Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.04 KB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu, tệ nạn ma túy là một hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Trong
đó, nhiều quốc gia đang phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do tệ
buôn lậu ma túy và nghiện ma túy gây ra cho đời sống kinh tế - xã hội. Ma
túy làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, tàn phá cuộc sống gia đình,
gây xói mòn đạo lý, làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt
nguồn nhân lực và tài chính, lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh
tế - xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người. Nghiêm trọng hơn, ma
túy là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lây nhiễm đại dịch thế
kỷ HIV/AIDS trên toàn cầu.
Do siêu lợi nhuận và lợi dụng tự do hóa thương mại, chính sách mở cửa
thu hút đầu tư của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, bọn tội
phạm ma túy tiến hành mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất, buôn bán ma túy
kết hợp với rửa tiền. Các nhóm vũ trang móc nối với bọn buôn lậu ma túy và
khủng bố quốc tế để sản xuất ma túy làm nguồn tài chính phục vụ ý đồ chính
trị và khủng bố quốc tế.
Năm 2006, Hiệp định AFTA về tự do hóa thương mại giữa các nước
ASEAN có hiệu lực, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), đặc biệt là từ năm 2010, khi cộng đồng ASEAN xây dựng nhiều thiết
chế trong quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch… con đường xuyên Á, hành
lang kinh tế Đông - Tây mở, việc đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất, buôn
bán, dịch vụ giữa các nước Đông Nam Á cùng các nước trên thế giới sẽ diễn
ra rất sôi động. Đây là thời cơ thuận lợi để tội phạm ma túy lợi dụng hoạt
động, làm gia tăng tình hình buôn bán và sử dụng ma túy ở trong nước.
Tệ nạn ma túy đang diễn biến phức tạp ở các nước trong khu vực nói
chung, ở Việt Nam nói riêng, hàng năm số người nghiện ma túy ở nước ta vẫn
1
tăng bình quân 11%. Tính đến hết năm 2006, toàn quốc có khoảng 140.000
người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng hơn 50% so với năm 2000. Song
song với những biện pháp quyết liệt chống tội phạm buôn bán ma túy, Nhà


nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện, giúp cho những
người nghiện ma túy có thể cắt cơn, phục hồi sức khỏe, hành vi và nhân cách
để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục hồi tuy đạt được
một số kết quả bước đầu, nhưng tính hiệu quả và sự bền vững còn hạn chế, tỷ
lệ tái nghiện còn cao.
Tạo việc làm cho người nghiện ma túy sau khi được chữa trị, phục hồi
là một trong những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã hội,
nhằm giúp đối tượng trở về cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác phòng chống tệ nạn ma túy. Chủ trương này thể hiện rõ trong các văn
bản chỉ đạo của Đảng và Chính phủ như Chỉ thị 33-CT/TW, Chỉ thị 06-CT/TW,
Nghị quyết 06/CP của Chính phủ và gần đây nhất là Chỉ thị 21-CT/TW, ngày
26/3/2008 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
Trên thực tế, việc giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy sau khi
được chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế. Hàng năm, số đối tượng được tạo
việc làm ở cộng đồng chỉ chiếm khoảng 10% số đối tượng được chữa trị, phục
hồi. Ngoài những khó khăn khách quan của nền kinh tế thị trường, nguyên
nhân của tình trạng này còn do nhận thức, trách nhiệm của chính quyền, đoàn
thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp xã, cộng đồng, khu phố,
thôn xóm ít quan tâm. Bản thân đối tượng và gia đình họ còn có tư tưởng ỷ lại
xã hội, không nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có
cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh
tế - xã hội tham gia giải quyết việc làm cho đối tượng.
Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm có thu nhập
ổn định không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện
mà còn là yêu cầu thiết yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hòa nhập cộng
2
đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu
cấp thiết ở nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma túy để giúp họ

thực sự tái hòa nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở thành người có
ích cho xã hội.
Để góp phần nhỏ bé vào yêu cầu chung đó, tôi chọn đề tài "Giải pháp
hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay"
làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiờn cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan tới vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề
tài sau:
Nhóm đề tài về việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị
trường:
- Đề tài cấp nhà nước 70A.02.02 "Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc
làm ở Việt Nam", Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Đề tài cấp nhà nước KX-04-04: "Luận cứ khoa học cho chính sách
giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần", của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp Nhà nước KX-07-05-05: "Những đặc trưng và xu hướng
biến đổi của cơ cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự
báo và kiến nghị", do Tiến sĩ Nguyễn Đình Tấn - Giám đốc Trung tâm Xã hội
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài "Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội", Luận án tiến sĩ kinh
tế Trần Văn Tuấn, Hà Nội, 1995.
- "Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp" của Phó tiến sĩ
Nguyễn Quang Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
3
- "Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 -2010" của Tiến sĩ
Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lao động xã hội, 2001.
- Đề tài "Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực
tế ở Hà Nội", Luận án tiến sĩ kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
Nhóm đề tài về tổ chức cai nghiện, quản lý sau cai nghiện và tạo việc

làm cho người sau cai nghiện ma túy:
- "Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2010", Ủy
ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm,
Hà Nội, 2002.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố "Nghiên cứu các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai" 02-X07 của
Tiến sĩ Nguyễn Thành Công, Hà Nội, 2003.
- Báo cáo "Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ
về cai nghiện - phục hồi", Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Báo cáo "Tổng kết công tác cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 -
2005, phương hướng nhiệm vụ thời kỳ 2006 - 2010", Ủy ban Quốc gia phòng,
chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Hà Nội, 2006.
- Tài liệu "Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu
quả", Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với
những cách tiếp cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, các tài liệu đề cập chưa nhiều tới vấn đề việc làm và
giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện, chưa có công trình khoa học
nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho những người
sau cai nghiện ma túy trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo
được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình.
4
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các
công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở một số địa phương, tôi
có thể rút ra một số vấn đề lý luận để đề xuất giải pháp hỗ trợ tạo việc làm
cho những người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận

