Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Bài giảng và đề cương môn quản trị công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.12 KB, 72 trang )

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ
I. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ
1. Công nghệ là gì?
Trong quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở Việt Nam, chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, nhiều
thuật ngữ kinh tế - kỹ thuật đã du nhập vào Việt Nam, trong số đó có thuật ngữ công
nghệ. Từ “công nghệ” xuất phát từ chữ Hy Lạp (Tekhne) có nghĩa là một công nghệ
hay một kỹ năng, và logos có nghĩa là một khoa học hay sự nghiên cứu. Và theo thuật
ngữ Tiếng Anh: technology có ý nghĩa là khoa học về kỹ thuật hay sự nghiên cứu có
hệ thống về kỹ thuật - thường được gọi là công nghệ học.
Công nghệ rất đa dạng và phong phú, do đó các khái niệm, quan niệm hay
những quan điểm về công nghệ cũng rất đa dạng và phông phú. Chẳng hạn, công
nghệ là máy móc dùng trong sản xuất; công nghệ là kiến thức dùng trong sản xuất;
công nghệ là sự kết hợp giữa con người giữa con người với máy móc, thiết bị, Đối
với mỗi quan niệm, người ta lý giải như sau:
- Công nghệ là máy móc dùng trong sản xuất: Nếu vậy thì vấn đề đặt ra là máy
móc, thiết bị đó có thể tự vận hành được hay không? Rõ ràng chúng ta thấy rằng,
muốn nó hoạt động được thì con người phải tác động vào máy móc thiết bị đó. Như
vậy quan niệm này là chưa hoàn toàn đầy đủ. Ở đây, chúng ta mới chỉ xét đến khía
cạnh tự vận hành của máy móc thiết bị. Ở Việt Nam, người ta cũng đã từng quan
niệm về công nghệ như vậy, do vậy QLCN là quản lý các phân xưởng có máy móc
thiết bị và dẫn đến quản lý không hiệu quả. Theo quan niệm này, công nghệ chỉ liên
quan đến sản xuất vật chất.
Ví dụ, trong một công ty, người ta tách ra làm 2 xã hội: xã hội người sản xuất
và xã hội người làm hành chính. Theo quan niệm trên thì chỉ bắt những người làm
phân xưởng làm việc. Va như vậy, có hoàn thành kế hoạch đặt ra hay không là phụ
thuộc hoàn toàn vào họ còn những người làm hành chính, thiết kế, tài vụ, kỹ thuật vật
tư, thì không cần cố gắng và không có trách nhiệm. Kết quả là hiệu quả sản xuất
không cao, quản lý không hiệu quả. Quan niệm đó là rất sai lầm và đến nay nó vẫn
còn tồn tại và theo quan niệm này thì việc đổi mới công nghệ có thể chỉ là đổi mới


máy móc thiết bị thôi còng còn con người quản lý nó thì không được đổi mới, tức là
không tính đến việc đào tạo người để sử dụng máy móc đó và điều này có nghĩa là
không đổi mới trình độ lao động.
- Công nghệ là kiến thức dùng trong sản xuất: Đây cũng là một quan niệm
chưa đầy đủ về công nghệ. Vì kiến thức là được tích tụ qua bao nhiêu năm để có thể
tạo ra được những phát minh, sáng chế, và nếu không có những máy móc, thiết bị để
1
con người dựa vào đó để phát huy được kiến thức thì việc thực hiện công nghệ không
thể thành công được.
- Công nghệ là sự kết hợp giữa con người và máy móc thiết bị: Đây cũng là
một quan niệm chưa đầy đủ. Có máy móc thiết bị, có kiến thức nhưng con người
thiếu thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, không chính xác, không kịp thời thì con
người sẽ không thể xử trí nổi. Mặt khác, nếu thiếu vấn đề tổ chức trong công nghệ ấy
như thế nào cũng là điều hết sức cần thiết cho việc vận hành một công nghệ, ví dụ
việc tổ chức còn rườm rà, thiếu một vài bộ phận hoặc thiếu kinh nghiệm, Chẳng
hạn, bộ phận Maketing nếu người thực hiện nó thiếu kinh nghiệm, không nắm bắt
được thị trường, hoặc nắm bắt một cách hời hợt thì việc vận hành công nghệ đó là
không thể thành công và những sản phẩm do công nghệ đó làm ra cũng không được
người tiêu dùng đón nhận.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại đưa ra nhiều quan niệm về công nghệ như vậy?
Nguyên nhân là do:
+ Công nghệ rất đa dạng, rất phong phú và nó tăng theo hàm số mũ, nhiều vô
kể cho nên người ta không thể thống kê hết được các công nghệ trên thế giới, vì vậy
các quan niệm về công nghệ là chưa đầy đủ.
+ Điều kiện tiếp xúc với công nghệ là khác nhau: con người sử dụng công nghệ
trong những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau, dẫn đến sự khái quát của họ
về công nghệ cũng sẽ khác nhau.
+ Bên cạnh đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ dẫn đến làm
thay đổi nhiều quan niệm cũ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự không
thống nhất các quan điểm trên.

