LỜI MỞ ĐẦU
Từ thực tế quá trình phát triển nền kinh tế trong những năm qua đã chứng minh sự
đóng góp tích cực của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. FDI không phải là khái niệm mới, FDI được xem
xét với nhiều khía cạnh tích cực, nó không chỉ bổ sung nguồn vốn mà còn mang
đến cho những nước nhận đầu tư công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến, tạo thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, qua đó góp phần khai thác
tốt hơn các nguồn lực trong nước, thúc đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trái lại, FDI cũng đã và đang tạo ra
nhiều vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng trưởng và chất lượng
cuộc sống. Gần đây đã xuất hiện hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội,
trong đó nổi bật là chất lượng FDI thấp thiếu tính bền vững, ô nhiễm môi trường
trầm trọng gây ra không ít những ảnh hưởng xấu tới nước nhận đầu tư về cả mặt
kinh tế và xã hội. Những nước này đang phải đối mặt với những thách thức phức
tạp, đòi hỏi sự chuyển dịch sang một mô hình tăng trưởng bền vững, bảo vệ môi
trường, với việc thu hút nhiều hơn dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trong đó ngày càng quan tâm đến dòng vốn FDI “xanh”. Tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững phải song hành cùng nhau và đầu tư xanh là điều kiện tiên
quyết để thực hiện cả hai mục tiêu. Vì thế nhóm em quết định chọn đề tài “FDI
xanh hướng đến tăng trưởng xanh”
Vậy khái niệm FDI “xanh” là gì? Các tiêu chí gì để xác định tính “xanh” của một
dự án FDI?
FDI xanh là một chủ đề mới trên thế giới cả trong thực tiễn và trong nghiên cứu
khóa học. Việc xác định FDI nào là xanh, thân thiện với môi trường là việc không
dễ dàng. Do sự hạn chế về tài liệu ở cả nước ngoài và ở trong nước, và những khó
khăn trong việc xác định FDI xanh trong thực tiễn.
1
Chương 1: Tổng quan về FDI xanh và tăng trưởng xanh
I/ Khái quát về FDI, FDI xanh và tăng trưởng xanh:
1/ FDI:
1.1/ Khái niệm: Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund, IMF),
Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài (Foreign Direct Investment, FDI) Là một công cuộc
đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct investor)
đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối
thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
1.2 / Các hình thức FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới các dạng sau:
Phân theo hình thức đầu tư.
- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là hình thức đầu tư mà các bên tham gia
bao gồm: một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước ký kết thỏa
thuận đế tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà
trên cơ sở quy định rõ về đối tượng, nội dung kinh doanh, trách nhiệm và phân
phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra
đời một tư cách pháp nhân mới nào.
- Hình thức công ty hay doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp hay liên doanh được
thành lập giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà trong đó các bên cùng góp vốn,
cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ vốn góp .
- Hình thức doanh nghiệp 100%vốn từ nước ngoài: Đây là doanh nghiệp do các nhà đầu
tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu hoàn toàn về trách
nhiệm kinh doanh
- Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực hiện
những họp đồng xây dựng - vận hành - chuyến giao (B.O.T). Những dự án B.O.T
thường được chính phủ các nước đang phát triến tạo mọi điều kiện thuận lợi để
thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Phân theo bản chất đầu tư.
- Đầu tư mới (Greenfiel investment): là hình thức đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ
sở sản xuất kinh doanh mới hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh đã tồn tại
ở nước tiếp nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
- Mua lại và sáp nhập(M&A): là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh
nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này
2
mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không
nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
Phân theo tính chất dòng vốn.
- Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần do một công ty trong
nước phát hành ở một mức đủ lớn đế có quyền tham gia vào các quyết định quản lý
của công ty.
- Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh trong quá khứ đế tái đầu tư tại nước chủ nhà
- Vốn vay nội bộ hay giao dịch nội nội bộ: Thể hiện mối quan hệ giữa các chi nhánh hay
công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay
mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
Phân theo động cơ của nhà đầu tư.
- Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên, lao động rẻ ,dồi dào và sẵn có ở nước tiếp nhận.
- Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh
doanh thấp ở nước tiếp nhận để thu được lợi nhuận cao hay thực hiện các hoạt
động kết nối đế có các sản phẩm xuyên biên giới hoặc chuyên môn hóa quy trình
sản xuất
- Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ
thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất; đôi khi hình thức đầu tư này còn
nhằm tận dụng các mối quan hệ họp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước
và khu vực khác làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
- Vốn tìm kiếm tài sản chiến lược: Được thực hiện mua lại hoặc liên minh đế thúc đẩy
các mục tiêu kinh doanh dài hạn
1.3/Vai trò: Hoạt động FDI có tình hai mặt với nước đầu tư cũng như nước tiếp
nhận đầu tư đều có tác động tiêu cực và tác động tích cực.
+Trước hết đối với nước đi đầu tư( nước chủ nhà) FDI có vai trò chủ yếu
sau:
Tác động tích cực
Do đầu tư là người nước ngoài là người trực tiếp điều hành và quản lí vốn
nên họ có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Vì thế
họ có đảm bảo hiệu quả của vốn FDI. Đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường
tiêu thụ sản phẩm nguyên liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đâù tư
cũng như trên thế giới. Do khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao
động rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được
3
lợi thế kinh tế của quy mô từ đó có thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản
phẩm. Tránh được các hàng rào bảo hộ mâu dịch và phí mậu dịch của nước tiếp
nhận đầu tư với thông qua FDI chủ đầu tư hay doanh nghiệp nước ngoài xây dựng
được các doanh nghiệp của mình nằm trong lòng nước thì hành chính sách bảo hộ.
Tác động tiêu cực
Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nứơc sẽ
mất đi khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng
như giải quyết việc làm. do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái, vì thế
mà nước chủ nhà không đưa ra những chính sách khuyên khích cho việc đầu tư ra
nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro
hơn trong môi trường mới về chính trị, sự xung đột vũ trang của các tổ chức trong
các quốc gia hay những tranh chấp nội bộ của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự
thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia tiếp nhận… tất cả những điều
đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rời vào tình trạng mất tài sản cơ sở hạ
tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về chính trị cũng như
trong chính sách và môi trường kinh tế.
+Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì hoạt động FDI có tác động:
Tác động tích cực
Nhờ nguồn vốn FDI đầu tư mà có thể có điều khiến tốt để khai thác tốt nhất
các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí. Bởi các nước tiếp nhận thì thường
là nước đang phát triển có tài nguyên song không biệt cách khai thác.