về tác động tiêu cực của tệ nạn ma túy tới đời sống kinh tế - xã hội, sự cần
thiết phải tổ chức và quản lý sau cai nghiện ma túy và đề xuất giải pháp hỗ trợ
tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma túy ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về ma túy, sử
dụng ma túy, cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy; lý luận về
hỗ trợ tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện, góp phần hạn chế và khắc
phục tác động tiêu cực của tệ nạn ma túy đối với kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma túy ở nước ta.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho
người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nhân tố tác động tới tạo việc làm cho
người sau cai nghiện ma túy, trọng tâm là cách thức tổ chức quản lý, cơ chế,
chính sách của cơ quan quản lý nhà nước các cấp trong hỗ trợ tạo việc làm
cho người sau cai nghiện.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài nghiên cứu về vấn đề hỗ trợ tạo việc làm cho những
người sau cai nghiện ma túy có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: nghiên cứu thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho những
người sau cai nghiện ma túy từ năm 2001 đến năm 2007; đề xuất giải pháp
cho những năm tiếp theo.
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu số liệu tổng hợp của các cơ quan
quản lý có liên quan về hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy
và tiến hành khảo sát các mô hình điểm ở một số địa phương trong cả nước.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước. Các lý thuyết về tệ nạn xã hội và tội phạm của E. Durkheim,
W. Weber… và vấn đề việc làm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các tài liệu nghiên cứu đã có, số liệu tổng hợp, thống kê và
một số đề tài nghiên cứu khoa học, điều tra khảo sát của Cục phòng chống tệ
nạn xã hội - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, của Văn phòng Thường
trực phòng chống ma túy - Bộ Công an, cũng như các báo cáo tổng kết của
địa phương, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, khái quát hóa
đồng thời tiến hành một số cuộc điều tra khảo sát tại các trung tâm, phường,
xã nhằm mục đích minh họa.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về ma túy, sử
dụng ma túy, cai nghiện ma túy, nguyên nhân và tác hại của sử dụng ma túy, tái
6
nghiện, quản lý sau cai nghiện, tái hòa nhập cộng đồng và hỗ trợ tạo việc làm
cho những người sau cai nghiện ma túy. Hệ thống các giải pháp khả thi, hiệu quả
cho người sau cai nghiện nhằm nhân rộng các mô hình trong cả nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
quản lý nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn về tạo việc làm
cho người sau cai nghiện, phù hợp với điều kiện, và tình hình ở mỗi địa
phương, góp phần đẩy mạnh công tác phòng chống ma túy, làm giảm tỷ lệ tái
nghiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MA TÚY, VIỆC LÀM
VÀ HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA
TÚY
1.1 . MA TÚY VÀ TÁC HẠI CỦA NGHIỆN MA TÚY ĐỐI VỚI KINH TẾ -
XÃ HỘI
1.1.1 . Một số khái niệm liên quan đến ma túy
* Ma túy
Thuật ngữ "ma túy" xuất hiện ở Việt Nam ban đầu có ý nghĩa là chỉ
thuốc phiện, về sau còn được hiểu là các cây cần sa, cô ca và các loại thuốc
tân dược gây nghiện khác. Có ý kiến giải thích thuật ngữ "ma túy" đó là vì các
chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái. Nó chữa được một số bệnh có
hiệu quả cao và làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, đồng thời làm cho
con người mê mẩn, ngây ngất và túy lúy. Và như vậy, thuật ngữ "ma túy"
được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và túy lúy.
Chương trình kiểm soát ma túy quốc tế của Liên hợp quốc (UNDCP)
năm 1991 đã xác định: "Ma túy là những chất độc có tính gây nghiện, có
nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập và cơ thể con người thì có tác
dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc
vào chúng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng" [67];
theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), "Ma túy là bất kỳ chất gì mà khi đưa vào cơ
thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể" [67].
Từ các quan niệm nêu trên, có thể nêu khái niệm như sau: ma túy là
những chất có nguồn gốc từ tự nhiên hay nhân tạo và khi dùng không được
8
chỉ dẫn có thể gây nghiện, làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người
cũng như sự ổn định và phát triển của cộng đồng.
* Nghiện ma túy

Khi dùng ma túy lần đầu, người ta thấy có cảm giác lâng lâng, dễ chịu
và thèm muốn dùng lại. Ma túy vào cơ thể vài lần sẽ tác động đến cơ quan
cảm thụ, gây trạng thái quen thuốc, nếu không dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau
đớn, vật vã…, thèm muốn được dùng lại và trở nên nghiện ma túy. Do đó,
nghiện ma túy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là tình trạng một bộ phận
trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma túy. Còn theo
nghĩa hẹp thì nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các
chất ma túy, làm cho con người ta không thể quên và từ bỏ được ma túy.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về "nghiện ma túy", nhưng
chưa có một khái niệm đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), "nghiện ma túy là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính
có hại cho cá nhân và xã hội do dùng lặp lại một chất ma túy tự nhiên hay
tổng hợp" [67].
Tổ chức DAYTOP quốc tế định nghĩa: nghiện ma túy là tình trạng rối
loạn cơ thể con người về các mặt sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi do
người đó sử dụng lặp đi lặp lại một hoặc nhiều loại ma túy từ tự nhiên hay
tổng hợp.
* Người nghiện ma túy
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: người nghiện ma túy là người
sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần dưới các hình thức
khác nhau như hút, hít, tiêm chích và bị lệ thuộc vào các chất này. Từ khái
niệm nghiện ma túy có thể rút ra cách hiểu về người nghiện ma túy như sau:
người nghiện ma túy là người bị lệ thuộc đối với các chất ma túy và không thể
quên hay từ bỏ được ma túy. Nếu ngừng sử dụng thì người nghiện sẽ xuất
hiện hội chứng cai.
9
Như vậy, có thể hiểu người nghiện ma túy theo các cách định nghĩa
khác nhau, nhưng điểm cơ bản là người sử dụng lặp lại nhiều lần một chất ma
túy tự nhiên hay tổng hợp và bị lệ thuộc vào nó, không thể quên hay từ bỏ
được nó.

