Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TÓM tắt các sự KIỆN LỊCH sử VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.91 KB, 16 trang )

TÓM TẮT CÁC SỰ KIỆN LỊCH SỬ
VIỆT NAM

1. TRUYỀN THUYẾT CỘI NGUỒN
Chuyện kể rằng, Lạc Long Quân là con trai Kinh Dương Vương
vua nước Xích Quỷ thuộc dòng dõi Đế Viêm, họ Thần Nông, kết duyên
với con gái Đế Lai là Âu Cơ rồi sinh ra một bọc có trăm trứng, nở thành
một trăm người con trai. Đồng bào Việt Nam đều là hậu duệ của Cha Lạc
Long Quân và Mẹ Âu Cơ cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng ấy.
2. TRIỀU HÙNG
Tục truyền, con trai trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ là Hùng
Vương thứ nhất lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở
Phong Châu (Bạch Hạc, Việt Trì), chia đất nước thành 15 bộ, cha truyền
con nối qua 18 đời vua. Triều Hùng được coi là triều đại đaauf tiên khai
sáng lịch sử dân tộc, là Quốc Tổ của người Việt Nam.
3. KHÚC HẠO
Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất, con ông là Khúc Hạo thay cha
giữ chức An Nam Tiết độ sứ. Ông đã tiến hành một loạt cải cách trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội …Những cải cách này biểu thị tinh thần
tự chủ, tự lập, tự cường và quyết tâm xây dựng một nước hoàn toàn độc
lập của dân tộc ta.
4. DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ KHÔI PHỤC QUYỀN TỰ CHỦ
Năm Tấn Mão (931), Dương Đình Nghệ, một bộ tướng của họ
Khúc ở Ái Châu (Thanh Hoá), mộ quân đánh đuổi bọn quan quân Lý
Khắc Chính và Lý Tiến, chiếm lại thành Đại La (Hà Nội). Ông tự xưng là
Tiết độ sứ, tiếp tục sự nghiệp giành quyền tự chủ của họ Khúc.
5. CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG
Năm 938, vua Nam Hán sai Hoằng Thao đem thủy
quân theo đường biển tiến vào xâm lược nước ta. Ngô Quyền chỉ huy
quân dân ta xây dựng trận địa ngầm bằng những cây cọc gỗ vót nhọn đầu
bịt sắt cắm ở cửa sông Bạch Đằng.


Nhân lúc thủy triều lên, quân ta dùng thuyền nhẹ ra khiêu chiến,
nhử quân địch tiến sâu vào trận địa. Chờ lúc thủy triều xuống, ông hạ
lệnh tổng phản công. Trận chiến bạch Đằng toàn thắng.

6. 50 NĂM NGÀY BẾN TRE ĐỒNG KHỞI
Cuộc đồng khởi của đồng bào tỉnh Bến Tre bắt đầu từ đêm 17-1-
1960 trên địa bàn Cù Lao Minh, gồm 3 huyện Minh Tân, Mỏ Cày, Thạnh
Phú. Qua 1 đêm đồng khởi, bộ máy kìm kẹp của chính quyền ngụy ở một
số xã bị tan rã hẳn, một số đồn bốt bỏ chạy, ta giải phóng hoàn toàn 3 xã.
Cuộc đồng khởi của đồng bào Bến Tre thắng lợi thúc đẩy làn sóng
đồng khởi như nước vỡ bờ lan ra khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và
một số nơi ở Trung Trung Bộ.
7. NHÀ NGÔ (939-965)
Sau chiến thắng Bạch Đằng, năm 939 Ngô Quyền lên ngôi vua,
đóng đô ở Cổ Loa và tổ chức triều đình, mở ra một kỉ nguyên độc lập dân
tộc. Triều Ngô tồn tại qua 3 thế hệ. Con trai Ngô Quyền là Nam Tấn
Vương Ngô Xương Văn và Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập cùng
làm vua và trị vì đất nước. Sau thời gian cướp ngôi của Dương Tam Kha,
Ngô Xương Xí làm vua và cát cứ vùng Bình Kiều (Thanh Hóa) và là một
trong 12 sứ quân thời đó.
8. 225 NĂM NGÀY CHIẾN THẮNG RẠCH GẦM - XOÀI MÚT
(1785)
Tháng 7 năm 1784, vua Xiêm sai 2 vạn thuỷ quân, 300 chiến
thuyền và 3 vạn bộ binh, chia hai đường thuỷ bộ, tiến đánh vào Gia Định.
Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ dẫn quân vào Mỹ Tho.
Trận quyết chiến diễn ra trên đoạn sông Mỹ Tho, từ Rạch Gầm đến
Xoài Mút. Sáng ngày 19-1-1785, Nguyễn Huệ nhử địch vào trận địa mai
phục và đánh chúng tan tành chỉ còn vài ngàn quân chạy bộ về
nước. Trận chiến toàn thắng.
9. ĐINH TIÊN HOÀNG (924-979)

Ông tên thật là Đinh Bộ Lĩnh, quê ở Hoa Lư, Ninh Bình con trai
Thứ sử Đinh Công Trứ. Sinh thời nhân lúc nhà Ngô suy vong, đất nước
rối loạn (loạn 12 sứ quân), ông tổ chức lực lượng, chiếm giữ vùng Hoa
Lư. Bằng tài thao lược, ông lần lượt đánh bại các sứ quân, xoá bỏ cục
diện phân liệt, thống nhất đất nước và lên ngôi Hoàng đế.
Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét: “Vua tài năng, sáng suốt hơn
người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng, tiếp nối
quốc thống…”

10. NHÀ ĐINH (968-980)
Năm 968, sau khi dẹp loạn cát cứ 12 sứ quân, Vạn Thắng Vương
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng, lấy quốc hiệu là
Đại Cồ Việt, đặt niên hiệu là Thái Bình, đóng đô ở Hoa Lư và tổ chức
triều đình.
Triều đình tồn tại trong 12 năm và truyền được hai đời. Đây là giai
đoạn củng cố nền độc lập dân tộc trên nền tảng chính quyền phong kiến
tập quyền thống nhất.
11. LÊ ĐẠI HÀNH (941-1005)
Ông tên thật là Lê Hoàn, quê ở Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một
gia đình nghèo khổ, cha mẹ đều mất sớm, phải đi làm con nuôi cho một
vị quan nhỏ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn dẹp
loạn 12 sứ quân đã lập lên nhiều chiến công. Ông được Đinh Tiên Hoàng
phong làm Thập đạo Tương quân lúc vừa tròn 30 tuổi. Khi Đinh Tiên
Hoàng bị sát hại, vua Đinh Toàn còn nhỏ tuổi, quân Tống lâm le xâm
lược, năm 980, ông được Thái hậu Dương Vân Nga trao ngôi vua lập ra
triều Tiền Lê.
12. NHÀ TIỀN LÊ (980-1009)
Nhà Tiền Lê do Đại Hành Hoàng Đế Lê Hoàn khai sáng, vẫn lấy
quộc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư và truyền ngôi qua ba đời
vua. Ông dã lãnh đạo quân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống

thắng lợi (981) ở phía bắc, giữ yên bờ cõi ở phía nam, tạo điều kiện thuận
lợi để xây dựng đất nước và phát triển kinh tế.
13. LÊ HOÀN ĐÁNH TAN QUÂN XÂM LƯỢC TỐNG
Năm Tân Tỵ (981), quân Tống tiến vào xâm lược nước ta. Lê Hoàn
sai quân sĩ đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng ngăn chặn thuỷ binh và
chiaquân chặn đánh ở biên giới. Trên sông Bạch Đằng diễn ra những trận
chiến ác liệt, kết quả quân ta dã đánh lui thuỷ quân địch. Ở Chi Lăng
quân ta phản công mãnh liệt, giết chết tướng chỉ huy Hầu Nhân
Bảo. Cuộc kháng chiến thắng lợi khẳng định ý chí độc lập tự cường của
dân tộc ta.
14. NHÀ LÝ (1010-1225)
Vương triều Lý do vua Thái Tổ Lý Công Uẩn khai sáng và truyền
ngôi qua 9 đời vua, kéo dài 215 năm (1010-1225), quốc hiệu: Đại Việt,
kinh đô: Thăng Long. Triều Lý đã ghi vào trang sử dụng nước và giữ
nước hào hùng của dân tộc bằng cuộc kháng chiến chống Tống (1075-
1077) thắng lợi, đồng thời đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước trên quy mô lớn và toàn diện.
15. KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG
Giữa thế kỉ XI, nhà Tống thực hiện dã tâm xâm lược Đại
Việt. Thành châu Ung (Quảng Tây), châu Khâm, châu Liêm (Quảng
Đông) trở thành căn cứ quân sự. Trước tình hình đó, tháng 10-1075, Thái
uý Lý Thường Kiệt lãnh đạo quân sĩ Đại Việt, chia làm hai đường thuỷ,
bộ tấn công vào đất Tống, triệt phá các căn cứ xâm lược của kẻ
thù. Tháng 3 năm 1076, sau khi hoàn toàn mục tiêu tiến công để phòng
thủ, Lý Thường Kiệt rút quân về nước chuẩn bị chiến đấu với quân Tống.
16. KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG
Cuối năm 1076, 30 vạn quân tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ
huy tràn vào nước ta. Chúng bị chặn đứng ở bờ bắc phòng tuyến sông
Cầu. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra ở đây. Quân Tống bị tiêu diệt đến
quá nửa và lâm vào tình thế quẫn bách. Lý Thường Kiệt chủ động điều

đình mở lối thoát cho quân địch. Chính trong chiến trận này, bài thơ thần
bất hủ đã vang lên, khẳng định đanh thép chủ quyền của dân tộc anh
hùng.
17. ĐÌNH BÌNH THUỶ (Cần Thơ)
Được xây dựng năm 1844, sau đó được tu sửa lại nhiều lần. Nơi
đây thờ vị Thành hoàng Bồn cảnh và các anh hùng có công với nước như:
Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập, …
Hàng năm, dân địa phương tổ chức hai kỳ lễ hội: lễ Hạ điền từ 14 đến 15
tháng chạp â.l. và lễ Thượng điền từ 12 đến 14 tháng tư â.l Lễ hội có
nhiều nghi lễ và sinh hoạt văn hoá truyền thống: rước thần trên “xe rồng
tán phượng”, thỉnh sắc cầu thần và hát bội …
18. NHÀ TRẦN (1225-1400)
Do Thái Tông Hoàng đế Trần Cảnh khai sáng, vẫn giữ quốc hiệu
Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và truyền ngôi qua 10 đời vua. Trên nền
tảng vững chắc đã được xây dựng từ đời Lý, vương triều Trần tiếp tục
công cuộc xây dựng, củng cố quốc gia thống nhất, phát triển kinh tế,
đồng thời giữ vững độc lập dân tộc với ba lần kháng chiến chống Mông-
Nguyên thắng lợi.
19. TRẦN THÁI TÔNG (1218-1277)
Vua tên thật là Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, được Lý
Chiêu Hoàng nhường ngôi từ khi lên 7 tuổi (1225), trị vì trong 33 năm,
làm Thái Thượng hoàng 19 năm, có các niên hiệu: Kiến Trung, Thiên
Ứng Chính Bình, Nguyên Phong.Dưới sự trị vì của ông, triều Trần ngày
càng vững vàng, tạo ra nền thống nhất và ổn định của đất nước. Ông trực
tiếp lãnh đạo quân dân Đại Việt làm cuộc kháng chiến chống Mông-
Nguyên lần thứ nhất (1258) thắng lợi.
20. TRẦN THÁNH TÔNG (1240-1290)
Ông tên thật là Trần Hoàng, con trưởng của Trần Thái Tông, ở ngôi
20 năm (1258-1278), làm Thái Thượng hoàng 12 năm, có các niên
hiệu: Thiệu Long, Bảo Phù. Ông là vị vua biết trọng dụng nhân tài, chăm

lo việc nước, là người trực tiếp lãnh đạo quân dân Đại Việt tiến hành
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên năm 1285 và 1288. Tác
phẩm tiêu biểu: Di hậu lục, Thiền tông liễu ngộ ca, Hạnh Thiên Trường
hành cung …


21. TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1308)
Vua tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, ở ngôi 14
năm (1279-1293), có các niên hiệu Thiệu Bảo, Trùng Hưng. Năm 1293,
vua nhường ngôi và làm Thái Thượng hoàng, rồi đi tu, trở thành một
trong ba vị tổ khai sáng thien phái Trúc Lâm Yên Tử. Vua là người trực
tiếp lãnh đạo quân dân Đại Việt làm cuộc kháng chiến chống Mông-
Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) thắng lợi. Đại Việt sử ký
toàn thư viết: "Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng
hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền từ của nhà Trần"
22. TRẦN ANH TÔNG (1276-1320)
Vua tên thật là Trần Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông, ở ngôi 21
năm (1293-1314), niên hiệu Hưng Long, nhường ngôi làm Thái Thượng
hoàng 6 năm. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua khéo biết thừa kế, cho
nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ
ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần"
23. NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM (1930)
Đầu năm 1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Hội nghị thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở hợp nhất các tổ chức cộng sản
được tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.Hội nghị đã
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và
những văn kiện quan trọng khác. Đây là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
cách mạng nước ta, là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ
vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử dân

tộc.
24. TRẦN MINH TÔNG (1300-1357)
Vua tên thật là Trần Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông, ở ngôi 15
năm, nhường ngôi làm Thái Thượng hoàng 28 năm, niên hiệu Đại Khánh,
Khai Thái. Đại Việt sử ký toàn thư viết "Vua đem văn minh sửa sang đạo
trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo
nghĩ sâu xa, trong yên, ngoài phục, kỷ cương đủ bày"
25. TRẦN HIẾN TÔNG (1319-1341)
Vua tên thật là Trần Vượng, con thứ của Trần Minh Tông, ở ngôi 13 năm,
niên hiệu Khai Hựu. Hiến Tông lên ngôi khi mới 10 tuổi, việc chính sự
do Thượng hoàng Moin h tông điều khiển, lại qua đời lúc còn quá trẻ (23
tuổi) nên chưa kịp làm được gì đáng kể. Đại Việt sử ký toàn thư viết:
"Vua tư trời tinh anh, sáng suốt, vận nước thái bình, nhưng hưởng thọ
không lâu dài"
26. TẾT ÔNG CÔNG ÔNG TÁO
23 tháng chạp â.l vào ngày này, dân gian thường làm cỗ bàn, cá chép,
vàng mã cúng tế với quan niệm tiễn Táo Quân lên chầu Trời, báo cáo
những việc trong năm.
Tục thờ Táo Quân được giải thích bằng một truyền thuyết về mối
tình tay ba đầy éo le và cảm động, qua đó nhắc nhở con người phải biết
trân trọng và giữ gìn hạnh phúc gia đình.
27. TRẦN DỤ TÔNG (1336-1369)
Vua tên thật là Trần Hạo, con thứ 10 của Trần Minh Tông, ở ngôi 28 năm
(1341-1369), niên hiệu Thiệu Phong, Đại Trị. Đại Việt sử ký toàn thư
viết: "Vua tính rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang
việc văn, các di đều thần phục.Đời Thiệu Phong (1341-1357) chính sự tốt
đẹp; từ năm Đại Trị (1358) về sau, chơi bpif quá độ, cơ nghiệp nhà Trần
suy yếu từ đó".



28. Năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều thông chế (20
quyền) quy định về tổ chức chính quyền. Sau đó, qua vài lần sửa chữa và
bổ sung, nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình luật. Cơ quan luật
pháp được tăng cường và hoàn thiện hơn. Ở triều đình có Thẩm hình viên
chuyên xét xử ngục tụng. Cuối thế kỷ XIII, nhà trần lại ban hành bộ Quốc
triều hình luật và lập viện Đăng văn kiểm pháp, lấy các đại thần phụ
trách.
29. CHÙA ĐẬU (Thường Tín-Hà Nội)
Thờ pháp vũ là vị thần làm mưa trong tục thờ Tứ pháp của người Việt
Ngôi chùa khởi dựng từ thời Lý và trải qua nhiều lần trùng tu. Hiện nay,
chùa còn giữ được nhiều di vật quý, đặc biệt là hai pho tượng thiền sư Vũ
Khắc Minh và Vũ Khắc Trương là người thật.
Lễ hội hàng năm diễn ra từ 26 đến 27 tháng chạp â.l với những nghi lễ
truyền thống.
30. THƯỢNG TƯỚNG THÁI SƯ TRẦN QUANG KHẢI
Ông là con trai Trần Thái Tông. Ông từng được phong các chức,
tước: Chiêu Minh Đại Vương, Tướng quốc Thái úy; năm 1282, được
phong Thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính. Trong cuộc
kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai và thứ ba, trần Quang
Khải là vị tướng chủ chốt sau Trần Hưng Đạo, lập nhiều công lớn. Ông
đã chỉ huy trực tiếp đánh trận Chương Dương thắng lợi và nhiều trận
quan trọng khác. Tác phẩm tiêu biểu: tập thơ lạc đạo …
31. CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT (1253-1330)
Ông là con thứ sáu của Trần Thái Tông, người có công lớn trong việc chỉ
huy quân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên, từng được phong là Thái úy
Quốc công Chiêu Văn Vương. Từ bé ông đã nổi tiếng hiếu học, nổi tiếng
là biết nhiều hiểu rộng. Ông có công thu phục quân Trịnh Giác Mật, tăng
cường khối đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên.
32. CHƯỞNG SỬ QUAN LÊ VĂN HƯU (1230-1322)
Ông quê ở Thiệu Hóa Thanh Hóa, thi đỗ bảng nhân. Lê Văn Hưu được

triều đình phong chức Hàn lâm viện học sĩ, lại được Trần Thái Tông ủy
thác cho việc dạy dỗ Hoàng tử Trần Quang Khải. năm 1262, ông được
giao cho biên soạn bộ quốc sử của đất nước. tháng giêng năm Nhâm Thân
(1272), Chưởng sử quan Lê Văn Hưu đăng bộ Đại Việt sử ký gồm 30
quyển, được coi là bộ quốc sử thành văn đầu tiên trong lịch sử. Mặc dù
đến nay, Đại Việt sử ký đã thất truyền, nhưng những đánh giá sắc sảo của
Lê Văn Hưu vẫn được các sử gia trích dẫn trong bộ Đại Việt sử ký toàn
thư.
33. TẤT NIÊN KỶ SỬU
Ngày cuối năm còn gọi là ngày trừ tịch. Các gia đình tổ chức làm
cỗ tất niên, cúng gia tiên, rồi cùng nhau ăn uống và tổng kết lại những
công việc trong một năm qua. Đêm Giao thừa, khi thời khắc năm mới đã
điểm, người ta tiến hành lễ tống cựu nghinh tân, tiễn vị hành khiển năm
cũ và đón vị Hành khiển năm mới, theo phong tục dân gian.
34. TẾT NGUYÊN ĐÁN CANH DẦN
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong năm của các gia đình trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam, chào đón một năm mới (âm lịch). Tết
Nguyên Đán hội tụ nhiều thuần phong, mỹ tục, có ý nghĩa giáo dục đạo lý
uống nước nhớ nguồn, thắt chặt mối quan hệ họ hàng, làng xóm và cũng
là dịp nghỉ ngơi, giải trí và sáng tạo văn hóa.
35. TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Người dân Nam Bộ gọi là Đạo Ông Bà, là một tín ngưỡng truyền
thống của người Việt Nam. Gia đình nào cũng đặt một bàn thờ ở chỗ
trang trọng nhất làm nơi thờ tự ông bà, ông vải. Vòa những dịp lễ tết, sóc
vọng và giỗ chạp, người ta tổ chức cúng lễ tưởng niệm và cầu mong tổ
tiên phù hộ.
36. LỄ MỪNG THỌ
Là nghi lễ chúc mừng cha mẹ đến tuổi 70 hoặc 80. Xưa kia, vào
ngày này, con cháu tề tựu, biện lễ ra đình tạ ơn thần linh, sau đó rước cha
mẹ ngồi lên chiếu thọ giữa nhà rồi bái lạy, đăng rượu đào chúc thọ, rồi tổ