Tạo điều kiện để khai thác được nguồn vốn từ bên ngoài do không quy định
mức vốn góp tối đa mà chỉ quyết định mức vốn góp tối thiểu cho nhà đầu tư.
Thông qua việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài hay cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài và tiếp thu được kỹ thuật công nghệ hiện đại hay tiếp thu
được kính nghiệm quản lí kinh doanh của họ.
Tạo điều kiện để tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn
cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, qua đó nâng cao đời
sống nhân dân.
Khuyến khích doanh nghiêp trong nước tăng năng lực kinh doanh, cải tiến
công nghệ mới nâng cao năng suất chất lượng giảm giá thành sản phẩm do phải
cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, một mặt khác thông qua hợp tác với nước
ngoài có thể mở rộng thị trường thông qua tiếp cận với bạn hàng của đối tác đâù tư.
Tác động tiêu cực
4
Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, có thể đầu tư tràn lan kém hiệu
qua, tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác bừa bại về sẽ gây ra ô nhiễm môi
trường nghiệm trọng
Môi trường chính trị trong nước có thể bị ảnh hưởng, các chính sách trong
nước có thể bị thay đổi do khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư thường có các biện
pháp vận động quan chức địa phường theo hướng có lợi cho mình.
Hiệu quả của đầu tư phụ thuộc vào nước tiếp nhận có thể tiếp nhận từ các
nước đi đầu tư những công nghệ thiết bị lạc hậu không phù hợp với nền kinh tế gây
ô nhiễm môi trường.
Các lĩnh vực và địa ban đầu tư phục thuộc vào sự lựa chọn của nhà đầu tư
nước ngoài mà không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Do vậy việc bổ trí cơ cấu
đầu tư sẽ gặp khó khắn sẽ tạo ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng.
Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước do quá trình cạnh tranh nên nhiều
doanh nghiệp trong nước bị phá sản. hay ảnh hưởng tới can cần thành toán quốc tế
do sự di chuyển của các luồng vốn cũng như luồng hàng hoá ra vào trong nước.
Ngày này hầu hết việc đàu tư là của các công ty đa quốc gia vì thế các nước
tiếp nhận thường bị thua thiệt, thất thu thuế hay các liên doanh sẽ phải chuyển
thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do các vấn đề chuyển nhượng giá nội bộ
của các công ty này.
2/ FDI xanh:
2.1/Khái niệm :
Trước hết, cần có một cách hiểu cơ bản về đầu tư xanh. Đầu tư xanh là một khái
niệm rộng, nó có thể là một hoạt động độc lập, hoặc là một nhánh của mô hình đầu
tư cao hơn, hoặc có liên quan tới hoạt động đầu tư vì môi trường, phát triển bền
vững,…
FDI xanh là một phạm trù nằm trong đầu tư xanh. Theo OECD (2011), FDI xanh
được hiểu theo 2 khía cạnh: 1) đó là FDI đầu tư vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ
môi trường, 2) đó là FDI đầu tư vào lĩnh vực khắc phục những tổn hại môi trường,
sử dụng năng lượng sạch hoặc tiêu hao ít năng lượng.
Tuy nhiên, việc xác định FDI xanh nói riêng và đầu tư xanh nói chung có nhiều
hạn chế. Vấn đề là rất khó khăn để xác nhận chính xác dự án đầu tư nào thể hiện và
chuyển giao các công nghệ sạch hơn và cách đo lường các dòng vốn đầu tư đó.
Rất nhiều hàng hóa và dịch vụ có thể được sử dụng trong nhiều hoạt động khác
nhau, một số hoạt động có thể có tác động “xanh” trong khi số khác lại ngược lại.
Các doanh nghiệp sản xuất rất hàng hóa và dịch vụ, chỉ số ít trong đó có thể coi là
5
“xanh”. FDI đầu tư vào một ngành sản xuất có thể bao hàm những hàng hóa hay
dịch vụ “xanh” nhưng khó có thể tách biệt được đâu là phần FDI tích lũy trong các
sản phẩm đó. Bên cạnh đó, sản phẩm phù hợp môi trường, được coi là “xanh”
nhưng có thể quá trình sản xuất chúng lại tạo ra nhiều rác thải hoặc tiêu hao nhiều
năng lượng. Cuối cùng, các báo cáo thống kê của các quốc gia về FDI trong các
công nghiệp và dịch vụ cũng không chi tiết và thuận lợi cho việc xác định và phân
tích về tính “xanh”.
Việc định nghĩa FDI xanh có thể dựa trên mức độ đáp ứng của dự án đầu tư với các
quy định về môi trường của nước chủ nhà hoặc với các tiêu chuẩn quốc tế. Nói
cách khác, dự án FDI có thể được coi là “xanh” nếu dự án đó thân thiện với môi
trường hơn các dự án đầu tư nội địa trong cùng lĩnh vực, xét trên các yếu tố đầu ra
như cường độ tiêu thụ năng lượng, khí thải carbon, rác thải, ô nhiễm không khí và
nước,…
Tóm lại, FDI xanh có thể hiểu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp bảo
vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, có thể xuất hiện trong bất kỳ lĩnh vực công
nghiệp hay dịch vụ nào. Dòng vốn này được các công ty nước ngoài đầu tư vào các
dự án thân thiện môi trường cũng như thiết lập một hình thức đầu tư sạch hơn, hiệu
quả hơn trong quá trình sản xuất. Một số lĩnh vực tiềm năng mà FDI “xanh” có thể
tham gia như: năng lương tái tạo, nông nghiệp, lâm nghiệp, xử lý rác thải, quản lý
và xử lý nước, thị trường phác thải khí carbon…
2.2/Phân Loại FDI Xanh:
Dựa trên sự định nghĩa của OECD (2011), có thể chia FDI xanh theo 2 loại hình
đầu tư nhỏ hơn là FDI sạch và FDI hàm lượng carbon thấp (low-carbon FDI –
LCF).
a) FDI sạch được hiểu là một loại đầu tư trực tiếp mà cần thiết phải hướng đến sự
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, trước hết phải đáp ứng các yêu cầu về bảo
vệ môi trường và lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội.
-Về lĩnh vực môi trường: FDI sạch nhằm hưởng tới mục tiêu bảo vệ môi trường,
khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống
cháy và chặt phá rừng, khai thác tài nguyên bừa bãi.