* Cai nghiện ma túy
Đó là biện pháp giúp người nghiện ma túy thông qua chữa trị để từ bỏ
ma túy, phục hồi sức khỏe tinh thần và tái hòa nhập cộng đồng. Thực chất
"cai nghiện ma túy" là quá trình giải quyết sự rối loạn ba yếu tố của người
nghiện (trạng thái sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi).
Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: cai nghiện là một biện pháp tổng hợp
gồm các tác động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức… nhằm điều trị
giúp người nghiện ma túy cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khỏe và
tái hòa nhập xã hội.
* Tái nghiện ma túy
Quá trình nghiện ma túy đã tạo cho người nghiện luôn có phản xạ nhạy
cảm với ma túy, nên dù đã cắt cơn nhưng có thể sau 4 - 5 năm, hễ cứ nhìn
thấy ma túy, ngửi hơi ma túy, tiếp xúc với người nghiện, thậm chí nói đến tên
loại ma túy quen dùng, là cơn thèm khát ma túy lại bùng lên dữ dội, khó có
thể kiềm hãm được. Vì vậy, khi ra khỏi các trung tâm cai nghiện, người cai
trở lại sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của môi
trường xã hội còn chưa trong sạch ma túy dẫn đến khả năng tái sử dụng ma
túy là rất cao. Việc tái sử dụng ma túy chính là tái nghiện ma túy và theo
PGS,TS Nguyễn Xuân Yêm thì:
Tái nghiện được hiểu là một đối tượng nghiện ma túy đã được
gia đình, chính quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục,
chữa trị cai nghiện để trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội. Thế
nhưng vì một lý do nào đó họ đã không kiềm chế được những ham
10
muốn cá nhân, những suy nghĩ lệch lạc nên lại tiếp tục sử dụng các
loại chất ma túy, người ta gọi trường hợp này là tái nghiện [70].
Ranh giới giữa tái sử dụng ma túy (tái nghiện) và dứt khoát đoạn tuyệt
với ma túy là rất mong manh. Chính vì vậy, công việc phòng, chống tái
nghiện khi người cai hòa nhập cộng đồng là một việc làm tất yếu phải được
thực hiện.

1.1.2 . Nguyên nhân của nghiện và tái nghiện ma túy
Nghiện và tái nghiện ma túy là một hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra
do nhiều nguyên nhân khác nhau.
 Nguyên nhân nghiện
Nguyên nhân chủ quan do lối sống buông thả, ăn chơi, đua đòi.
Đó vừa là nguyên nhân dẫn đến nghiện ma túy, vừa là một nguyên
nhân của tái nghiện. Người nghiện vốn do có lối sống sai lệch, nhiều thói
quen xấu nên mắc vào nghiện ngập và trở thành thói quen khó bỏ, thậm chí
khi đã cai nghiện được một thời gian ở trung tâm trở về tái hòa nhập cộng
đồng, người nghiện vẫn giữ những thói quen đó. Thói quen sử dụng ma túy
lại càng khó từ bỏ đối với người nghiện bởi ma túy đã ăn sâu vào não người
nghiện mà trong thời gian ngắn chưa thể xóa hết được. "Thực tế cho thấy đã
có những người cai được trong thời gian từ 20 - 30 năm nhưng vẫn tái nghiện
trở lại" [66]. Môi trường tái hòa nhập cộng đồng của người nghiện vẫn còn
những điều kiện xấu tồn tại xung quanh và nếu lối sống lành mạnh không
đủ sức hút thì khả năng tái nghiện là rất lớn, thậm chí việc tái nghiện hoàn
toàn có thể
xảy ra.
Nguyên nhân khách quan do môi trường xã hội.
Hiện nay khả năng cung về ma túy vẫn rất lớn, chúng ta chỉ ngăn chặn,
bắt giữ được một lượng rất nhỏ, còn lại hầu hết ma túy vẫn đang trôi nổi, tồn
11
tại trong xã hội, nó luôn sẵn sàng đáp ứng cho người có nhu cầu. Bọn tội
phạm tiếp tục buôn bán cái chết trắng vẫn hiện diện khắp nơi. Chừng nào còn
những tên tội phạm này - kể cả bọn buôn ma túy xuyên biên giới với số lượng
tính bằng hàng chục, hàng trăm kg hê rô in lẫn bọn bán lẻ từng tép thì khó có
thể nói đến việc ngăn chặn tình trạng tái nghiện, càng không thể ngăn ngừa
những con người thiếu bản lĩnh trở thành những con nghiện mới. Những con
nghiện mới xuất hiện và trở thành gánh nặng và nỗi khổ đau cho nhiều gia đình
và xã hội