* Một số quan điểm về công nghệ
- Quan điểm 1: Công nghệ là nguồn của cải, nguồn phúc lợi mà trên hết là
công cụ quyền lực để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội.
Theo thống kê, có tới 85% công nghệ thuộc về các nước phát triển G7, thu
nhập hàng năm rất cao và giàu về công nghệ, dẫn tới việc tổ chức ra Ngân hàng thế
giới, Quỹ tiền tệ thế giới, nhằm khống chế thị trường, khống chế tài chính,
- Quan điểm 2: Công nghệ là cái gì đó biến con người thành nô lệ, làm mất
công ăn việc làm, tàn phá các giá trị đạo đức về văn hoá xã hội, tàn phá về môi
trường. Đây là một quan điểm chỉ ra tính tiêu cực của công nghệ.
Ví dụ: Công nghệ chế tạo ra sản phẩm Hêrôin làm suy hại đến sức khoẻ, tinh
thần, của con người, làm xáo trộn đạo đức xã hội.
- Quan điểm 3: Công nghệ không phải là một thế lực nào đó độc lập tự trị mà
nó là công cụ, là phương tiện để giải quyết vấn đề. Cho nên đòi hỏi chúng ta phải tìm
2
ra đâu là vấn đề cần giải quyết và cách giải quyết như thế nào? Đây là một quan điểm
rất rõ ràng và không thoái quá.
Liên hệ: Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta là: Dân giàu - nước
mạnh - xã hội công bằng - dân chủ văn minh. Nước ta đã từng trải qua bao nhiêu năm
chiến tranh nên đất nước ta còn nghèo, kém phát triển , , đây là vấn đề hàng đầu cần
quan tâm giải quyết và công nghệ sẽ là phương tiện chủ yếu để giải quyết nó (tầm vĩ
mô, tầm quốc gia) và tầm vi mô là giải quyết như thế nào?
* Khái niệm về công nghệ
Để có thể đưa ra được những khái niệm hay định nghĩa nhằm nêu bật được bản
chất của công nghệ thì định nghĩa đó phải bao hàm các đặc trưng sau:
- Công nghệ là một máy biến đổi
Đặc trưng này có nghĩa là phải nói tới tính hiệu quả về kinh tế của công nghệ,
đề cập đến khả năng làm ra đồ vật. Cụ thể, để sản xuất ra một sản phẩm có rất nhiều
công nghệ khác nhau, ví dụ như công nghệ thủ công, công nghệ trung gian, công
nghệ tiên tiến, nhưng vấn đề là lựa chọn công nghệ như thế nào cho thích hợp và
đạt được hiệu quả cao. Ví dụ: Bàn, ghế hay tủ có các loại công nghệ như khảm, trai,

làm theo công nghệ thủ công nhưng giá bán chúng lại rất đắt.
- Công nghệ là một công cụ: Nghĩa là công nghệ là cái mà để sản xuất ra các
đồ vật và đặc trưng này nhấn mạnh rằng công nghệ là một sản phẩm của con người,
do đó con người có thể làm chủ được nó. Vì vậy, công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ
đối với con người và cơ cấu tổ chức.
- Công nghệ là kiến thức: Đặc trưng này đề cập đến cốt lõi của mọi hoạt động
công nghệ là kiến thức. Công nghệ không phải là một thứ đơn giản mà ai cũng có thể
có được và sử dụng hiệu quả như nhau, ví dụ đối với các quốc gia có công nghệ
giống nhau chưa chắc sẽ đạt được kết quả như nhau. Việc sử dụng một công nghệ đòi
hỏi con người cần phải được đào tạo về kỹ năng, trang bị kiến thức và phải luôn cập
nhật những kiến thức đó. Đồng thời mở rộng ra, công nghệ có thể là các lý thuyết,
các phương pháp, các bí quyết. Ví dụ, cùng một công nghệ sản xuất gốm sứ nhưng
gốm sứ ở Bát Tràng có những sản phẩm rất đặc biệt, điều này thể hiện ở hoa văn trên
các sản phẩm rất sắc nét, đường nét rõ ràng, đây chính là những bí quyết của ngành
nghề.
- Công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó: Có nghĩa là công
nghệ là cái có thực, cụ thể, không hư ảo, mà nó còn là một sản phẩm nên nó có thể
trao đổi, mua bán và chuyển giao. Điều này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể trong
chương 2.
Từ việc nghiên cứu các đặc trưng trên, chúng ta có các định nghĩa về công
nghệ như sau:
3
* Định nghĩa 1: Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
(UNIDO): “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng
các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp”.
Với định nghĩa này, đã nêu lên được bản chất của công nghệ:
- Công nghệ là kiến thức: Việc áp dụng khoa học vào công nghiệp.
- Nhấn mạnh tới tính hiệu quả: Muốn đạt được hiệu quả cao đòi hỏi phải
nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
Hạn chế của định nghĩa này là công nghệ chỉ áp dụng cho những người làm