-Về lợi ích kinh tế, đối với nước đầu tư phải nhận được các lợi ích về nguồn
lao động và nguyên vật liệu rẻ hơn, tạo ra được lợi nhuận trong quá trình đầu tư.
Các nước tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền
6
vững, phát triển sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, công nghiệp hóa,
phát triển nông nghiệp - nông thôn bền vững, phát triển công nghiệp sạch.
-Về lợi ích xã hội, FDI sạch nhằm hướng tới tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng giáo dục,
nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe
b) Low-carbon FDI chính là hoạt động chuyển giao công nghệ, nghiệp vụ hoặc sản
phẩm từ các TNCs (công ty xuyên quốc gia) sang nước nhận đầu tư thông qua hình
thức FDI giúp làm giảm lượng phát thải nhà kính (Greenhouse Gases – GHG)
nhiều hơn. Theo đó, low-carbon FDI được chia thành ba nhóm như sau:
Các loại low-carbon FDI Ví dụ
Đầu tư vào quá trình sản xuất nhằm
giảm khí nhà kính
- Quy trình sản xuất tiết kiệm năng
lượng
- Quy trình và thiết bị giảm lượng
phát thải khí nhà kính
- Sử dụng kỹ thuật xanh trong xây
dựng
Đầu tư vào năng lượng sạch
- Năng lượng mặt trời
- Năng lượng gió
- Sản xuất thủy điện
- Năng lượng nham thạch
Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và
cơ sở vật chất để sản xuất các sản
phẩm giúp giảm GHG cũng như
cung cấp các dịch vụ liên quan
- Nghiên cứu hiệu quả năng lượng và
tái chế
- Sản xuất pin mặt trời, cối xay gió
- Sản xuất các sản phẩm tiết kiệm
năng lượng như ô tô chạy bằng điện,
bóng đèn tiết kiệm điện
- Dịch vụ công nghệ
- Dịch vụ xử lý chất thải
2.3/Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút dòng vốn FDI xanh
Thứ nhất là cơ chế chính sách thu hút đầu tư nước ngoài: Chính sách đầu
tư nước ngoài là một bộ phần trong các chính sách phát triển kinh tế- xã hội để
điều chỉnh các hoạt động đầu tư quốc tế của một quốc gia trong một thời kì nhất
định nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội của quốc gia đó. Có thể thấy rằng trong mọi thời kì kinh tế chính sách khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề tiên quyết khi chủ đầu tư quyết định
7
đầu tư, một chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các chủ đầu tư tiến hành đầu tư trên địa bàn và ngược lại, một chính sách khuyến
khích đầu tư bất hợp lý sẽ tạo rào cản lớn, tạo môi trường đầu tư không thuận lợi
đối với các chủ đầu tư. Ví dụ như: Đối với chính sách quản lý ngoại tệ, nếu một
quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả nổi theo thị trường dẫn tới sự thay
đổi liên tục của tỷ giá hối đoái tùy theo nhu cầu thị trường, do đó các chủ đầu tư có
tâm lý rụt rè, lo sợ trong hoạt động đầu tư trực tiếp tại quốc gia đó nhưng nếu quản
lý trên nguyên tắc thả nổi có điều tiết hoặc cố định sẽ tạo tâm lý yên tâm hơn cho
chủ đầu tư nước ngoài. Hay đối với chính sách thương mại, nếu như hạn ngạch
xuất nhập khẩu thấp và các rào cản thương mại khác sẽ gây khó khăn cho các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi vì hầu hết các dự án FDI khi đi vào hoạt dộng
đều liên quan tới xuất nhập khẩu: xuất nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu, sản phẩm….sẽ gây ra một tâm lý không tốt cho chủ đầu tư. Ngoài ra, các
chính sách thuế, chính sách ưu đãi và các chính sách vĩ mô khác cũng tác động
không nhỏ tới sự di chuyển vốn của FDI. Do đó để thu hút được dòng vốn FDI
trước hết chúng ta đòi hỏi cần có cơ chế chính sách thông thoáng, khuyến khích
đầu tư để thu hút và giữ chân nhà đầu tư , cần kết hợp hài hòa giữa các hoạt động
quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các chính sách tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ hai là chính sách môi trường : Chính sách về môi trường hiện nay đang là
mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài bởi
lẽ trong những năm trở lại đây mặt trái của dòng vốn FDI ngày càng thể hiện rõ nét, nó đã
gây ra khá nhiều hệ lụy tới môi trường kinh tế xã hội của con người như:ô nhiễm
môi trường nặng nề, kéo dài và không thể tính hết, gây ra tình trạng sử dụng lãng
phí đất đai, thất thoát tài sản công và tài nguyên quốc gia, nhất là đất nông nghiệp,
đất ven biển. Vì vậy, nhiều quốc gia đã đưa ra các chính sách quá khắt khe về điều
kiện môi trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhất là đối với các nước phát
triển đã gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư, nhưng bên cạnh đó một số nước đang
phát triển vì mục đích tăng trưởng kinh tế lại thu hút FDI một cách ồ ạt mà không
quan tâm tới vấn đề môi trường cho nên đã có hiện tượng một số nước lớn có ý đồ
và trên thực tế đang tiến hành nhiều dự án khai thác tài nguyên, di dời sang những
nước này các ngành công nghiệp không thân thiện với môi trường và phát thải
nhiều khí các bon; nếu không cảnh giác thì “lợi bất cập hại”, khó lường trước hậu
quả tiêu cực xảy ra và gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đe dọa môi trường
8
sống của người dân địa phương và để lại những hệ quả xấu tới sự phát triển bền
vững của quốc gia.
Thứ ba là môi trường đầu tư: Một trong những mục đích của các nhà đầu
tư khi tiến hành đầu tư tại một nước nào đó là khai thác lợi thế so sánh môi trường
đầu tư của nước chủ nhà ở tất cả các mặt : Kinh tế, chính trị, văn hóa , xã hội. Một
môi trường đầu tư thuận lợi sẽ đảm bảo được sự an toàn , khả năng sinh lời cao của
lượng vốn mà chủ đầu tư đã bỏ ra cho nên sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài , lúc này nước chủ nhà có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn được dòng
vốn FDI sạch. Do vậy mà để có được nguồn vốn FDI sạch đòi hỏi các nước tiếp
nhận đầu tư phải có một môi trường đầu tư thông thoáng, mở cửa đồng thời cũng
phải có hệ thống pháp luật chặt chẽ bằng cách ban hành chính sách xúc tiến đầu tư,
biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư, giảm các tiêu cực phí, cải cách thủ tục hành
chính để nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao các dịch
vụ tiện ích xã hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài,
các dịch vụ hậu đầu tư và quy định rõ ràng các tiêu chuẩn về môi trường, các chế
tài xử lý các vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và kéo dài, các chuẩn mực
pháp lý giải quyết xung đột quyền lợi giữa chủ và thợ, để dễ dàng trong việc
kiểm soát hoạt động đầu tư.