Ma túy mang lại những món siêu lợi nhuận cho người buôn bán nó.
Chính vì vậy, đã có rất nhiều kẻ bất chấp luật pháp, đạo đức để lao vào phạm
tội buôn bán ma túy. Lực hút của đồng tiền từ buôn bán ma túy đã khiến cho
nhiều kẻ không cần để ý đến những hình phạt cao nhất mà luật pháp quốc tế
cũng như luật pháp của mỗi nước dành cho tội phạm về ma tuý. Lợi dụng
điểm yếu là sự lệ thuộc vào ma túy của những người nghiện ma túy vẫn chưa
hết khi họ từ trung tâm cai nghiện trở về tái hòa nhập cộng đồng nên bọn
buôn bán ma túy tìm mọi cách rủ rê, lôi kéo để người nghiện sau cai phải tái
sử dụng ma túy, với hình thức ban đầu là cho không thuốc nhưng khi đã
nghiện lại thì chúng bắt phải mua hoặc phải giúp chúng tiêu thụ ma túy.
 Nguyên nhân tái nghiện
Nguyên nhân chủ quan từ bản thân người nghiện.
Tái nghiện có xảy ra hay không xảy ra được quyết định trực tiếp, cuối
cùng bởi người nghiện sau cai. Tại sao những người đã có hiểu biết về tác hại
của ma túy qua quá trình trải nghiệm của bản thân, qua sự giáo dục, tư vấn tại
các trung tâm lại dễ dàng nghiện trở lại các chất ma túy? Nguyên nhân thuộc
về người nghiện bao gồm:
+ Bị lệ thuộc về tâm lý vào các chất ma túy:
Quá trình nghiện ngập trước khi đi cai ở các trung tâm đã gây ra sự rối
loạn cho người nghiện ma túy cả về thể chất cho đến nhận thức, hành vi, hay
12
chính là mất cân bằng cả về thể chất và tinh thần. Cai nghiện ma túy giúp cho
người nghiện từ bỏ được hội chứng cai, loại bỏ một phần sự mất cân bằng chứ
không xóa được sự lệ thuộc về tâm lý, ý thức. Hành vi sử dụng lại các chất
ma túy là biểu hiện rõ ràng nhất sự lệ thuộc đó, nó giống như một phương
thức mà người nghiện tìm đến để xóa đi trạng thái mất cân bằng. Sau khi cai,
cách suy nghĩ, hành vi của người nghiện vẫn còn bị ảnh hưởng rất đậm nét
bởi ma túy. Theo nhận định của hội đồng chuyên viên về lạm dụng ma túy của
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì:
Sự lệ thuộc vào chất ma túy trước hết và chủ yếu là sự lệ

thuộc về mặt tâm thần… trong một thời gian dài tất cả những phản
ứng hàng ngày của não bộ đối với ma túy nhất là đối với các thụ thể
đặc hiệu đều được lưu dấu vết vào bộ nhớ của não và hình thành
một phản xạ có điều kiện kiên cố không thể nào xóa bỏ được. Do
đó, cái thèm và nhớ các cảm giác dễ chịu, sảng khoái do ma túy
đem lại có cơ sở vững chắc tại các tế bào thần kinh, tồn tại tiềm
tàng và thường xuyên trong não. Bởi vậy khi gặp một kích thích gợi
nhớ chất ma túy, các dấu vết của phản xạ có điều kiện được hoạt
hóa, xung động thèm chất ma túy xuất hiện trở lại và thúc đẩy
người nghiện quay về với chất ma túy…đói ma túy trường diễn hay
sự lệ thuộc về mặt tâm thần là khó khăn trở ngại lớn nhất trong điều
trị nghiện ma túy hiện nay [61].
Loại bỏ sự lệ thuộc tâm lý đòi hỏi một quá trình điều trị lâu dài gắn với
cuộc đời người nghiện, trong thời gian đó, phải tạo cho họ được sống trong
môi trường không có ma túy, chăm sóc giúp đỡ thường xuyên…tức là tạo ra
các yếu tố bảo vệ để phòng chống tái nghiện.
+ Tò mò muốn thử các chất ma túy:
Sự lệ thuộc về tâm lý tạo ra ở người nghiện cảm giác tò mò muốn thử
lại. Khi thèm nhớ, người nghiện tưởng tượng đến các cảm giác đê mê, ngây
13
ngất do ma túy mang lại. Trong thời gian cai nghiện tại các trung tâm, cảm
giác thèm nhớ các chất ma túy vẫn luôn tồn tại, lúc lắng xuống, lúc mạnh mẽ
tùy theo trạng thái tâm lý của người nghiện: khi họ cảm thấy buồn bực, đau
đớn, thất vọng thì cảm giác thèm ma túy tăng lên, tương tự như khi họ quá
phấn khích, vui vẻ. Trở về với cộng đồng, nếu không được sống trong một
môi trường cách ly với ma túy, không được sự quan tâm, giám sát, giúp đỡ
của gia đình, chính quyền, người đã cai rất dễ tái nghiện. Báo cáo kết quả điều
tra người nghiện ma túy năm 2001 cho biết, tỷ lệ nghiện ma túy (bao gồm cả
tái nghiện ma túy) do tò mò, tìm khoái lạc ở một số địa phương như sau: Sơn
La (55,8%), Hà Giang (44,44%) [15]…

