Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tóm tắt Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.01 KB, 10 trang )

Tóm tắt lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, 15 bộ lạc sinh sống tại vùng châu thổ
sông Hồng, sông Mã, miền bắc Việt Nam ngày nay thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà
nước đầu tiên của người Việt. Kinh đô đóng tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày nay). Vua nước
Văn Lang, tất cả 18 đời, đều xưng là Hùng Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng chiến chống lại quân Tần Thủy Hoàng (218-208), nhà
nước phong kiến Trung Quốc ở phương Bắc, Thục Phán lên làm vua nước Văn Lang xưng là
An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội)
làm kinh đô.
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ
Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà xâm lược. (Triệu Đà là
tướng quân của nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, ông ta nhân cơ hội chiếm phần đất do
mình được giao cai quản ở phía nam nước Tần lập nên nước Nam Việt. Còn nhà Tần thì bị nhà
Hán thay thế.) Nước Âu Lạc bị đô hộ mở đầu cho thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất
hận dài đằng đẵng hơn 1000 năm của dân tộc Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành các quận,
huyện của các nhà nước phong kiến phương Bắc (qua các triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn,
Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường của Trung Quốc). Trong thời gian này, tuy bị cai trị, bóc lột tàn
nhẫn, hà khắc nhưng nhân dân ta vẫn không những chẳng khi nào chịu khuất phục mà còn liên
tục vùng lên đấu tranh nhằm giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN, năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Nhưng
chỉ 3 năm sau. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.
Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ tay nhà Lương, xưng là Lý
Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế thua trận liên tục
phải rút về động Khuất Lão. Tại đây ông bị bệnh chết. Triệu Quang Phục lên thay. Triệu Quang
Phục lui quân về đầm Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Cuối cùng năm 550, Triệu Quang
Phục mới giành được thắng lợi, khôi phục nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến
năm 571, Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.


Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược của giặc, nước ta lại rơi vào tay
nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà Đường công nhận chính
quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán là một nước do Luu Ẩn, tướng của
nhà Hậu Lương cát cứ vùng đất Hoa Nam mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành
lập (nhà Lương cướp ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu nước ta lúc đó là Khúc
Thừa Mỹ không chống lại được, bị bắt sang Nam Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức
nhiều cuộc kháng chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo thành công. Ông được tôn làm Tiết
Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể
Dương Đình Nghệ khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên
vua Nam Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo đường thủy định phối
hợp với Kiều Công Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền
đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán lọt vào trận địa mai
phục của Ngô Quyền ở cửa sông Bạch Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận, quân
Nam Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan
toàn cho nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh hỗn lọan, tranh dành quyền lực
giữa các phe phái tướng lĩnh và con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn chết, các tướng lĩnh địa phương
thi nhau cát cứ. Đất nước bị chia cắt thành 12 sứ quân.
THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông đánh đâu thắng đấy nên đuợc dân
chúng tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh
Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.

Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều thần bắt giết Đỗ
Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ
chính được giao cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua còn nhỏ
tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm
lược. Được tin, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi báu cho Lê
Hòan để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành). Ông gấp rút tổ chức
lại bộ máy hành chính, chỉnh đốn quân đội chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt, và
tài mưu lược. Lê Hoàn đánh bại quân Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi báu. Lê Long Đĩnh thắng lên
làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông vua này rất thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng
dân chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người, Lý Công Uẩn tự xưng vua (Lý
Thái Tổ) lập ra triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông và Lý
Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội
ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung Quốc cho là cơ hội tốt
chuẩn bị lương thảo có ý xâm lược nước ta. Vì vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý
Thường Kiệt nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương “đánh phủ đầu” quân Tống để tự vệ trước bèn tập trung
10 vạn quân thủy bộ chia làm hai đường đánh sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ
trữ lương thảo hậu cần nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống đang chuẩn
bị để phục vụ cho cuộc xâm lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh Ung
Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau chính quyền Tống ở trung ương
mới biết được tin. Vua Tống lập tức chuẩn bị đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải
vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục đích và rút về nước cũng

là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân Tống còn chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem 30 vạn quân chia hai đường thủy,
bộ bắt đầu xâm lược nước ta và cũng là để trả thù cho sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa
điếm quyết chiến tại sông Như Nguyệt, xây dựng phòng tuyến phòng thủ tại bờ nam chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt và bị chặn đứng ở đó. Thế trận
giằng co kéo dài, binh Tống ngày một hao tổn do thiếu lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du
kích. cuối cùng quân Tống phải chấp nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý bắt tay xây dựng đất
nước và bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, bị chết yếu,…
quyền hành rơi vào tay ngọai tộc vốn lắm kẻ gian tham, bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý,
các quý tộc quan lại họ Trần nổi lên là một thế lực lớn có công giúp nhà Lý bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi. Quyền bính nằm
cả trong tay quan điện tiền Trần Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng mình là
Trần Cảnh (Trần Thái Tông), cháu của Trần Thủ Độ, khi ấy cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn
trong tay Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để “nhổ sạch rễ” họ nhà
Lý, củng cố địa vị cho họ Trần. Nhà Lý kết thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị, gây nhiều bất bình
trong dân chúng. Thậm chí còn gây nên mâu thuẫn lớn giữa một số người trong họ Trần. Tuy
nhiên, thế lực của Trần Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng cũng êm xuôi. Triều đại nhà
Trần dần phát triển và kéo dài 175 năm qua 12 đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Dương
Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế).
Triều Trần hưng thịnh nhất sau khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà Trần. Khi ấy Mông Cổ là một đại
đế quốc lớn nhất thế giới trong lịch sử có lãnh thổ bao gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái
Bình Dương cho tới Trung Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành trướng. “Vó ngựa Mông Cổ đi
tới đâu, nơi ấy cỏ cây không mọc được”. Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế họach bành
trướng xuống phía Nam của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt tới