Thứ tư là môi trường cạnh tranh trong nước và thế giới: Sức ép từ môi
trường cạnh tranh trong nước và trên thế giới đòi hỏi chủ đầu tư phải luôn cải biến
công nghệ, áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến để tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của con người, gia tăng mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp .
Do đó tạo điều kiện cho nước tiếp nhận đầu tư tiếp cận với những máy móc tiên
tiến , hiện đại trên thế giới, mở rộng tầm nhìn cho người lao động để học hỏi , tìm
hiểu về khoa học tiến bộ của nhân loại.Bên cạnh đó, hiện nay uy tín nhãn hiệu
quyết định khá lớn tới khả năng tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp luôn cạnh
tranh gay gắt để tạo một chỗ đứng vững chắc cho mình trên thị trường. Với mức
sống ngày càng cao, con người ngày càng quan tâm hơn tới môi trường sống, do
vậy mà việc sử dụng các nhãn hiệu hàng hóa thân thiện môi trường đang là xu
hướng tâm lý chung của người tiêu dùng.
Thứ năm là tâm lý của nhà đầu tư: Việc quyết định bỏ vốn đầu tư hay
không, đầu tư trong bao lâu , hình thức đầu tư như thế nào phụ thuộc rất lớn cách
nhìn nhận của chủ đầu tư đối môi trường của nước tiếp nhận đầu tư. Nó gắn liền
với trách nhiệm của chủ đầu đối với nước chủ nhà . Nếu chủ đầu tư có tầm nhìn
9
mang tính dài hạn thì chắc chắn tính trách nhiệm, tự giác trong việc thực thi đúng
luật ,bảo vệ môi trường là rất cao. Bởi lẽ khi doanh nghiệp hoạt động trong dài hạn
thì sẽ phải chịu sự chi phối rất lớn của luật pháp tại nước chủ nhà, nếu thực thi
không đúng thì nước tiếp nhận đầu tư có quyền thu hồi giấy phép hoạt động , gây
ra tổn thất lớn cho doanh nghiệp, và ngược lại, đối với các chủ đầu tư có tầm nhìn
mang tính ngắn hạn , do chỉ tồn tại ở nước tiếp nhận trong thời gian ngắn nên các
doanh nghiệp này có thể có những chiêu lách luật mà chỉ đến khi doanh nghiệp
khấu hao hết và về nước thì cơ quan chức năng nước chủ nhà mới phát hiện được ,
bỏ lại hậu quả nặng nề mà nước tiếp nhận đầu tư phải gánh chịu.
Thứ sáu là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước: Quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thu hút FDI bởi quá trình
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là quá trình luân chuyển vốn quốc tế, việc hội nhập
sẽ giúp cho quá trình này diễn ra nhanh hơn tạo điều kiện cho các nước tiếp nhận
vốn đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Khi gia nhập
các tổ chức trên thế giới, với những cam kết chung đòi hỏi phải mở cửa nền kinh
tế, giảm bớt các rào cản đối với hoạt động động đầu tư nước ngoài. Cho nên không
thể tránh khỏi được tình trạng FDI chảy vào nhiều hơn, khó kiểm soát hơn gây ra
những ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Do đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách
phải có những sáng kiến mới để vừa đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế cao vừa loại
bỏ các tác nhân xấu gây hại tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế trong quá
trình sàng lọc FDI .
3/ Khái niệm tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng
trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ
tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần
xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền
vững.
Tại Việt Nam, chương trình Tăng trưởng xanh được cụ thể hóa qua “Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” với
những nội dung chủ yếu sau đây:
Quan điểm, mục tiêu của chiến lược
Quan điểm
10
-Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo
phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần thực hiện chiến lược quốc
gia về biến đổi khí hậu.
- Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
- Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng
hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao
chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp
với điều kiện Việt Nam.
- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các
Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
Mục tiêu
Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở
thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng
khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Chương 2: Tác động Của FDI xanh đến tăng trưởng ở việt
nam và khu vực duyên hải Nam Trung Bộ
I/ Tác động Của FDI đến tăng trưởng và sự xanh hóa dòng vốn FDI
ở Việt Nam
Tác động tích cực
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn FDI vào Việt Nam đã
chính thức vượt mốc 20 tỷ USD trong năm 2013, một con số ấn tượng trong giai
đoạn khó khăn chung của nền kinh tế thế giới. Chủ yếu là các nước: Nhật Bản
26,6%, Singapore20,2% và hàn quốc 19,9%.
Tính chung trong 12 tháng đầu năm 2013 tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm
là 21,628 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm 2012. Đồng thời, đã có 446 lượt
dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,036 tỷ USD,
tăng 26,9% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung trong 11 tháng đầu năm 2013
11
tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 20,815 tỷ USD, tăng 54,2% so với cùng
kỳ năm 2012
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
So với mục tiêu đặt ra (13-14 tỷ USD), con số 21,628 tỷ vốn FDI thu hút
được cả năm 2013 thực sự là một điểm sáng nổi bật. Bởi vì, số vốn này các nhà
đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực. Dẫn đầu là công nghiệp chế
biến, chế tạo. Tiếp đến là sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa; kinh doanh
bất động sản.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2013, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và
tăng thêm vào Việt Nam là 21,628 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm 2012.
Đóng góp vào con số này, phần lớn số vốn mới cấp phép tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghệ cao (chiếm gần 77% tổng vốn).
Điểm đáng mừng là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực dẫn
đầu thu hút nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 16,636
12
tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Con số này chứng tỏ môi trường
đầu tư vẫn hấp dẫn. Trong tương lai, từ dòng vốn này, có sự tăng cường công tác
quản lý, sẽ góp phần quan trọng tác động lan tỏa trong nền kinh tế - xã hội nước ta,
nhất là chuyển giao công nghệ, trước hết là trong công nghiệp chế biến, chế tạo.