Cũng về nguyên nhân tò mò dẫn đến sử dụng ma túy, Báo cáo tình hình
lạm dụng ma túy ở Việt Nam của UNDCP có đề cập: tò mò và xã giao chơi
bời là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sử dụng ma túy (60%).
Những con số đó lưu ý chúng ta về các giải pháp phòng chống tái
nghiện ma túy, phải làm cho người nghiện sau cai có đủ tự tin, nghị lực và
hiểu biết để vượt qua sự thèm nhớ, tò mò muốn sử dụng lại ma túy.
* Người nghiện không đủ can đảm và nghị lực để đoạn tuyệt với sự lôi
kéo của những bạn bè xấu. Với những thói quen cũ, người nghiện vẫn tiếp tục
giao du với những bạn bè trước đây và đa số những người bạn này là những
người có nhu cầu và thói quen giống người nghiện. Vì thế mà nguy cơ tái
nghiện ma túy bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra với người sau cai.
Nguyên nhân khách quan
* Do bạn bè rủ rê
Các đối tượng nghiện nhưng chưa cai nghiện hoặc người đã tái nghiện
trước, những người buôn bán các chất ma túy luôn tìm cách lôi kéo, rủ rê để
người cai nghiện trở lại sử dụng ma túy và trở thành tái nghiện. Báo cáo kết
quả điều tra người nghiện ma túy năm 2001 đã làm rõ: bị rủ rê là nguyên nhân
14
chính dẫn tới nghiện ma túy của các đối tượng (63,5%) [15]. Tái nghiện vì
nguyên nhân này lại cao là do bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội, trong đó có quan hệ bạn bè. Bạn bè đóng vai trò rất lớn trong cuộc
sống của mỗi cá nhân. Hành động của mỗi cá nhân dù tốt hay xấu đều tìm
thấy dấu ấn của những người bạn anh ta. Hành vi sử dụng trở lại các chất ma
túy không nằm ngoài nhận xét đó. Sau khi được cai nghiện, trở về với cộng
đồng, mọi cái dường như đều trở nên mới lạ, gần gũi nhất với người sau cai
lúc này là gia đình và bạn bè của họ. Bạn bè của người nghiện chủ yếu là bạn
tiêm chích cũ, có người đã cai nghiện, có người chưa cai, có người tái nghiện.
Sự tiếp xúc, giao lưu với những người bạn nghiện cũ khiến họ gợi nhớ những
cảm giác do ma túy đem đến. Trong hoàn cảnh đó, nếu một người bạn của
người đã cai sử dụng ma túy, "khoe" ma túy hay mời chào sử dụng ma túy…

thì vấn đề tái nghiện chỉ còn phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nữa thôi, đa
phần là không thể vượt qua.
* Cuộc sống gia đình không hòa thuận
Nếu gia đình, người thân không thông cảm, sẻ chia và có những sự hỗ trợ
kịp thời cả về vật chất và tinh thần thì với tâm trạng buồn chán, bi quan sẵn có sẽ
làm cho người sau cai dễ lâm vào tái nghiện. Trong thực tế có nhiều gia đình có
những người thân đã tỏ ra thiếu lòng tin, sự cảm thông đối với người cai nghiện
từ trung tâm về và có thái độ khinh ghét đối với họ, tạo ra cho họ tâm lý tự ti,
mặc cảm. Người nghiện ma túy khi đi cai về thường thì họ muốn tìm việc
làm, có những việc làm nguy hiểm ngoài khả năng kiểm soát của gia đình (ví
dụ: phụ xe đi nơi này nơi khác, chạy xe ôm…) hoặc có những công việc đòi
hỏi vốn lớn ngoài khả năng của gia đình nên người nghiện không được đáp
ứng và có thể xảy ra mâu thuẫn giữa gia đình và người nghiện sau cai. Những
mâu thuẫn này có thể đưa người nghiện trở lại con đường nghiện hút ma túy.
* Sự thành kiến, phân biệt đối xử của cộng đồng xã hội
15
Những thành kiến của xã hội đối với người nghiện đã có từ lâu. Nhiều
người nhìn người nghiện với con mắt khinh bỉ, miệt thị, coi họ là thành phần
xấu cần cảnh giác. Hầu hết người dân gọi người nghiện là thằng nghiện, con
nghiện, bọn đạo chích, bọn xì ke, ma túy. Điều đó làm cho người nghiện càng
trở nên mặc cảm và làm cho quá trình tìm việc làm của họ càng gặp nhiều trở
ngại. Trong cộng đồng, xã hội còn nhiều người hoài nghi về khả năng quyết
tâm đoạn tuyệt với ma túy của người nghiện. Cũng có lẽ do người ta đã chứng
kiến cảnh người nghiện sau cai lại tái nghiện quá nhiều, đặc biệt với tỷ lệ tái
nghiện quá cao như hiện nay (trên 90%, thậm chí 100% tái nghiện) nên số
người đặt niềm tin vào lời hứa của người đã cai là rất ít.
+ Do không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp:
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại một tỷ lệ những người thất
nghiệp. Thất nghiệp là một yếu tố nguy cơ dẫn đến nhiều hành vi sai lệch
khác nhau, trong đó có lạm dụng ma túy. Mỗi lần cai nghiện tại gia đình, cộng