Bạch Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì hợp lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các
tướng lĩnh lần đầu ra quân gặp cường địch, non kinh nghiệm đối phó với kỵ binh Mông Cổ nên
liên tiếp thua trận phải thi hành kế sách bỏ Thăng Long vườn không nhà trống rút về phía Nam
bảo tòan lực lượng chờ thời cơ, đồng thời để một số quân ở lại kết hợp với dân chúng quanh
vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến Thăng Long không cuớp bóc được nhiều của cải
lương thực để nuôi quân lại không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt mỏi, rối loạn đội ngũ, nhụt
nhuệ khí chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập kích doanh trại quân giặc. Quân
Mông Cổ hốt hoảng không kịp phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị giết rất nhiều. Đại quân
Trần truy sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra chặn đánh khắp nơi, quân Mông Cổ chạy về
Vân Nam (Trung Quốc) mà không có thời gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa
tháng Đại Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà Nguyên bên Trung quốc là do Hốt
Tất Liệt, em trai của đại hãn Mông Cổ Mông Kha, diệt nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng
nên. Vì vậy ta hay gọi quân Nguyên là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.
50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại Việt. Đích thân con trai Hốt Tất Liệt, thái
tử Thoát Hoan, chỉ huy hai đạo quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống,
đạo quân thủy do Toa Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai
Toa Đô đánh Chiêm Thành trước), phía nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa.
Vua Trần lúc này là Trần Nhân Tông cử Trần Quang Khải làm Thượng Tướng Thái Sư, Trần
Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba quân chống giặc.
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông của Thoát Hoan trước. Trần Nhật
Duật thì chặn cánh quân phía Tây do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi
nhà Trần vừa đánh vừa rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp…
Khi quân Nguyên tới Thăng Long thì vua Trần đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh
thành trống không như lần kháng Mông Cổ lần trước. Về Thiên Trường, Trần Quốc Tuấn cử
Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ Hoan Châu (Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa
Đô. Khi Thoát Hoan chiếm Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo quân ra lấy lại Vạn Kiếp
đánh sau lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người về nước xin thêm binh cứu viện.
Lúc đó, ở phía Nam, Trần Nhật Duật rồi Trần Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi Toa
Đô tiến vào đến Ái Châu (Thanh Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan ở Thăng Long nhưng

không được lại lui về Thiên Trường. Thoát Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân từ
Vạn Kiếp về Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương. Thoát Hoan đuổi theo sát
gót. Đồng thời Toa Đô cũng kéo quân thủy theo đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc
Tuấn sử dụng kế nghi binh dụ quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn mình đưa
vua Trần thoát vào Ái Châu theo đường bộ, thóat hiểm trong tíc tắc…
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân Nguyên vốn chỉ quen khí hậu
lạnh ở phương bắc bị bệnh dịch rất nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần
Quốc Tuấn chỉ chờ cơ hội như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật ,
Trần Quốc Tỏan, Nguyễn Khoái,… chặn đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử,
Chương Dương… Đích thân Trần Quốc Tuấn thì đánh lên Vạn Kiếp. Quả nhiên quân Nguyên
thất thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở Vạn Kiếp chạy cả về Thăng Long. Liên lạc giữa
hai cánh thủy bộ của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập trung đánh Thăng Long.
Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh. Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long định hội
quân với Thoát Hoan thì Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây Kết. Đến đây, Toa
Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô
Mã Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã
Nhi, Lưu Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra biển về nước, quân Trần bắt
sống được vài vạn tàn quân. Phía Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị quân Trần đón đánh
thì chạy sang Vạn Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã bố trí sẵn quân mai phục. Giữa
lúc quân Nguyên đang vượt sông Thương, quân Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể.
Thoát Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới thuộc Lạng Sơn,
quân Trần phục sẵn trên núi bắn tên xuống như mưa, Lý Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát
Hoan được hộ tướng giấu vào một vật dụng bằng đồng bỏ lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy
sống sót, chạy thoát về nước. Đại Việt sạch bóng quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để
báo thù. Lần này quân Nguyên cũng chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai
Lỗ vào theo hướng dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường biển vào sông
Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã
Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân Nguyên lúc này còn hăng hái

nên tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù
nên tung tăng đi trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã
Nhị họp quân với Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị
Trần Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền không
hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng Long. Trần Quốc Tuấn lại để
thành Thăng Long vườn không nhà trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua
Trần liền sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực tức bằng cách cho
quân cuớp bóc dân chúng, đốt phá nhà cửa, chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,..
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra
biển tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải
Phòng) thì bị đánh tơi bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã Nhi quay về Vạn Kiếp.
Vua Trần cho người mang theo tù binh bắt được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan
thông báo đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân Nguyên lo sợ vì
lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với
các tướng rút quân về nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo đường bộ
theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân
mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào trận địa
bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân Nguyên nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ,
Thoát Hoan cũng bị chặn đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới
Lạng Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung
Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được một thời gian dài ổn định và
phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu
hiện suy thoái. Vua quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã có lúc rơi vào tay ngọai
tộc, giặc giã nỗi lên như nấm, các nước lân cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua

×