Hơn nữa, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, song song cần nhiều lao động,
đòi hỏi chất lượng lao động, kỷ luật lao động ngày càng tăng. Đây sẽ là một cơ hội
để việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chuyển dần từ bị thúc ép sang tự giác
đáp ứng nhu cầu để thích nghi.
Đứng thứ hai trong thu hút FDI năm qua là lĩnh vực sản xuất, phân phối
điện, khí, nước, điều hòa, với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là
2,031 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Sự gia tăng dòng vốn FDI vào
lĩnh vực này, vừa có lợi trong việc đa dạng hóa đích đến của dòng vốn FDI cho nền
kinh tế, vừa ngày càng góp phần quan trọng vào thúc đẩy thị trường cạnh tranh,
giảm giá thành sản phẩm, gia tăng lợi ích cho người tiêu dùng.
Đứng thứ 3 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản có tổng vốn đầu tư đăng ký
cấp mới và tăng thêm là 951 triệu USD. Mặc dù thị trường bất động sản còn rất
nhiều khó khăn, thậm chí nhiều dự báo cho rằng chưa dễ “ấm lại” trong năm 2014.
Tuy nhiên, với vị trí thu hút đầu tư này, chứng tỏ thị trường này vẫn có nhiều tiềm
năng đáng kỳ vọng. Dòng vốn FDI đầu tư vào sẽ là một động lực quan trọng để
hâm nóng thị trường
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Nguồn vốn được đầu tư theo 6 hình thức: 100% vốn nước ngoài, liên doanh,
hợp đồng họp tác KD, công ty cổ phần, hợp đồng BOT, BT, BTO, công ty mẹ con.
về phía nước ngoài, hình thức 100% vốn nước ngoài với ưu điểm toàn quyền trong
việc điều hành và quản lí doanh nghiệp của mình kết họp với việc thành lập các
13
doanh nghiệp hình thức 100% vốn nước ngoài ít bị hạn chế sau năm 1997 nên
càng được ưa chuộng và số lượng doanh nghiệp hình thức này gia tăng nhanh,
luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu. Theo số liệu từ 1988- đầu 2011, hình thức 100% vốn
nước ngoài có 9.635 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 120,48 tỷ USD, chiếm
78,44% về số dự án và 61,98% tổng vốn đăng ký. Hình thức liên doanh có 2.220
dự án với tổng vốn đăng ký 60,35 tỷ USD, chiếm 18,07% về số dự án và 31,05%
tống vốn đăng ký. Hình thức Họp đồng hợp tác kinh doanh có 223 dự án với tổng
vốn đăng ký 5,05 tỷ USD. số còn lại với tỉ lệ khiêm tốn thuộc các hình thức khác
như công ty cổ phần, BOT( Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao),
BT( Hợp đồng xây dựng - chuyển giao), BTO(Hợp đồng xây dựng - chuyển giao -
kinh doanh), công ty mẹ con.
Tỷ trọng đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào GDP tăng dần qua các
năm và đạt khoảng 19% GDP vào năm 2011, đóng góp 14,2 tỷ USD cho thu ngân
sách giai đoạn 2001 - 2010. Riêng năm 2012, khu vực này đóng góp cho thu ngân
sách khoảng 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách.
Sự gia tăng mạnh mẽ của vốn đầu tư nước ngoài thực hiện được thể hiện rõ
nét qua các thời kỳ. Từ khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã
hội giai đoạn 1991-2000 đã tăng lên 69,47 tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư
xã hội giai đoạn 2001-2011. Tỷ trọng khu vực đầu tư nước ngoài trong cơ cấu kinh
tế giai đoạn 2000-2011 tăng 5,4%.
Khu vực này đã tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3-4 triệu lao
động gián tiếp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động,
góp phần thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ cả về máy móc, thiết bị, tri thức và
kinh nghiệm quản lý; thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; đổi mới
thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; xây dựng và hoàn thiện
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của Việt Nam. Trong khu vực công nghiệp
và xây dựng, tốc độ tăng trưởng của khu vực đầu tư nước ngoài bình quân đạt 18%
năm, cao hơn tốc độ tăng chung toàn ngành. Trong khu vực nông - lâm - ngư
nghiệp, đầu tư nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng
hóa sản phẩm, nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu… Trong dịch vụ, đầu tư nước
ngoài đã tạo nên một số ngành dịch vụ chất lượng cao như viễn thông, du lịch
quốc tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán,…
Ngoài ra, luồng vốn FDI còn góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Chủ trương
14
khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt
Nam trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu. Qua đó, giúp Việt Nam từng bước
tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Cụ thể, trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực FDI mới chỉ đạt 45,2% tổng
kim ngạch, kể cả dầu thô. Thế nhưng, từ 2003, xuất khẩu của khu vực này đã bắt
đầu vượt khu vực doanh nghiệp trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc
đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012.
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
theo chiều hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần
tỷ trọng hàng chế tạo.
Cũng nhờ có khu vực này nên đã tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường
xuất khẩu, nhất là sang Mỹ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Mỹ rở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Khu vực FDI còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu
thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do
doanh nghiệp trong nước sản xuất, thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Hạn chế
Tuy nhiên, theo thống kê hiện nay, có tới 67% doanh nghiệp hoạt động ở Việt
Nam có giá trị gia tăng thấp, chưa kích thích được nền kinh tế. Tính trung bình trên
cả nước, FDI chiểm tỉ trọng cao nhất trong ngành linh kiện và điện thoại,chỉ
khoảng 5% nhà đầu tư tham gia vào sản xuất công nghệ hiện đại như ngành công
nghệ thông tin và truyền thông, khoảng 5% khác tham gia vào dịch vụ khoa học,
kỹ thuật; 3,5% tham gia vào ngành bảo hiếm, tài chính có kỹ năng quản lí hiện đại,
lao động trình độ cao. Lượng FDI thu hút vào Việt Nam là rất cao song chất lượng
FDI lại thấp, đóng góp cho nền kinh tế có thể bị hạn chế do hành vi ảnh hưởng tới
môi trường tài nguyên, do hành vi trốn thuế hay làm tăng tình trạng nhập siêu,
không tạo được tính lan tỏa trong nền kinh tế nội .