lĩnh vực công nghiệp, nếu đem áp dụng cho các lĩnh vực khác sẽ trở nên khập khiễng.
* Định nghĩa 2: Uỷ ban Kinh tế và xã hội Khu vực Châu á - Thái Bình Dương
(ESCAP): “Công nghệ là một hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp
và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ”.
Định nghĩa của ESCAP được coi là bước ngoặt trong quan niệm về công nghệ.
Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà khai
niệm công nghệ được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Định nghĩa đã
nêu được bản chất của công nghệ như là kiến thức, kết hợp giữa vấn đề sản xuất, chế
tạo với công nghệ và lần đầu tiên đã mở rộng ra các lĩnh vực khác nhau, ví dụ như:
dịch vụ Ngân hàng, Bảo hiểm, Giao thông, Văn phòng, GD ĐT,
* Định nghĩa 3: Việt Nam định nghĩa về công nghệ như sau: “Công nghệ là tập
hợp hệ thống kiến thức và kết quả của khoa học ứng dụng nhằm mục đích biến đổi
các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lợi”.
* Định nghĩa 4: Trung Quốc “Công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến
đổi đầu vào thành đầu ra”.
2. Các thành phần công nghệ
Bất cứ một công nghệ nào, dù đơn giản cũng phải gồm có 4 thành phần, các
thành phần này tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện quá trình biến đổi mong muốn.
Bốn thành phần đó như sau:
- Vật tư kỹ thuật
- Con người
- Thông tin
- Tổ chức
Ví dụ: Bóng đèn, bàn ghế, ô tô, tàu hoả, có phải là công nghệ hay không?
Chuẩn mực quyết định nó là 4 thành phần trên, nếu thiếu đi một trong bốn thành phần
đó thì không phải là công nghệ.
4
a) Vật tư kỹ thuật (T - Technoware): Tức là công nghệ hàm chứa trong các vật
thể.

Công nghệ thể hiện trong vật tư kỹ thuật bao gồm: các máy móc thiết bị, các
công cụ, phương tiện, kết cấu xây dựng, các phương tiện ở dạng vật chất khác. Trong
công nghệ sản xuất, các vật thể này thường làm thành dây chuyền để thực hiện quá
trình biến đổi (thường gọi là dây chuyền công nghệ), ứng với một quy trình công
nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục của quá trình.
Chức năng: Vật tư kỹ thuật là vật chất của công nghệ, làm tăng sức mạnh của
công nghệ, phần vật chất (tức phần cứng của công nghệ) giúp tăng năng lực cơ bắp
nhờ vào cơ, điện, nhiệt, hoá và tăng sức mạnh trí tuệ nhờ vào máy tính điện tử.
b) Con người (H - Humanware): Công nghệ hàm chứa trong kỹ năng công
nghệ của con người làm việc trong công nghệ.
Phần con người bao gồm: đội ngũ người lao động cả chân tay và trí óc (bao
gồm công nhân, trí thức, nhà chuyên môn, nhà quản lý, )
Con người không phải là công nghệ mà con người chỉ tham gia vào công nghệ
và công nghệ thể hiện trong con người bao gồm: phần kiến thức và trình độ năng lực,
sự hiểu biết về công nghệ (như kỹ năng, kỹ sảo, kinh nghiệm, ) và nó cũng bao gồm
các tố chất của con người như tính sáng tạo, sự khôn ngoan, sự thành thạo, khéo léo,
cần cù, trực cảm; khả năng lãnh đạo, khả năng phối hợp, đạo đức lao động,
Quá trình đào tạo vừa cung cấp kiến thức cho ta vừa tạo cho chúng ta một nghề
sau này, thể hiện khả năng, kỹ sảo của con người như: tiếp nhận thông tin và xử lý
thông tin.
c) Thông tin (I - Inforware): Công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư
liệu hoá được sử dụng trong công nghệ.
Công nghệ hàm chứa trong thông tin bao gồm: các dữ liệu về phần kỹ thuật, về
phần con người và về phần tổ chức. Ví dụ, thông tin được tư liệu hoá thành các tư
liệu, dữ kiện, văn bản, phát minh, sáng chế, các bí quyết, phương pháp, tài liệu chỉ
dẫn, hướng dẫn,
d) Tổ chức (O - Orgaware): Công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây
dựng cấu trúc tổ chức.
Khung ấy bao gồm:
- Thể chế: thể hiện quyền lợi và trách nhiệm của con người trong công nghệ