chức ăn mừng. Lễ mừng thọ là dịp để con cháu bày tỏ lòng biết ơn với
đấng sinh thành, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt
nam.
37. QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH (1789)
Được tin 29 vạn quân Thanh tràn vào Thăng Long, ngày 25 tháng
11 năm Mậu Thân (22-12-1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở Phú
Xuân và sau đó đem quân ra Bắc. Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân
(15-1-1789), đại quân tập kết ở phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn. Quang
Trung hạ lệnh cho quân sĩ ăn tết trước, rồi chia thành 5 đường hành binh
thần tốc ra tiêu diệt quan Thanh. Các đồn địch như Gián Khẩu, Thanh
Quyết, Nhật Tảo và Hà Hồi nhanh chóng bị tiêu diệt.
38. CHIẾN THẮNG NGỌC HỒI-ĐỐNG ĐA
Mờ sáng mồng năm tết Kỷ Dậu (30-1-1789), quân Tây Sơn do Quang
Trung Nguyễn Huệ chỉ huy bất thần tấn công đồn Ngọc Hồi và nhanh
chóng thu được thắng lợi. Cùng lúc đó, đạo quân của đô đốc Đông tấn
công và hạ đồn Khương Thượng-ĐốngĐa. Tướng giạc Sầm Nghi Đống
phải thắt cổ tự tử. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt bỏ chạy. Trưa ngày mồng năm
tết Kỷ Dậu (30-1-1789), vua Quang Trung cưỡi voi, dẫn đoàn quân chiến
thắng tiến vào thành Thăng Long, giữa cảnh hò reo vang dậy của nhân
dân.
39. THÀNH CỔ LOA (Đông Anh-Hà Nội)
Vốn là một tòa thành cổ bậc nhất ở nước ta do Thục Phán An Dương
Vương lập nên từ thế kỷ III trước CN, làm kinh đô nước Âu Lạc. Thành
được xây 3 vòng hình xoáy trôn ốc, chân thành phía ngoài có hào sâu
ngập nước, thuyền bè có thể đi lại được. hiện nay, khu vực thành còn có
đình Cổ Loa, am thờ công chúa Mỵ Châu và đền thờ An Dương Vương.
Hàng năm, lễ hội Cổ Loa diễn ra từ mồng sáu đến 16 tháng giêng â.l
40. CHÙA HƯƠNG (Mỹ Đức-Hà Nội)
Là một bộ phận trong khu di tích, danh thắng Hương Sơn. Nơi đây có
động Hương Tích nổi tiếng, được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhất

động". Hội chùa Hương mở từ mồng 6 tháng giêng đến 15 tháng ba â.l.
hàng năm. Đây là dịp khách thập phương đến tham quan, lễ Phật và cầu
may.
41. ĐỀN ĐÔNG CUÔNG (Yên Bái)
Thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn và các vị anh hùng người địa phương có
công chống giặc Mông-Nguyên thế kỷ 13. Hàng năm, lễ hội đền được mở
vào thời gian sau tết Nguyên Đán với những nghi lễ, sinh hoạt tín ngưỡng
gắn với đạo Mẫu, cùng nhiều trò chơi dân gian khác.
42. LỄ HỘI YÊN TỬ (Uông Bí-Quảng Ninh)
Diễn ra từ ngày 9-1 đến hết tháng ba â.l Nơi đây là trung tâm của Phật
giáo Trúc Lâm, một dòng thiền do vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và
Huyền Quang sáng lập.
Nơi đây có 11 chùa và hàng trăm am tháp, trong đó có chùa Đồng ở đỉnh
cao 1068m so với mặt biển. Du khách hành hương đến đây để lễ Phật và
thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng miền Đông Bắc.
43. PHẠM NGŨ LÃO (1255-1320)
Ông là người làng Phù Ủng, huyện Đương Hòa, nay thuộc tỉnh hưng Yên.
Ông là một tướng tài, xuất thân từ quân ngũ, được Trần Hưng Đạo tri
ngộ, gả con gái và tiến cử lên vua Trần. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Mông-Nguyên lần thứ hai (1285), lần thứ ba (1287), ông theo trần
Hưng Đạo tham gia nhiều chiến dịch và lập được nhiều công trạng Ông
là người kế thừa một cách xuất sắc kinh nghiệm về phép dùng binh của
Trần Hưng Đạo. Tác phẩm tiêu biểu: Thuật hoài …
44. LỄ HỘI LÀNG PHÙ ỦNG (Ân Thi -Hưng Yên)
Diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13 tháng giêng â.l. để tưởng nhớ danh tướng
Phạm Ngũ Lão, người có nhiều công giúp nhà Trần chống giặc ngoại
xâm.
Trong lễ hội có lễ rước Quận chúa Thủy Tiên, con gái Phạm Ngũ lão về
đền và tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: đánh cờ, đấu vật, hát chèo …
45. DANH TƯỚNG TRẦN BÌNH TRỌNG (1259-1295)

Vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, ông nội làm quan dưới triều Trần
được ban họ vua. Ông có nhiều công trạng nên được phong tước Bảo
Nghĩa Vương. Trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên, ông giữ
nhiệm vụ ở lại Thiên trường ngăn chặn quân địch. Ngày 26-2-1295 ông bị
địch bắt. Chúng khuyên ông hàng, ông khảng khái nói"Ta thà làm quỷ
nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc". Ông hy sinh lúc mới 36
tuổi.
46. HỘI LIM (Tiên Du-Bắc Ninh)
Diễn ra vào ngày 13 tháng giêng â.l. hàng năm. Lễ hội nổi tiếng với sinh
hoạt văn hóa truyền thống của đất Kinh Bắc là hát quan họ. Quan họ Bắc
Ninh bắt nguồn từ lối hát đối đáp nam nữ, có từ rất lâu đời, gắn với tục
kết chj, kết bạn, thường tổ chức vào những dịp lễ hội làng. Quan họ có
khoảng 180 bài, nội dung chủ yếu là chúc tụng, giao duyên giữa các liền
anh, liền chị.Hát quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội
dung, vừa theo làn điệu, đối lời kèm đối giọng.
47. 55 NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM
Ngày 17-2-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho ngành y
tế. trong thư, Người căn dặn; "lương y phải như từ mẫu". Ngày 6-2-1985,
Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định lấy ngày 27-2 hàng năm là Ngày thầy
thuốc Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm và vị trí người thầy thuốc
trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
48. TẾT NGUYÊN TIÊU
Đây là dịp kỷ niệm ngày Rằm đầu tiên trong năm, nên còn gọi là tết
Nguyên Tiêu. Vào ngày này, dân gian tổ chức cúng gia tiên, lễ Phật, dân
gian tổ chức cúng gia tiên, lễ Phật, lễ Thánh cầu bình an và may mắn, với
quan niệm "cúng quanh năm không bằng Rằm tháng giêng".
49. CHÙA TAM GIÁO ĐỘNG NHỊ THANH (Thành phố Lạng Sơn)
Là một trong tám thắng cảnh nổi tiếng của xứ Lạng. Chùa thờ Khổng Tử,
Thích Ca, Lão Từ, đó là những vị đã sáng lập ra ba tôn giáo lớn: Nho
giáo, Phật giáo và Lão giáo. Động Nhị Thanh phía dưới chùa Tam Giáo,

là một động đá tự nhiên dài khoảng 500m, có nhiều nhũ đá hình dáng
sinh động. Lễ hội hàng năm diễn ra từ 15 đến 17 tháng giêng â.l
50. BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG (?-791)
Ông quê ở Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Phẫn nộ trước ách cai trị của nhà
Đường, Phùng Hưng đã phất cờ khởi nghĩa, chiếm vùng Đường Lâm
(Sơn Tây) làm căn cứ. Nghĩa quân tấn công thành Tống Bình. Sau 7 ngày
đêm giao chiến, quân địch hoàn toàn thất bại, tên quan đô hộ Cao Chính
Bình phát bệnh mà chết, cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Tưởng nhớ
công lao người anh hùng dân tộc, sau khi qua đời, nhân dân ta tôn vinh
ông là Bố Cái Đại Vương.
51. LỄ HỘI ĐẦM TRÂU
Lễ hội ĐẦM TRÂU là một sinh hoạt văn hóa truyền thống phổ biến của
các dân tộc vùng Trường Sơn, Tây Nguyên, thường diễn ra vào các dịp
trọng đại của buôn làng. Sau lễ cầu thần linh về chứng giám lòng thành
của bà con và nhận lễ vật, con trâu được trói vào cột, rồi trai gái, già trẻ
cùng nhau nhảy múa trong tiếng cồng chiêng bập bùng. Những trai tráng
cầm giáo, mác tiến hành nghi thức đâm trâu và buôn làng mổ
trâu ăn mừng.
52. ĐỀN QUẢ SƠN (Đô Lương-Nghệ An)
Thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Tri châu Nghệ An, một danh tướng
thời Lý. Lễ hội hàng năm diễn ra từ 19 đến 21 tháng giêng â.l., với nhiều
nghi lễ như: lễ rước từ đền Quả đến đền Bà Bụt, đua thuyền.
53. HỘI LỒNG TỔNG
Tức hội xuống đồng của dân tộc Tày, Nùng, diễn ra vào tháng giêng â.l.
hàng năm, mở đầu cho một gieo cấy mới. Trong hội có các nghi lễ, nghi
thức cầu mùa như: tế thần nông, cày ruộng …và nhiều trò chơi dân gian
như: ném còn, đẩy gậy, chơi đu, hát sli (của người Nùng), hát lượn (của
người Tày) …
54. DI TÍCH DANH THẮNG CÔN SƠN (Chí Linh-Hải Dương)
Là quần thể di tích chùa Côn Sơn, đền thờ Nguyễn Trãi, Giếng Ngọc …

hài hoà với cảnh núi non, rừng thông, khe suối hùng vĩ. Đây là một trong
ba trung tâm Thiền phái Trúc Lâm thời Trần, nơi an cư của danh nhân
Trần Nguyên Đán và anh hùng dân tộc Nguyễn trãi. Lễ hội hàng năm
diễn ra hai kỳ: Hội Xuân từ 18 đến 22 tháng giêng, hội Thu từ 16 đến 20
tháng 8 â.l
55. HỘI CHỢ KỲ LỪA (Lạng Sơn)
Từ 22 đến 27 tháng giêng â.l Lễ hội nhằm tưởng nhớ đến Thân Công
Tài, quan đầu phủ có công lập phố Kỳ Lừa, mở mang giao thương giữa
Việt Nam và nhiều địa phương của Trung Quốc. Trong lễ hội có nhiều
nghi lễ truyền thống như: múa rồng, múa sư tử, cướp đầu pháo, đặc biệt
có nghi lễ rước kiệu thần từ đền Kỳ Cùng lên đền Tả Phủ.
56. 100 NĂM NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ
Ngày 8-3-1909, nữ công nhân Chicago và New York (Hoa Kỳ) đã tổ
chức bãi công, diễu hành thị uy đòi quyền tự do, bình đẳng. Năm 1910,
Đại hội đại biểu phụ nữ thế giới lần II họp tại Đan Mạch đã quyết định
lấy ngày 8-3 hàng năm là ngày Quốc tế phụ nữ. Từ đó ngày này trở thành
ngày hội của phụ nữ toàn thế giới đoàn kết, đấu tranh tự giải phóng và
thực hiện quyền nam nữ bình đẳng.
57. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG CỔ (1258)
Tháng 12 năm Đinh Tỵ (1-1258), 3 vạn quân Mông Cổ tràn xuống xâm
lược nước ta. Vua Trần Thái Tông chỉ huy quân ta chặn bước tiến của
địch và rút khỏi Thăng Long, bảo toàn lực lượng. Sau một thời gian ngắn,
quân ta tiến công Đông Bộ Đầu, đánh bật địch khỏi Thăng Long. Trên
đường rút chạy, địch bị quân Hà Bổng chặn đánh ở Quy Hoá. Quân địch
thương vong nặng nề, chạy tháo thân về Vân Nam. Cuộc kháng chiến
chống Mông lần thứ nhất thắng lợi.
58. CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG-NGUYÊN LẦN
THỨ HAI
Trước nguy cơ xâm lược của giặc Mông-Nguyên, tháng 10 năm Nhâm
Ngọ (1282), vua Trần Nhân Tông triệu tập Hội nghị Bình Than gồm các