Tỷ lệ lớn các dự án được đầu tư bộc lộ các đặc điếm tiêu cực ngày càng đậm
nét và cần sớm nhận biết và ngăn chặn, mà nối bật là:
Gây ra những hệ quả ô nhiễm môi trường nặng nề, kéo dài và không thế tính
hết. Theo số liệu thống kê của bộ Tài nguyên và môi trường, trong số hơn 100 khu
công nghiệp ở Việt Nam có đến 80% đang vi phạm các quy định về môi trường,
trong số 5.625 doanh nghiệp hoạt động theo nguồn vốn FDI mới chỉ có 250 doanh
15
nghiệp tại Việt Nam thực hiện các biện pháp sản xuất sạch hơn và đều thông qua
các dự án hỗ trợ (số liệu năm 2009).
Gây ra tình trạng sử dụng lãng phí đất đai, thất thoát tài sản công và tài
nguyên quốc gia, nhất là đất nông nghiệp, đất ven biển và tước đoạt công ăn việc
làm, cùng những hệ quả đa dạng, nhiều đời cho người nông dân mất mộng, mất
sinh kế truyền thống, như các dự án về sân golf, xây dựng khu nghỉ dưỡng - du
lịch
Gây ra những đe dọa tiềm tàng cho an ninh quốc gia, và toàn vẹn lãnh thổ,
như những dự án trồng rừng vùng biên giới và khai thác tài nguyên những vùng đất
chiến lược về quân sự khác đã được cảnh báo và phản biện xã hội khá nhiều trong
thời gian gần đây.
Biến VN thành bãi thải công nghệ và máy móc lạc hậu, gánh chịu tốn thất tài
chính to lớn để khắc phục và thay thế, kéo dài tình trạng lạc hậu và kém hiệu quả
của nền kinh tế, móc túi người tiêu dùng trong nước do mua phải hàng hóa chất
lượng kém với giá cao và giảm nguồn thu NSNN;
Ngoài ra, có nhiều dự án FDI đầu tư mang tính chụp giựt, trả lương thấp
hoặc vi phạm các yêu cầu, quy định bảo vệ người lao động VN; cũng như còn tình
trạng các DN có vốn đầu tư nước ngoài liên kết ép giá, lũng đoạn thị trường, thực
hiện các hành vi hối lộ, làm tăng tình trạng tham nhũng gây tốn hại cho lợi ích
người lao động, người tiêu dùng và sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Trước thực trạng đó, trong những năm trở lại đây chính phủ và các cơ quan
ban ngành các tỉnh, thành phố cũng đã có những chính sách khắt khe hơn trong quá
trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điến hình là xu hướng rút giấy phép
đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang gia tăng tại Việt Nam, đặc biệt trong bối
cảnh các chủ đầu tư gặp khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Dầu
biết rằng việc rút giấy phép những dự án lớn sẽ là một thiệt thòi cho sự tăng trưởng
kinh tế địa phương mình nhưng các tỉnh, thành phố vẫn riết rao thực hiện bởi sự
phát triến bền vững nền kinh tế nước nhà . Do đó, hiện nay còn rất nhiều địa
phương khác đã và đang thực hiện chính sách này đối với các dự án đầu tư nước
ngoài không đảm bảo hệ thống xử lý chất thải công nghiệp, an toàn lao động, hay
không có đủ khả năng tài chính Trước những báo động nghiêm trọng về ô nhiễm
môi trường , thay vì dễ dãi như trước đây, xu hướng hiện nay là các tỉnh thành đã
soi kĩ hơn đối với dòng vốn FDI. Có thế nói rằng Việt Nam đã và đang quan tâm
nhiều hơn tới việc kiểm soát dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó
các hoạch định chính sách của chính phủ chưa thực sự bịt được hết các lỗ hổng
16
nhất là khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì bắt buộc các
rào cản về đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được dỡ bỏ đã gây khó khăn trong quá
trình thu hút dòng vốn FDI sạch. Trên thực tế hiện nay vẫn còn nhiều dòng vốn
FDI ‘chưa sạch’ đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam mà khó có thế phát hiện
được bởi các thủ đoạn che dấu khá tinh vi của chủ đầu tư nước ngoài. Mặc dù các
biện pháp của nhà nước không giải quyết được vấn đề này một cách triệt đế song
không thể phủ nhận nỗ lực chính phủ và các cơ quan trong quá trình thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài để có được những dòng vốn FDI thực sự sạch đúng với ý
nghĩa thực tế của nó nhằm đảm bảo cho một đất nước Việt Nam phát triển bền
vững trong tương lai.
II/ FDI xanh hướng đến tăng trưởng xanh ở vùng duyên hải Nam
Trung Bộ.
Vùng duyên hải miền gồm 8 tỉnh là Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định và 4 tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ gồm Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, với diện tích tự nhiên là 49.409,7 km2, chiếm
14,93% diện tích cả nước.
Dân số trung bình theo thống kê năm 2012 là 10,09 triệu người, chiếm
11,36% dân số cả nước, mật độ bình quân là 204,4 người/km2
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2012, tính theo giá hiện hành, của Vùng
là 310.213,4 tỷ đồng, chiếm 9,56% so với GDP của cả nước.
Nguồn: Tổng cục Thống kê (đơn vị: người)
Năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn chiếm 3,89% so với cả
nước.
Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của 9 tỉnh trong 6 tháng năm 2014
17
đạt 4,154 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,38 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,778 tỷ
USD. Tổng mức xuất siêu của 9 tỉnh đạt trên 600 triệu USD.
Đà Nẵng, Khánh Hòa, Quảng Nam ghi nhận hoạt động ngoại thương nhộn nhịp
nhất, trong đó Đà Nẵng và Quảng Nam đã nhập siêu lần lượng 4,1 triệu USD và
120 triệu USD trong 6 tháng năm 2014
Nguồn: Tổng cục Thống kê (đơn vị:triệu USD)
Biểu đồ về tăng trưởng ngành nông - lâm - thủy sản, công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ của 9 tỉnh cho thấy mức tăng trưởng khá so với cả nước. Đáng chú
ý, mảng dịch vụ ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ của 5/9 tỉnh đạt trên 10%.
Nhìn chung mức tăng từ 8,44%-11,5% là những con số ấn tượng.
Trong khi đó, mảng công nghiệp-xây dựng cũng tăng trưởng khá, riêng chỉ
có Quảng Ngãi ghi nhận mức sụt giảm 17,8% do nhà máy lọc dầu Dung Quất tạm
ngừng hoạt động để bảo dưỡng.