đồng hoặc từ các trung tâm cai nghiện trở về, người nghiện hầu như chẳng
còn gì ngoài hai bàn tay trắng. Trong thời gian nghiện hút, họ bán hoặc cầm
cố tất cả những gì mình có. Sức khỏe người nghiện sau nhiều năm nghiện hút,
chích, mắc nhiều bệnh, bây giờ họ phải chịu thêm sự hành hạ của các bệnh
mới khi ngừng sử dụng ma túy nên sức khỏe suy sụp khó có thể có được việc
làm có thu nhập đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia đình. Người nghiện
thường kêu ca buồn chán khi ở nhà vì không có việc làm, mệt mỏi, ăn không
ngon, ngủ không đẫy giấc. Khi không có việc làm ổn định hoặc thu nhập thấp
không đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình thì con người ta trở nên
chán chường, bi quan và rất dễ sa vào tái nghiện. Không có việc làm dẫn đến
một mặt là người nghiện có nhiều thời gian rỗi, có cơ hội giao du với những
người bạn cũ, mặt khác, làm tăng thêm tính lười nhác của người nghiện, giảm
quyết tâm cai nghiện ma túy.
16
Những người nghiện sau khi được cai trở về với cộng đồng trong tình
trạng không có việc làm rất dễ trở lại với ma túy. "Nhàn cư vi bất thiện", vì
thất nghiệp, người nghiện lang bạt "nay đây mai đó", trở lại những điểm tiêm
chích xưa, gặp bạn nghiện cũ, thấy những hình ảnh hết sức quen thuộc làm
cho cảm giác thèm muốn trào dâng…Tái nghiện chỉ còn là ngày một ngày
hai.
Việc làm là một nhân tố khá quan trọng cho người nghiện tái hòa nhập
cộng đồng và đoạn tuyệt với ma túy. "Kết quả điều tra khảo sát người nghiện
cho thấy nguyên nhân tái nghiện tập trung cao nhất vào lý do người nghiện
sau cai không có việc làm nên tái nghiện (chiếm 39,4%), sau đó là không có
sự quản lý, hỗ trợ (chiếm 21,7%), còn lại tập trung vào hai nguyên nhân khác:
do mua ma túy ngoài thị trường quá dễ (chiếm 20,7%) và bị kỳ thị bởi cộng
đồng (chiếm 17,2%) [66].
Nguyên nhân dẫn tới người nghiện sau cai không tìm được việc làm,
trước hết là do họ bị hạn chế về mặt thể chất và cả tâm lý. Mặc dù được điều
trị tại các trung tâm, song sự suy yếu về sức khỏe, biến đổi về hình thức,

phong thái vẫn còn biểu hiện rõ nét khiến cho người nghiện sau cai bất lợi khi
đi xin việc. Mặt khác, ngành nghề đào tạo tại các trung tâm hiện nay tính khả
thi không cao, dạy nghề mang tính đồng loạt, đa số người nghiện không thể
ứng dụng những nghề được đào tạo sau khi trở về cộng đồng (ví dụ: nghề đan
lát không áp dụng được khi đối tượng nghiện sống ở trung tâm của thành phố
lớn như Hà Nội…). Bên cạnh đó, người nghiện ma túy bị kỳ thị rất lớn bởi
người tuyển dụng và bị cạnh tranh gay gắt từ phía những người được đào tạo
tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề bên ngoài… Người sau cai nghiện còn gặp
trở ngại do kém năng động, thiếu tự tin thậm chí là tự ti khi tiếp xúc, trả lời
phỏng vấn.
Thực tế là người cai nghiện ma túy, sau khi cắt cơn, trở về với cộng
đồng tỷ lệ tái nghiện rất cao, hơn 95%. Nhiều nơi sáng tạo ra một số "mô hình
17
hậu cai", như thành lập "Câu lạc bộ sau cai" để thường xuyên giúp đỡ, giám
sát nhau, dù có thu được một số kết quả, song cũng không thể ngăn chặn được
tình trạng tái nghiện. Tình hình khó khăn và phức tạp như vậy là do nhiều
nguyên nhân, nguyên nhân chính bao trùm là: Người nghiện ma túy ở nước ta
thường chích thẳng ma túy vào tĩnh mạch. Chất gây nghiện cực mạnh ấy tác
động, và lưu lại trong vùng khoái cảm của não bộ. Muốn não không "nhớ" thì
chỉ còn cách là loại bỏ vùng khoái cảm trong não bộ. Đó là điều không thể!
chỉ có những ai thật sự có ý chí cao và với sự giúp đỡ tận tình của cộng đồng,
thì mới mong thắng được chính sự thèm khát ấy.
Tóm lại, để cai nghiện được hoàn toàn đòi hỏi phải có sự kết hợp nỗ
lực, ý chí quyết tâm của bản thân người nghiện với sự hỗ trợ cần thiết của gia
đình, cộng đồng, xã hội để chống lại các yếu tố gây nên nghiện và tái nghiện.
Chính vì vậy, hỗ trợ giúp tạo việc làm cho người sau cai nghiện từ bỏ được
ma túy, không tái nghiện vừa là giải pháp có ý nghĩa kinh tế - xã hội, nhân văn
sâu sắc, vừa là một thách thức lớn cho người cai nghiện và công tác quản lý
sau cai.
1.1.3 . Tác hại của nghiện và tái nghiện ma túy tới kinh tế - xã hội