vương hầu, quan lại cùng nhau bàn kế hoạch kháng chiến.Hưng Đạo Đại
Vương trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc Công Tiết Chế giữ trọng
trách thống lĩnh quân đội. Ông chỉnh đốn lại quân ngũ, truyền hịch cổ vũ
lòng yêu nước. Tháng 12 năm Giáp Thân (1285), vua Trần chủ trì Hội
nghị Diên Hồng triệu tập các bô lão hỏi ý kiến đánh giặc và củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm đánh giặc cứu nước.
59. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG-NGUYÊN LẦN THỨ HAI
(1285)
Mùa xuân năm Ất Dậu (1285), quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy
chia làm ba mũi tấn công nước ta: hai đạo 50 vạn quân từ phía bắc tràn
xuống, đạo quân Toa Đô từ miền bắc Chămpa tiến ra. Hưng Đạo Vương
chia quân chặn địch ở các ngả và tiến hành rút lui chiến lược khỏi Thăng
Long, Thiên Trường, Trường Yên rồi chuyển vào Thanh Hoá làm căn cứ.
60. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG-NGUYÊN LẦN THỨ HAI
THẮNG LỢI
Tháng tư năm Ất Dậu (1285), quân ta chuyển sáng giai đoạn phản công
dữ dội và thu được hàng loạt thắng lợi. Trần Nhật Duật và Trần Quốc
Toản đánh thắng địch ở cửa Hàm Tử. trần Quang khải thắng trận ở bến
Chương Dương, giải phóng kinh thành. Hưng Đạo Vương tấn công đồn
giặc ở Tây Kết, chém đầu Toa Đô, quân ta tiến đánh Vạn Kiếp, quân địch
thảm bại.Thoát Hoan chui vào ống đồng tháo thân về nước. Cuộc kháng
chiến chống Mông-Nguyên lần thứ hai toàn thắng.

61. LUẬT HỒNG ĐỨC
Năm 1483, vua Lê Thánh Tông tổ chức hoàn chỉnh bộ luật chính
thức của triều Lê, thường được gọi là luật Hồng Đức, đến thế kỷ XVII-
XVIII, thì được bổ sung, sửa đổi ít nhiều và ban hành với tên Lê triều
hình luật. Bộ luật gồm 722 điều , chia thành 16 chương, nội dung phản
ánh ý thức giai cấp, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền lợi người phụ
nữ và người dân tự do. Luật hồng Đức đánh giá một trình độ phát triển

cao và khá hoàn chỉnh về tư tưởng pháp lý của dân tộc Đại Việt.
62. LÊ HIẾN TÔNG (1461-1504)
Vua tên húy là Tranh và Huy, con trưởng của Lê Thánh Tông, ở
ngôi 7 năm (1498-1504), niên hiệu: Cảnh Thống. Vua chú trọng đặc biệt
đến thủy lợi, chăm sóc đê điều, bắt đào sông, khơi ngòi, đắp đường, làm
xe nước, chăm lo việc học hành. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua thiên
tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong 7 năm mà
thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ đồ".
63. LỄ HỘI QUAN THẾ ÂM NGŨ HÀNH SƠN (Đà Nẵng)
Diễn ra từ ngày 18 đến 20 tháng hai â.l. hàng năm. Đây là lễ hội
mang màu sắc Phật giáo với các nghi lễ rước kiệu, dâng hoa, cầu nguyện,
… thuyết giảng về Quan Âm Bồ Tát … Các hình thức sinh hoạt văn hóa
như: múa tứ linh, hát dân ca, hát tuồng, đua ghe, hoa đăng trên sông,
trưng bày thư pháp … cũng được tổ chức vào dịp này.
3/4 NHÀ MẠC (1527-1592)
Nhà Mạc được thành lập do Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê năm
1527.Từ năm 1543 đến 1592, nhà Mạc chỉ cai trị vùng bắc Bộ gọi là Bắc
triều, còn từ vùng Thanh Hóa trở vào thuộc địa bàn Nam triều của nhà Lê
Trung Hưng. Vương triều Mạc trải qua 9 đời vua, đến năm 1592 bị Trịnh
Tùng tiêu diệt, nhưng tàn dư triều Mạc cát cứ ở Cao Bằng đến 1677 mới
hoàn toàn chấm dứt.
64. NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533-1789)
Năm 1533, nhà Lê được khôi phục lại ở đất Lào gọi là Lê Trung
Hưng. Hơn hai thế kỷ rưỡi (1533-1789) trên ngôi của 17 vị vua, họ Lê chỉ
có danh vị, còn thực quyền rơi vào tay họ Trịnh, họ Nguyễn. Đây là thời
kỳ đất nước bị phân liệt bởi cục diện nội chiến, cát cứ Nam - Bắc triều và
Trịnh - Nguyễn phân tranh.
65. VUA LÊ, CHÚA TRỊNH ĐÀNG NGOÀI (1593-1789)
Chiến tranh Nam - Bắc triều kết thúc, đất nước tiếp tục bị chia đôi:
vùng Bắc Bộ đến sông Gianh gọi là Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh; từ

sông Gianh trở vào gọi là Đàng Trong thuộc chúa Nguyễn; vua Lê chỉ có
hư vị. Trịnh Tùng là người đầu tiên lập phủ chúa với hệ thống quan lại,
nắm quyền điều hành đất nước. Nhà Trịnh cha truyền con nối qua 13 đời
chúa, kể cả Trịnh Kiểm.
66. CHÚA NGUYỄN ĐÀNG TRONG (1600-1777)
Giang sơn Đàng Trong được Nguyễn Hoàng đặt nền móng bắt đầu
khi ông làm trấn thủ Thuận Hóa (1558). Khi đủ mạnh, nhà Nguyễn công
khai cát cứ vùng đất từ sông Gianh trở vào và tiến hành xây dựng hệ
thống hành chính như một vương triều độc lập. Nhà Nguyễn cha truyền
con nối qua 9 đời chúa. Công lao các chúa Nguyễn gắn liền với sự nghiệp
khan hoang, mở rộng bờ cõi đất nước về phương Nam.
67. KHỞI NGHĨA TÂY SƠN
Năm tân mão (1771), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ lãnh đạo nhân dân nổi dậy ở đất Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa
nhanh chóng lan rộng và thu được nhiều thắng lợi. từ năm 1771 đến
1783, nghĩa quân Tây Sơn đã tạm hòa hoãn với quân Trịnh, đồng thời
hoàn thành việc đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn, Nguyễn Ánh phải bỏ
chạy sang cầu viện quân Xiêm.
68. LỄ HỘI ĐỀN BÀ TRIỆU (Hậu Lộc - Thanh Hóa)
Diễn ra vào ngày 24 tháng hai â.l. hàng năm, để tưởng nhớ Bà
Triệu Thị Trinh, người nữ thủ lĩnh lãnh đạo nhân dân ta nổi dậy khởi
nghĩa chống quân Ngô năm 248. Khi Lý Nam Đế dựng nước Vạn Xuân
đã phong tặng Bà là "Bậc chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".
69. TÂY SƠN LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN LÊ-TRỊNH Ở ĐÀNG
NGOÀI
Tháng 6 năm 1786, quân Tây Sơn ra Thuận Hóa đánh lui quân
Trịnh, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong và thừa thắng tiến quân ra Bắc
Hà. Chỉ trong vòng một tháng, nghĩa quân Tây Sơn, dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Huệ đã lật nhào nền thống trị của chính quyền chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài.

70. NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)
Triều tây Sơn (1778-1802) chính thức ra đời với sự xưng Hoàng đế
của Nguyễn Nhạc năm 1778 ở Quy Nhơn. Sau đó, năm 1778 trước khi
tiến ra Bắc đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, đặt niên
hiệu Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân (Huế) và truyền ngôi được hai
đời vua. Nhà Tây Sơn đã xóa bỏ cục diện cát cứ, giữ vững độc lập dân
tộc, bước đầu thống nhất và phục hưng đất nước.
71. NHÀ NGUYỄN (1802-1945)
Sau khi thu được giang sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi
hoàng đế, lấy quốc hiệu là Nam Việt, năm 1804 đổi thành Việt Nam, năm
1839 đổi thành Đại Nam, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Vương triều
Nguyễn tồn tại trong 143 năm qua 13 đời vua, chia làm hai giai đoạn: 83
năm (1802-1884) với tư cách là vương triều độc lập; 62 năm (1884-1945)
là chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
72. THÀNH HOÀNG LÀNG
Là vị thần linh bảo trợ cho cộng đồng làng xã. Đó là những thần tự
nhiên hoặc nhân vật lịch sử có công với nước, những vị tiền bối khai
hoang, lập làng, sáng nghiệp … Thành hoàng được thờ ở đình, đền hoặc
quán. Hàng năm, dân làng tổ chức tế tự vào các dịp tuần tiết, tết lễ, sóc
vọng; những năm được mùa hoặc định kỳ vài năm lại có một dịp
lễ hội với quy mô lớn.
73. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
Còn gọi là đạo Tứ phủ, thờ: Tam tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị Quan
Lớn, Tứ phủ Chầu Bà, các ông Hoàng, Cô Cậu … Đó là những vị thần tự
nhiên, những nhân vật lịch sử, hiện thân cho ba phần của vũ trụ theo quan
niệm dân gian: Thiên phủ (trời), Nhạc phủ (rừng núi), Thoải phủ (sông
nước, biển hồ). Nơi thờ phụng là phủ, đền, điện. Hình thức nghi lễ đặc
trưng là lên đồng (tức hầu bóng) với những điệu hát chầu văn độc đáo.

74. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG-NGUYÊN LẦN THỨ BA

(1287-1288)
Cuối năm Đinh Hợi (1287), Thoát Hoan dẫn 30 vạn quân chia làm ba mũi
tiêns công Đại Việt: hai đạo quân từ biên giới tràn sang, một thuỷ quân từ
biển theo sông Bạch Đằng đánh vào. Quân dân nhà Trần dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Hưng Đạo Vương đã chặn đánh ở các đường địch tiến công,
tiêu hao sinh lực của chúng, đồng thời tiến hành rút lui để bảo toàn lực
lượng.
75. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG-NGUYÊN LẦN THỨ BA
THẮNG LỢI
Quân ta tiến hành tập kích đoàn quân lương của địch ở cửa Vân
Đồn thắng lợi, khiến chúng sa vào nạn thiếu lương thực và phải rút
về nước . Tháng ba năm Mậu Tý (2-1288), Hưng Đạo Vương đã chỉ huy
quân Đại Việt xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng, tiêu diệt toàn
bộ thuỷ quân của địch, băqts sống bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ
… Thoát Hoan dẫn bộ binh chạy qua Lạng Sơn bị phục binh của ta đánh
tơi bời. Cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ ba thắng lợi.

76. NHÀ HỒ (1400-1407)
Nhà Hồ lấy quốc hiệu là Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hoá)
và truyền được hai đời vua: Hồ Quý Ly (1400-1401) và Hồ Hán Thương
(1401-1407). Trong thời gian ngắn ngủi, vương triều Hồ tiến hành một
loạt cải cách táo bạo trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng chưa thể khôi phục
lại sức mạnh dân tộc để chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.
77. 1970 NĂM KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG (40)
Tháng hai năm Canh Tý (40), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị
lãnh đạo nhân dân ta phát động cuộc khởi nghĩa, bắt đầu từ vùng cửa
sông Hát (sông Đáy) tiến xuống Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Chỉ
trong thời gian ngắn, nghĩa quân đã hạ được 656 thành trì trước sự tan rã
nhanh chóng của chính quyền thống trị Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa toàn
thắng, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh và tiếp tục lãnh đạo

