
FDI sụt giảm năm 2009 trên cả 3 nhóm đầu tư - các nước phát triển, đang phát triển và
những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Sự sụt giảm này phản ánh tình trạng
nền kinh tế vẫn còn yếu ở nhiều nơi trên thế giới cũng như khả năng tài chính giảm của
nhiều công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Những khu vực nền kinh tế chuyển đổi và các nước đang phát triển có sự phục hồi tốt
hơn những nước phát triển. Sau 6 năm tăng trưởng ổn định thì dòng FDI vào các nước
đang phát triển sụt giảm khoảng 24% trong năm 2009.
Quá trình phục hồi FDI vào năm 2010 được kỳ vọng là sẽ mạnh mẽ hơn ở những nước
đang phát triển so với những nước phát triển . Vì vậy, sự tăng lên trong dòng đầu tư
nước ngoài vào những nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi cũng
được kỳ vọng sẽ tiến triển nhanh hơn. Sự tăng lên rõ ràng này vào giai đoạn 2007-2009
(Hình) được cho là do sự chuyển hình và tăng trưởng của nền kinh tế cũng như quá trình
mở cửa rộng rãi hơn đối với FDI và sản xuất trên thế giới. Do vậy, các nước đang phát
triển và chuyển đổi này đã giải thích cho hơn phân nửa dòng chảy vào FDI toàn cầu.

Xếp hạng toàn cầu về những nước thu hút FDI lớn nhất cho thấy lại xuất hiện phần lớn
ở những nước đang phát triển và chuyển đổi. Trung Quốc vẫn là điểm đến thu hút FDI
thứ hai và Mỹ vẫn duy trì vị thế là nước thu hút FDI lớn nhất.

24
Các nước đang phát triển và chuyển đổi cũng thu hút được nhiều dự án đầu tư mới
(Greenfield) hơn những nước phát triển trong năm 2008-2009. Mặc dù phần lớn M&A
qua biên giới vẫn diễn ra ở những khu vực các nước phát triển thì một phần các giao
dịch này đối với các nước đang phát triển cũng đang trên đà tăng.
Theo như Bài nghiên cứu về triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD cũng đã khẳng

định rằng đầu tư vào các nước phát triển so với các nước đang phát triển đã giảm xuống
trong nhiều năm trở lại đây và có thể tiếp tục trong tương lai.
a) Dòng
FDI chảy ra
Dòng FDI chảy ra (đầu tư FDI) trong năm 2009 giảm 43% xuống mức $1.101 tỷ cũng
giống như xu hướng của dòng chảy vào FDI. Khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu
đã ảnh hưởng tới đầu tư FDI của những nước phát triển và cũng bắt đầu tác động đến
đầu tư FDI của những nước đang phát triển. Điều này phản ánh lợi nhuận sụt giảm, áp
lực tài chính đối với các công ty.
Dòng đầu tư FDI tăng 20% trong quý I của năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009. Một
nửa trong số các quốc gia (26/51) bao gồm cả những nước đầu tư lớn như Đức, Thụy
Điển và Mỹ đã chứng tỏ đầu tư FDI tăng trong quý đầu của năm 2010, phản ảnh phần
lớn sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn và cải thiện lợi nhuận cho các công ty xuyên
quốc gia-TNCs.
Trong khi sự sụt giảm trong đầu tư FDI từ những nước phát triển đã lan rộng trong năm
2009 (trừ những nước ngoại lệ như Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển) thì khu vực này vẫn
25

×