đó.
- Các quy định, mối liên kết, sự phối hợp của các cá nhân hoạt động trong công
nghệ, kể cả những quy trình đào tạo công nhân, bố trí sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng
tốt nhất phần kỹ thuật và phần con người.
5
Đây là bộ phận không thể thiếu khi vận hành công nghệ, vì phải có bộ phận
này công nghệ mới hoạt động được, bộ phận này tác động đến cả 3 bộ phận trên.
Trên tầm quản lý của chúng ta, nếu trước kia chỉ coi công nghệ là máy móc,
thiết bị thì tinh thần quản lý thiên về đổi mới các máy móc thiết bị mà không để ý đến
các bộ phận khác. Còn bây giờ, khi đã nắm bắt được bốn thành phần của công nghệ
thì tinh thần quản lý cũng phải thay đổi cho phù hợp. Trong đó, hai vấn đề khó khăn
và quan trọng nhất đó là: Thông tin và tổ chức.
* Vai trò và mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ
Các thành phần của công nghệ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau, không
thể thiếu bất cứ thành phần nào. Tuy nhiên có một giới hạn tối thiểu cho mỗi thành
phần để có thể thực hiện quá trình biến đổi, đồng thời có một giới hạn tối đa cho mỗi
thành phần để hoạt động biến đổi không mất đi tính tối ưu hoặc tính hiệu quả.
Nếu như chúng ta không hiểu rõ chức năng cũng như mối quan hệ tương hỗ
giữa các thành phần của một công nghệ, có thể dẫn tới sự lãng phí trong quá trình đầu
tư trang thiết bị do các thành phần khác không tương xứng (hay không đồng bộ)
khiến cho trang thiết bị, máy móc không phát huy hết tính năng của chúng.
- Phần vật tư kỹ thuật (T): Đây là phần cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào, trong
quá trình thay đổi công nghệ là chủ yếu thay đổi thành phần này. Tuy nhiên, thành
phàn này không tự nó vận hành được dù là tự động hoá, như vậy, rõ ràng phần này
phụ thuộc vào con người, con người phải tác động vào máy móc thiết bị ấy thì nó mới
có thể vận hành được; đồng thời con người còn có thể cải tiến, mở rộng các tính năng
của công nghệ.
Để dây chuyền công nghệ có thể hoạt động được, cần có sự liên kết giữa phần
kỹ thuật, phần con người và phần thông tin. Khi mà công nghệ được nâng cấp, có thể
chuyển giao từ nước ngoài về, thì thông tin và lượng chất xám hàm chứa trong công