quân dân ta chống quân xâm lược Hán.
78. HỒ QUÝ LY (1336- ?)
Ông tự Lý Nguyên, quê ở Nghệ An, sau chuyển ra Thanh Hoá. Ông
lấy công chúa Huy Ninh, con Trần Minh Tông, từng có các chức, tước
cao: Khu mật viện đại sứ, Tiểu tư không, Phụ chính Thái sư nhiếp chính,
Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc Tổ Chương Hoàng. Nhân lúc
triều Trần suy vi, ông đoạt ngôi báu lập lên triều Hồ. Hồ Quý Ly là người
thông minh lỗi lạc, đã từng đề ra nhiều cải cách toá bạo. Năm 1406, nhà
Minh đem quân xam lược nước ta. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị bắt,
kết thúc triều Hồ và sự nghiệp cải cách của ông.
79. ĐỀN CỬA ÔNG (Quảng Ninh)
Là một trong những di tích nhà Trần nổi tíếng ở vùng Đông Bắc,
thờ danh tướng Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng là con thứ của
Trần Hưng Đạo, cùng nhiều tướng lĩnh nhà Trần có công đánh giặc. Đền
có ba khu: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng tạo thành hình chân vạc
trông ra vịnh Bái Tử Long. Hàng năm, lễ hội diển từ mồng ba tháng hai
đến hết tháng ba â.l. với nhiều nghi lễ truyền thống và trò chơi dân gian.
80. HỘI THỀ LŨNG NHAI
Năm 1416, tại Lũng Nhai, một địa điểm gần Lam Sơn (Thanh
Hoá), Lê Lợi cùng 18 người bạn chiến đấu làm lễ tế cáo trời đất thề kết
nghĩa anh em, nguyện một lòng đánh giặc Minh cứu nước. Hội tề Lũng
Nhai đặt cơ sở cho sự hình thành hạt nhân đầu tiên của bộ tham mưu khởi
nghĩa Lam Sơn.
81. 680 NĂM NGÀY MẤT THIỀN SƯ PHÁP LOA (1284-1330)
Ông tên thật là Đồng Kiên Cương, quê ở Nam Sách, Hải Dương, là
thiền sư đời Trần, vị tổ thứ hai trong “Trúc Lâm tam tổ” của thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Ông được Trần Anh Tông tôn làm Quốc sư và phong
là Anh Mẫn Phủ Tuệ Tôn Giả. Tác phẩm tiêu biểu: Đoạn sách lục, Tham
thiền chỉ yếu, Kim cương đạo tràng đà la ni kinh, Tán pháp hoa kinh
khoá số, Bát nhã hữu tâm kinh khoa …

82. CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418-1427)
Ngày mồng hai tháng giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418), Lê Lợi
cùng nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định
Vương. Giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (1418-
1423), nghĩa quân gặp phải muôn vàn khó khăn và chủ yếu phát triển
hình thức chiến tranh du kích, nhằm bẻ gẫy những đợt tấn công vây quét
của địch, đồng thời xây dựng lực lượng.
83. NHÀ LÊ SƠ (1428-1527)
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, năm 1428, lãnh tụ Lê Lợi
lên ngôi hoàng đế, lấy lại quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà
Nội). Vương triều Lê tồn tại qua hai thời kỳ: Lê Sơ (1414-1527) và Lê
Trung Hưng (1533-1789). Giai đoạn đầu triều Lê, nước Đại Việt được
phục hồi và phát triển lên một đỉnh cao mới rực rỡ về tất cả các mặt.
84. ĐỀN NGHÈ
Thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, thờ Bà Lê Chân, một
nữ tướng trong trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), người có
công lập ra làng An Biên, tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này.
Hàng năm, lễ hội đền Nghè diễn ra từ mồng 8 đến 10 tháng hai â.l Trong
hội có rước mũ, ấn, đấu vật, cờ tướng và nhiều trò chơi dân gian khác.
85. LÊ THÁI TỔ (1385-1433)
Vua tên thật là Lê Lợi, quê ở Lam Sơn, Thanh Hoá. Sinh thời trước
cảnh đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ, ông đã nuôi chí lớn. Năm
1418, Lê Lợi cùng các hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Suốt 10
năm nếm mật, nằm gai, năm 1428, cuộc kháng chiến chống Minh hoàn
toàn thắng lợi. Lê Lợi lên ngôi vua, đặt niên hiệu: Thuận Thiên, mở ra
một trang sử độc lập mới của dân tộc.
86. ĐỀN DẠ TRẠCH (Khoái Châu-Hưng Yên)
Thờ đức thánh Chử Đồng Tử và hai phu nhân. Chử Đồng Tử là một
trong “Tứ bất tử” của người Việt, biểu tượng của ước vọng về cuộc sống
hạnh phúc, phồn vinh.

Lễ hội đền Dạ Trạch diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng hai
â.l trong hội có nhiều nghi lễ và trò chơi như: vật võ, múa sư tử, hát
trống quân, bơi thuyền, …
87. DINH CÔ (Long Đất, Bà Rịa, Vũng Tàu)
Được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, thờ trinh nữ Lê Thị Hồng được
nhân dân địa phương tôn vinh là Long Hải nữ thần.Qua những lần di
chuyển và tu sửa dinh Cô đã trở thành một công trình bề thế, tráng lệ và
nghiêm trang.Hàng năm, lễ hội diển ra từ ngày 10 đến 12 tháng hai â.l.
với những nghi lễ, nghi thức và trò chơi dân gian truyền thống của địa
phương, đặc biệt là lễ nghinh Cô ngoài biển với thuyền hoa lộng lẫy.
88. LỄ HỘI BÀ THU BỒN (Duy Xuyên-Quảng Nam)
Diễn ra vào ngày 12 tháng hai â.l. hàng năm, để tưởng niệm Bà Bô
Bô phu nhân, người Chăm, vị thần bảo trợ cho cộng đồng cư dân địa
phương. Ngoài nghi lễ tế thần, người ta còn tổ chức nhiều trò chơi dân
gian truyền thống như: đua thuyền, rước cộ, múa và hát bội,…
89. LỂ THÁI TÔNG (1423-1442)
Vua tên thật là Lê Nguyên Long, con thứ hai của Lê Thái Tổ, ở
ngôi 9 năm (1433-1442), niên hiệu: Thiệu Bình, Đại Bảo. Đại Việt sử ký
toàn thư viết: “Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế
quyền thần, bên ngoài đánh dẹp DI Địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa
thi chọn hiền sĩ; xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc
vua tài giỏi biết nối giữ cơ đồ”.
90. LÊ NHÂN TÔNG (1441-1459)
Vua tên thật là Lê Bang Cơ, con thứ của Lê Thái Tông, ở ngôi 17
năm (1442-1459), niên hiệu: Thái Hoà, Diên Ninh. Vua lên ngôi từ lúc
hai tuổi, nên chính sự đều do Tuyên Từ Thái hậu buông rèm nhiếp
chính. Đến khi vua 12 tuổi, Thái hậu trao quyền và lui về cung
riêng. Nhân Tông bị anh trai là Lê Nghi Dân sát hại khi 19 tuổi.
91. LÊ THÁNH TÔNG (1442-1497)
Vua tên thật là Lê Tư Thành, con trai út của Lê Thái Tông, ở ngôi

38 năm, niên hiệu: Quang Thuận, Hồng Đức. Lê Thánh Tông là vị vua
anh minh, hết lòng chăm lo việc nước, mở khoa thi kén chọn hiền tài,
khuyến khích nông nghiệp, mở rộng buôn bán, coi trọng bảo vệ biên giới
quốc gia, ban hành bộ luật nổi tiếng Luật Hồng Đức. Ông còn là một thi
sĩ, sáng lập Hội Tao đàn.

×