* Tác hại về kinh tế
- Đối với bản thân người nghiện: Nghiện và tái nghiện ma túy gây ảnh
hưởng nặng nề đến sức khỏe của người nghiện, khiến họ bị suy giảm mạnh
mẽ khả năng lao động sản xuất, tuy không làm ra của cải vật chất hoặc làm ra
ít nhưng tiền tiêu dùng cho ma túy luôn được họ khai thác từ gia đình hoặc
thông qua những hành vi phạm tội.
- Đối với gia đình người nghiện: Nghiện ma túy và tái nghiện ma túy
khiến gia đình người nghiện bị điêu đứng về kinh tế: người nghiện lần lượt
đem tiền bạc, của cải trong gia đình đi đổi lấy ma túy, đẩy đời sống gia đình
đi vào đổ vỡ, mâu thuẫn, xung đột sâu sắc và bần cùng.
18
- Đối với nền kinh tế của đất nước: Ma túy gây ảnh hưởng nặng nề đến
nền kinh tế của đất nước. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội thì đến cuối năm 2006 cả nước có khoảng 140.000 người nghiện có hồ
sơ quản lý, nếu trung bình một ngày người nghiện dùng hai tép heroin (mỗi tép
giá 50.000 đ) thì một năm tổng số người nghiện đã tiêu tốn khoảng 5.110 tỷ
đồng. Khi số lượng người nghiện trên tái nghiện thì số tiền tiêu phí sẽ lớn hơn
rất nhiều. Ngoài ra, hàng năm ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng
cho công tác cai nghiện phục hồi, phòng chống tái nghiện, trả lương cho đội
ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tệ nạn ma túy, chưa kể tiền của gia đình
người nghiện đóng góp. Thêm vào đó, nghiện và tái nghiện ma túy làm tổn
thất một nguồn nhân lực rất lớn cho phát triển kinh tế vì đại đa số người
nghiện, tái nghiện đều trong độ tuổi lao động và còn rất trẻ. Như vậy, thiệt hại
về kinh tế do tái nghiện ma túy gây ra không chỉ dừng lại ở các con số kể trên.
* Tác hại đối với xã hội:
Nghiện ma túy gắn liền với bệnh tật, nghiện ma túy đồng nghĩa là thân
tàn ma dại, sức khỏe bị suy kiệt, người nghiện chỉ có tuổi thọ trung bình là 40
tuổi, trong khi tuổi thọ bình quân của người bình thường là 75 tuổi. Vì thế sẽ
là lãng phí nguồn nhân lực, sức lực lớn của cả xã hội, nếu như không tổ chức
cai nghiện, hỗ trợ tạo việc làm giúp người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng

đồng, phòng ngừa tái nghiện cho gần hai trăm ngàn người nghiện, trong đó
chiếm tới 80% là thanh niên.
Nghiện ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh, trật tự an toàn
xã hội, làm gia tăng và lây lan rộng các căn bệnh xã hội nguy hiểm như
HIV/AIDS, ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục,
bản sắc và giá trị văn hóa của dân tộc. Nghiện ma túy có mối quan hệ liên đới
với rất nhiều loại tệ nạn và tội phạm xã hội khác: khoảng 85% người nghiện
ma túy có tiền án, tiền sự, 40% các vụ trọng án là do người nghiện ma túy gây
ra. Thông qua các vấn đề xã hội cũng như việc giải quyết các vấn đề đó có thể
19
đánh giá khả năng điều hành đất nước của Chính phủ và tình hình chính trị ổn
định của đất nước đó. Không loại trừ nguy cơ các thế lực thù địch, phản động
lợi dụng vấn đề ma túy để công kích sự nghiệp cách mạng của nước ta.
1.2. VIỆC LÀM VÀ HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM TRONG QUẢN LÝ ĐỐI VỚI
NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN VÀ PHÒNG NGỪA TÁI NGHIỆN
1.2.1. Một số vấn đề chung về việc làm, tạo việc làm trong nền kinh
tế thị trường
* Quan niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù thuộc quyền con người, quyền có việc làm đã
được quy định trong hệ thống pháp luật quốc tế, Công ước về các quyền kinh tế -
xã hội và văn hóa năm 1966 ghi nhận: "Các quốc gia thành viên của Công ước
này thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có
cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc
gia sẽ thi hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này" (Điều 6). "Các
quốc gia thành viên của Công ước này công nhận quyền của mọi người được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi…" (Điều 7).
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu; nó thuộc loại những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống
xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động liên quan chặt chẽ với
nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của

con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết
trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu
cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về giác
độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc
làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động,
đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định.
Nói cách khác, việc làm là những công việc, là những hoạt động có ích,
20
không bị pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện
để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp phần cho xã
hội.
Hiến pháp 1992, chương V đã quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, trong đó có quyền được làm việc: "Lao động là quyền và nghĩa
vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc
làm cho người lao động" (Điều 55) [48].
Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội khóa IX thông
qua đã khẳng định ở đoạn 1 Điều 13, chương II, việc làm "là mọi hoạt động
lao động sáng tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm" [47].
Như vậy, theo khái niệm trên có hai yếu tố là thu nhập và không bị
pháp luật cấm là hai điều kiện cần và đủ để được thừa nhận là việc làm. Ý
nghĩa luật pháp - xã hội của khái niệm này là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối
xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo
việc làm cho người lao động. Đồng thời cũng thể hiện đặc trưng của Nhà
nước pháp quyền, khuyến khích mọi người làm những việc không bị pháp
luật cấm.
* Việc làm là vấn đề vừa mang ý nghĩa kinh tế vừa là vấn đề xã hội, chính trị
Về mặt kinh tế, vấn đề việc làm gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả
của việc giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất.
Giải quyết tốt được vấn đề việc làm thì mới đảm bảo được sản xuất phát triển,