Trong 9 tỉnh nêu trên, Ninh Thuận tạo dấu ấn khi cả 3 chỉ tiêu đều tăng
mạnh, từ 9,59-18,06%
Nguồn: Tổng cục Thống kê (đơn vị: %)
18
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010
STT Địa phương Số dự án
Tổng vốn đăng ký (Triệu
USD)
1 Bình Định 40 621,50
2 Đà Nẵng 177 2789,31
3 Khánh Hòa 61 766,83
4 Quảng Nam 77 5064,59
5 Quảng Ngãi 25 4354,45
6 Phú Yên 54 8094,63
7 Thừa Thiên - Huế 69 1668,17
Tổng cộng 511 23.359,48
Trong tổng số dự án FDI thu hút vào toàn Vùng giai đoạn 2007 – 2010, thì
Đà Nẵng dẫn đầu với 56 dự án, thấp nhất là Khánh Hòa với 5 dự án, các tỉnh còn
lại đều chỉ ở mức khoảng 20 dự án. Trong các năm của giai đoạn này thì năm 2007
là năm thu hút FDI của Vùng có bước phát triển mạnh mẽ, đạt gần 3,3 tỷ USD nhờ
vào sự xuất hiện của một số dự án lớn như Nhà máy lọc dầu Vũng Rô (Phú Yên)
hợp tác của Anh và Nga trị giá 1,7 tỷ USD; Trung tâm thương mại VinaCapital tại
Đà Nẵng 325 triệu USD; Khu phức hợp resort cao cấp của Singapore (Thừa Thiên
Huế) 276,25 triệu USD; Daewon Cantavil (Đà Nẵng) 250 triệu USD… Như vậy,
có thể thấy rằng các dự án đầu tư FDI tại khu vực Duyên hải miền Trung chủ yếu
tập trung vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ và công nghiệp – xây dựng theo
đúng định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Vùng nói chung và từng địa
phương trong Vùng nói riêng.
Với mong muốn thu hút thật nhiều vốn đầu tư để phục vụ cho phát triển kinh
tế - xã hội, nhưng các địa phương chủ trương không thu hút đầu tư bằng mọi giá
mà nỗ lực thu hút một cách có chọn lọc, có định hướng, phù hợp với đặc thù, tiềm
năng, định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình,
- Đà Nẵng: định hướng thu hút đầu tư vào các ngành nghề có hàm lượng công
nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như điện tử, công nghệ thông tin, công nghiệp xử lý
môi trường, vật liệu mới, cơ khí chính xác, thiết bị đo lường chính xác, các ngành
công nghiệp sạch, công nghiệp phụ trợ; đồng thời thu hút đầu tư trong các lĩnh vực
dịch vụ mũi nhọn như du lịch, bất động sản, y tế, giáo dục, dịch vụ cảng biển, sân
19
bay, ngân hàng, tài chính, bưu chính viễn thông, chuyển giao công nghệ tư vấn đầu
tư, bảo hiểm, thông tin thị trường.
- Quảng Nam: định hướng đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng các khu công
nghiệp, khu thương mại tự do; xây dựng và kinh doanh khu đô thị mới, khu biệt
thự, khu chung cư cho công nhân; xây dựng các trung tâm phát triển nguồn nhân
lực; chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng thủ công mỹ nghệ; các ngành công nghiệp
sạch, công nghệ cao, công nghệ sinh học…
- Quảng Ngãi: định hướng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, chế biến
nông, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc,
giày da, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, thủy điện, phong điện, khai
thác khoáng sản; và hai ngành dịch vụ then chốt là du lịch và thương mại.
- Bình Định: tập trung thu hút đầu tư vào các ngành chế biến nông, lâm, thủy sản,
sản xuất máy thủy và thiết bị hậu cần nghề cá, sản xuất lắp ráp điện – điện tử, đóng
tàu, gốm mỹ nghệ xuất khẩu, dệt may, giày dép, đồ nhựa dân dụng và công nghiệp,
công nghệ nhuộm và phủ bề mặt đá ốp lát, nhà máy điện địa nhiệt cùng với dịch vụ
du lịch và thu mua xuất khẩu thủy sản trên biển.
- Phú Yên: tập trung thu hút đầu tư trong lĩnh vực chế biến nông sản, hoa quả xuất
khẩu, chế biến bột giấy, sản xuất ván ép nhân tạo, sản xuất muối và sản phẩm sau
muối, may mặc, sản xuất linh kiện điện tử, lắp ráp đồ dùng điện, điện tử gia dụng,
khai thác và chế biến Diatomite, sản xuất phân vi sinh, thăm dò, khai thác chế biến
vàng, khai thác và làm giàu quặng Bauxit, sản xuất gạch Ceramic, cơ khí, đầu tư và
kinh doanh dịch vụ và du lịch…
- Khánh Hòa: đầu tư phát triển du lịch, xây dựng cảng và kinh doanh dịch vụ hàng
hải, đóng và sửa chữa tàu thuyền, khai thác và chế biến khoáng sản, phát triển
ngành sợi, dệt may, cơ khí, điện tử, tin học, hóa nhựa, sản xuất vật liệu xây dựng,
sành sứ, thủy tinh cao cấp, chế biến giấy và đồ hộp hoa quả.
Chương 3: Giải pháp thu hút FDI sạch vào Việt Nam nói chung và
khu vực duyên hải nam trung bộ nói riêng:
Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý FDI xanh.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường. Cần phải có một hệ thống
quản lý theo ngành dọc thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác bảo vệ
môi trường ở từng cơ sở, trong và ngoài khu công nghiệp. Ngoài việc cụ thể hóa
những qui định pháp luật và xem xét tính hợp lý của một số chỉ tiêu về môi trường,
cần nâng cao hiệu lực của Luật Bảo vệ môi trường. Các cơ quan quản lý cần cung
20
cấp đầy đủ thông tin pháp luật cho các doanh nghiệp FDI, và tư vấn cho doanh
nghiệp về thực thi pháp luật môi trường.
· Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư FDI xanh và sạch. Dựa trên một số
tiêu chí cơ bản để đánh giá một doanh nghiệp thực hiện giải pháp môi trường tốt
nhất như:
– Vận hành với các chuẩn môi trường cao mang tính toàn cầu.
– Tích cực gắn kết với các đối tác địa phương.
– Chuyển giao kỹ năng và công nghệ thân môi trường tới đối tác tại nước chủ nhà.
– Đảm bảo để nước chủ nhà nhận được những lợi ích hợp lý trong FDI, đặc biệt
trong các lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên.