nghệ cũng tăng lên, do đó, khi phần vật tư kỹ thuật được nâng cấp thì phần con
người, phần thông tin cũng phải được nâng cấp tương ứng. Con người đóng vai trò
chủ động trong bất kỳ công nghệ nào, nên khi công nghệ được nâng cấp thì đỏi hỏi
con gnười phải có kiến thức vững vàng, cơ bản và sâu sắc để có thể tiếp thu thông tin
và tổ chức khai thác được tối đa năng lực của công nghệ đó. Hay nói cách khác, con
người quyết định mức độ hiệu quả của phần kỹ thuật.
- Phần con người (H): Đây được coi là phần then chốt (động lực theo tính phát
triển) của công nghệ. Và thành phần này lại phụ thuộc vào hai thành phần là thông tin
và tổ chức.
Ví dụ, nếu con người mà thiếu thông tin về thị trường hoặc không cập nhật thì
sẽ không thể xử lý nổi và ngược lại sẽ đem lại hiệu quả rất tốt. Hay con người khi
trong quá trình chuyển từ công nghệ cũ sang công nghệ mới nếu vẫn giữ nguyên tổ
chức cũ thì hoạt động sẽ không hiệu quả do có sự không đồng bộ, không phù hợp
6
giữa tổ chức và hoạt động của công nghệ. Chính vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới tổ
chức sao cho phù hợp với công nghệ mới.
Mặt khác, con người cũng làm phong phú thêm phần thông tin và tổ chức, để
có thể tận dụng hết khả năng của vật tư kỹ thuật, con người luôn luôn tiếp thu và biến
đổi phần thông tin hay tổ chức.
Ví dụ: Trong việc mua công nghệ nếu thiếu đi thông tin thì chúng ta sẽ không
nắm được công nghệ ở đâu, nước nào là tốt, là phù hợp, giá cả bao nhiêu là thích hợp
nhất, Như vậy, vấn đề đặt ra là muốn mua được công nghệ thì phải mua thông tin,
mà một khi thông tin đã trở thành hàng hoá thì giá cả lại rất đắt. Nhưng việc có được
thôgn tin thì phải có cách tiếp nhận, xử lý thông tin bằng năng lực của mình để đạt
được hiệu quả cao, và điều này phụ thuộc vào con người. Vấn đề nhạy cảm của con
người cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng.
- Phần thông tin và tổ chức mang tính bí quyết nhiều hơn: Vấn đề là có thông
tin rồi nhưng sử dụng nó như thể nào là rất khó và quan trọng, bên cạnh đó việc tổ
chức như thế nào để đạt được hiệu quả cao, đó là bí quyết của mỗi quốc gia, mỗi
doanh nghiệp,

+ Nhờ có thông tin mà con người rút ngắn được thời gian để nắm vững công
nghệ. Bởi vì, nếu chỉ có những văn bản hướng dẫn hay những tài liệu về công nghệ
thì việc nắm vững công nghệ đó phải mất một khoảng thời gian rất lau. Tuy nhiên,
nếu có thông tin thì con người sẽ nhanh chóng nắm bắt được và rút ngắn khoảng thời
gian đó.
+ Thông tin phải thường xuyên, cập nhật, tức là những thông tin đó phải đầy
đủ, chính xác, kịp thời.
+ Tổ chức: Nhờ có phần tổ chức mà công nghệ mới có thể hoạt động được một
cách điều hoà và phối hợp được với các bộ phận khác. Mặt khác, tổ chức cũng phải
luôn luôn đổi mới để tránh tình trạng trì trệ, hạn chế sự phát triển của công nghệ.
Trong thực tế, bốn thành phần công nghệ trên đều có mặt đồng thời trong mọi
giai đoạn biến đổi của công nghệ nhưng giá trị đóng góp của chúng là không đồng
đều, có thành phần đóng góp ở mức tối đa, có thành phần đóng góp ở mức tối thiểu
(nhưng không được bằng 0).
Mối quan hệ giữa bốn thành phần công nghệ có thể biểu thị qua giá trị đóng
góp của công nghệ vào giá trị gia tăng của một cơ sở:
GT
VA
= τ . VA
Trong đó: VA - Giá trị gia tăng của cơ sở;
τ - Hệ số đóng góp của các thành phần công nghệ.
τ được tính như sau:
7
τ = T
β
t
x H
β
h


x I
β
i
x O
β
o
Trong đó:
- T, H, I, O là hệ số đóng góp của các thành phần của công nghệ. Trị số của hệ
số đóng góp thành phần phụ thuộc vào độ phức tạp và độ hiện đại của nó, quy ước:
0<T, H, I, O ≤ 1.
- βt, βh, βi, βo: Là cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ tương
ứng, nó thể hiện tầm quan trọng của mỗi thành phần công nghệ trong một công nghệ,
quy ước:
βt + βh + βi + βo = 1
Cường độ đóng góp của một thành phần công nghệ thể hiện tiềm năng của
thành phần công nghệ đó trong việc nâng cao giá trị của hàm hệ số đóng góp τ.
Trong giáo trình đã đưa ra hình vẽ mô tả mối quan hệ giữa bốn thành phần của
một công nghệ (trang 15).
Bài tập áp dụng:
Ví dụ 1: Cho công nghệ A với T = 0,6; H = 0,7; I = 0,8; O = 0,9. Hãy biểu diễn
biểu đồ hệ số đóng góp của công nghệ đó.