kinh tế mới đi lên. Đồng thời, kinh tế phát triển cũng sẽ tạo điều kiện để giải
quyết tốt vấn đề việc làm.
Về mặt xã hội, nếu giải quyết tốt được vấn đề việc làm sẽ hạn chế được
các tiêu cực xã hội, giữ vững được kỷ cương, nề nếp xã hội.
Về mặt chính trị, nếu không giải quyết tốt được vấn đề việc làm, đến
một thời điểm nào đó, vấn đề này sẽ vượt ra thành vấn đề chính trị, bởi vì vấn
21
đề kinh tế luôn gắn liền với chính trị: kinh tế không phát triển thì chính trị sẽ
không ổn định.
Về mặt pháp lý, về mặt lý luận, quan hệ pháp luật trong lĩnh vực việc làm
được coi là quan hệ có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động và đóng vai trò
quyết định cho việc hình thành, phát triển và ổn định của quan hệ lao động.
Đồng thời, chế định pháp lý về việc làm là một trong những chế định quan trọng
của pháp luật lao động, làm tiền đề để xác lập các chế định pháp luật khác. Hay
nói một cách khác, không có việc làm thì không có quan hệ lao động, cũng có
nghĩa là không có những yếu tố khác làm nên nội dung của quan hệ lao động.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa lao động - việc
làm có những biểu hiện rất phức tạp. Một mặt, lao động có xu hướng gắn kết
chặt chẽ với việc làm, mặt khác lại có xu hướng tách rời khỏi việc làm. Từ đó
tạo nên sự khác biệt về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các nhóm
trong một tầng lớp dân cư.
Việc làm không chỉ là hoạt động để kiếm sống mà còn là hoạt động
sáng tạo nhằm phục vụ xã hội, thông qua lao động hoàn thiện nhân cách con
người cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc làm là yêu cầu chính đáng của con
người, tách con người ra khỏi lao động chẳng khác gì thủ tiêu sự tồn tại của
con người, phá vỡ động lực bên trong của xã hội.
Việc làm và giải quyết việc làm là một tiêu chí quan trọng thể hiện sức
mạnh của một nền kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm, khắc phục tình
trạng thất nghiệp và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội sẽ có tác
dụng tích cực đến quá trình ổn định và phát triển kinh tế.

* Tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường
Tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường cho người lao động và
hình thành các chỗ làm việc, sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm
việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động
22
và người sử dụng lao động, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất
nước.
Với khái niệm trên, tạo việc làm không chỉ là nhiệm vụ chức năng của
nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và
ngay bản thân người lao động. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn
quan tâm chú trọng đến tạo việc làm cho người lao động thông qua các văn
bản quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình,
các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính sách Nhà nước là một trong
những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm của người lao động như
khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế tiền sử dụng
đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng điện đường, trường
trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất. Bên cạnh đó, các chương
trình, chiến lược phát triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp cũng tác
động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động như đào tạo nguồn lao
động, tuyển dụng, bố trí, sắp xếp lao động phù hợp năng lực và yêu cầu...
Tạo việc làm có nghĩa là tạo thêm được việc làm mới cho người lao
động, mang tính chất là người lao động đang không có việc làm nay có việc
làm, hoặc có việc làm không ổn định nay có việc làm ổn định, lâu dài. Như
vậy, tạo việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế chính sách của Nhà
nước cũng như việc tuyển dụng thêm lao động của các doanh nghiệp.
Ngoài ra tạo việc làm là sự hình thành môi trường thuận lợi nhằm kết
hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, thông qua cơ chế chính sách
khuyến khích thu hút của Nhà nước, thông qua sự hoạt động đầu tư của nhà
sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động có thể dùng sức lao
động của mình sản xuất thêm nhiều của cải cho xã hội.

* Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tạo việc làm, giải quyết việc làm
Đảng và Nhà nước ta luôn coi giải quyết việc làm là chính sách lớn,
quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
23
Đại hội VIII của Đảng khẳng định:
Bảo đảm công ăn việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng
đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên. Nhà nước
chú trọng đầu tư tạo việc làm đồng thời tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc
làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà nước tổ chức
tốt dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp [25].
Tại Hội nghị Trung ương VIII (khóa VIII), Đảng ta nhấn mạnh việc
tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ về giải quyết việc làm và chỉ ra các
biện pháp khả thi để thu hút lao động và tạo việc làm. Báo cáo chính trị tại
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Bằng nhiều giải pháp, tạo ra nhiều
việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông
nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các
cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động" [27].
Quan điểm này được nhấn mạnh tại Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX,
đó là: giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người,
ổn định và phát triển…phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả
các thành phần kinh tế…tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động.
Quan điểm và giải pháp cơ bản về giải quyết việc làm cho người lao
động của Đảng được thể hiện nhất quán trong một loạt các chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước.
Ngày 11/4/1992, Nghị quyết số 120/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) là văn bản đầu tiên của Chính phủ về chủ trương, phương hướng,
biện pháp giải quyết việc làm đã nêu ra nội dung hết sức cơ bản, quan trọng
đối với vấn đề tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động, đó là:
- Lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.

24
- Bổ sung, sửa đổi một số chính sách cụ thể khuyến khích các lĩnh vực,
các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân tạo việc làm mới, thu hút
người lao động…
Từ năm 1998, Chương trình quốc gia giải quyết việc làm (Quyết định
126/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998) ra đời với mục tiêu mỗi năm tạo 1,3 - 1,4
triệu chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống 5% và nâng tỷ lệ sử
dụng lao động nông thôn lên 75% vào năm 2000.
Tiếp tục chính sách về vấn đề việc làm, Chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói, giảm nghèo và việc làm, ban hành kèm theo Quyết định
143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục
tiêu mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,4 đến 1,5 triệu lao động, giảm tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn lên trên 80%. Trong lĩnh vực việc làm, Chương trình tập
trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
- Phát triển kinh tế, tạo mở việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu lao động trong nông thôn. Trong công nghiệp, vừa phát
triển các ngành có khả năng sử dụng nhiều lao động, vừa phát triển các ngành
sử dụng lao động có trình độ cao.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia.
- Tập trung hỗ trợ người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối
tượng yếu thế vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo việc làm.
1.2.2. Hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện
1.2.2.1. Vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ tạo việc làm cho người sau
cai nghiện
Nhà nước là cơ quan quyền lực tối cao, có vai trò đầu não trong tổ chức
các hoạt động liên quan đến công tác phòng, chống ma túy, cụ thể trong hỗ
25

×