Các cơ quan quản lý FDI cũng như quản lý môi trường cần tham khảo danh sách
hướng dẫn do Tổ chức Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF) xây dựng, nhằm
xác định hành vi thực hiện giải pháp môi trường tốt nhất của doanh nghiệp FDI.
· Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và sự tham gia của xã hội. Trong lĩnh
vực FDI bền vững môi trường, vai trò của Chính phủ thường thể hiện ở hai khía
cạnh là tạo lập chính sách và trọng tài trong các xung đột môi trường giữa hoạt
động công nghiệp và người dân nhằm kiểm soát chống ô nhiễm môi trường và bảo
vệ điều kiện sống của con người.
· Thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội. Trong bảo vệ môi trường
đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy vai trò của cộng đồng và các tổ chức xã hội dân sự
có tầm quan trọng trong việc hài hòa lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Theo
xu hướng trên thế giới hiện nay, người tiêu dùng có thể tạo áp lực buộc các doanh
nghiệp FDI phải quan tâm nhiều hơn đến kết quả môi trường của mình. Cộng đồng
dân cư nơi có doanh nghiệp FDI hoạt động có thể tạo sức ép với doanh nghiệp để
họ nâng cao chất lượng môi trường của mình.
· Thu phí hoặc thuế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Để xây dựng
một cơ chế phát triển bền vững, nhiều nghiên cứu đã đề nghị phải lồng ghép chi
phí môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia , nghĩa là phải đánh giá bằng tiền
tệ đối với sự suy thoái môi trường như gây ô nhiễm và làm cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên. Khi đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, chính
phủ có một số lựa chọn để cân nhắc nhằm cân bằng giữa nhu cầu có một môi
trường sạch hơn với các chi phí kinh tế của việc làm sạch môi trường.
· Quy định giới hạn ô nhiễm. Trong thời gian tới Việt Nam cần phải thực hiện
giải pháp kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường bằng cách ban hành hạn ngạch ô
nhiễm, quy định lượng khí thải được thải ra môi trường đối với các doanh nghiệp.
Để thực hiện được điều này đòi hỏi Việt Nam cần có một đội ngũ chuyên gia về
môi trường để có thể xác định được lượng khí thải nào và khối lượng bao nhiêu
được phép thải ra môi trường. Bên cạnh đó là một tổ chức thực sự minh bạch để
không xảy ra những tiêu cực trong vấn đề mua bán, cấp phép hạn ngạch.
· Giải pháp trong quy trình đầu tư FDI.
21
Trong lựa chọn đối tác đầu tư. Cần ưu tiên chọn những đối tác doanh nghiệp FDI
từ những nước phát triển có các chuẩn môi trường cao, nơi có qui định chặt chẽ về
công tác môi trường. Những doanh nghiệp này, ngoài khả năng sử dụng các công
nghệ sạch, thường áp dụng các biện pháp quản lý môi trường tốt hơn, còn có thể
gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động FDI và nền kinh tế nước chủ nhà, đặc biệt là thông
qua quá trình chuyển giao tri thức và công nghệ sạch cho các nhà thầu phụ địa
phương. Cần thể chế hoá các công cụ kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp FDI
có thái độ thân thiện hơn với môi trường, nếu không doanh nghiệp chỉ thực hiện
không vi phạm những qui định về tiêu chuẩn môi trường, mà không cố gắng tìm
cách giảm tổng lượng chất thải và áp dụng các giải pháp phòng ngừa hiệu quả.
Trong khâu cấp phép đầu tư, cần chú ý chỉ cấp phép cho các dự án khai thác tài
nguyên thiên nhiên nào có công nghệ cao, trình độ quản lý tốt và có uy tín, hạn chế
tối đa việc cấp phép cho những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng đầu tư vào Việt Nam như dự án sản xuất giấy, thép… , những dự án không
phù hợp với quy hoạch phát triển của Việt Nam, tạo dư thừa công suất quá lớn mà
khó có triển vọng khai thác sử dụng. Trong khâu quy hoạch đầu tư, cần phải quy
hoạch theo tính toán tăng trưởng của thu nhập trong nước, sự phát triển FDI để tính
ra dung lượng thị trường cho sản phẩm từ đó đưa ra một số lượng dự án hợp lý.
· Giải pháp về xúc tiến đầu tư. Cần tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư cho các
nhà đầu tư nước ngoài nhằm cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, đồng thời
tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với các nhà đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam về
môi trường đầu tư của VN.
Để FDI “sạch hơn”, chúng ta cần thiết phải có cái nhìn khách quan hơn ở nhiều
góc độ khác nhau đối với hiệu quả của dòng vốn này mang lai cho nền kinh tế đất
nước để từ đó có cách ứng xử phù hợp hơn nhằm đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng
bền vững nền kinh tế VN.
Kết Luận
FDI xanh là một đề tài rất mới trong cả thực tiễn và nghiên cứu khoa học, do
đó các công trình được chọn để tổng thuật tài liệu đã tiếp cận một phần nào đến
FDI xanh. Dựa trên sự tham khảo các tài liệu, bài viết này đã đưa ra một khái niệm
khái quát về FDI xanh và phân loại.
Để FDI “sạch hơn”, chúng ta cần thiết phải có cái nhìn khách quan hơn ở
nhiều góc độ khác nhau đối với hiệu quả của dòng vốn này mang lai cho nền kinh
22
tế đất nước để từ đó có cách ứng xử phù hợp hơn nhằm đáp ứng cho nhu cầu tăng
trưởng bền vững nền kinh tế VN.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về phương pháp luận và tài liệu, nhóm vẫn chưa
thể chỉ ra được các tiêu chí cụ thể để xác định chính xác dự án nào là dự án FDI
xanh và phương pháp khả thi và hiệu quả có thể đo lường được quy mô dòng vốn
này. Vì lượng kiến thức chưa được đầy đủ để có thể bao quát hết tất cả các nội
dung, do đó trong quá trình thực hiện nhóm sẽ không thể tránh khỏi những sai sót.
Vì vậy, nhóm mong nhận được sự góp ý, bổ sung của giảng viên và các bạn để đề
tài được hoàn thiện hơn
Tài liệu tham khảo
/>pht-tri%E1%BB%83n-b%E1%BB%81n-v%E1%BB%AFng-nn-kinh-t%E1%BA
%BF-vi%E1%BB%87t-nam/
/> />den-phat-trien-ben-vung.htm
Niên giám thống kê
23