Cách vẽ: T
- Vẽ 2 đường thẳng vuông góc với nhau tại O’ A 0,6
Đặt tên các trục: O’T, O’H, O’I, O’O
- Biểu diễn theo tỷ lệ: H B O’ D O
T = 0,6 lên trục O’T tại A 0,7 0,9
H = 0,7 lên trục O’H tại B
I = 0,8 lên trục O’I tại C 0,8 C
O = 0,9 lên trục O’O tại D I

- Nối tứ giác ABCD và tứ giác ABCD chính là biểu đồ biểu diễn hệ số đóng
góp của công nghệ A.
Ví dụ 2: Doanh nghiệp nhập công nghệ A đó và khả năng hấp thụ là:
8
T’
A
= 100% T; H’
A
= 90% H; I’
A
= 80% I; O’
A
= 70% O.
Hãy biểu điễn khả năng hấp thụ của doanh nghiệp đó?
Trả lời:
T’
A
= 100% T = 0,6 biểu diễn lên O’T tại A’
H’
A
= 90% H = 0,63 biểu diễn lên O’H tại B’
I’
A
= 80% I = 0,64 biểu diễn lên O’I tại C’
O’
A
= 70% O = 0,63 biểu diễn lên O’O tại D’
Nối tứ giác A’B’C’D’ ta được biểu đồ biểu thị khả năng hấp thụ công nghệ A
của doanh nghiệp.
Nhận xét: Công nghệ A là một công nghệ có thể do doanh nghiệp trong nước

hoặc nước ngoài sản xuất ra. Còn Doanh nghiệp mua công nghệ A thì chỉ hấp thụ
được các thành phần của công nghệ ấy. Tứ giác A’B’C’D’ là khả năng hấp thụ đối
với các thành phần của công nghệ A, diện tích tứ giác ấy chính là khả năng doanh
nghiệp mới chỉ hấp thụ được như vậy. Do đó, vấn đề đặt ra ở đây là phải làm như thế
nào để hấp thụ được toàn bộ công nghệ đó, điều này liên quan đến vấn đề QLCN của
doanh nghiệp.
3. Phân loại công nghệ (Đọc giáo trình - trang 16)
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công nghệ
Có rất nhiều nhân tố tác động có thể trực tiếp hay gián tiếp giữa sự tác động
của công nghệ tới môi trường và ngược lại. Trong đó có 6 nhân tố cơ bản:
a. Tác động của khoa học - kỹ thuật
Việc nghiên cứu khoa học một cách liên tục và nhiều thời đại, đã đạt được
nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Nó làm biến đổi về chất tất cả các loại công nghệ
làmc ho chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, giá thành sản phẩm cũng biến đổi
theo. Mục đích của khoa học và công nghệ là phát triển tối ưu các nguồn lực tự nhiên
nhằm phục vụ xã hội loài người. Khoa học chủ yếu là khoa học nghiên cứu, khám
phá, tìm tòi để nhận thức các quy luật của tự nhiên và xã hội. Còn công nghệ chủ yếu
là ứng dụng các kiến thức các thành tựu của khoa học để giải quyết các vấn đề thực
tiễn. Như vậy, khoa học phải có trước, là cơ sở, là tiền đề để cho công nghệ được
triển khai.
Khoa học - kỹ thuật tác động đến công nghệ như sau:
- KH - KT tạo ra những thông tin mang tính tiềm năng cơ bản để sáng tạo ra
công nghệ.
- KH - KT thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ, là nguồn để tạo ra công nghệ.
9
- KH - KT vạch đường, cung cấp môi trường để cho công nghệ được triển
khai.
- Nhờ có KH - KT mà nâng cao được năng lực giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
của công nghệ.
Tuy nhiên, khoa học và công nghệ có mối tác động tương hỗ (hình 1).

b. Tác động của khoa học tổ chức
Công nghệ bao gồm cả thành phần tổ chức, nhờ có khoa học tổ chức mới có
kiến thức để:
- Lập kế hoạch, tổ chức, quản lý lao động, sản xuất, kinh doanh, định mức lao
động, khuyến khích trả lương.
Cung cấp thiết bị
Phương tiện cho khoa học
Phát minh
Sáng chế
Hình 1: Mối tác động tương hỗ giữa khoa học - công nghệ
- Có kiến thức thì mới kiểm tra, đánh giá, giám sát toàn bộ công nghệ.
- Nhờ có kiến thức thì mới có khả năng phân tích năng lực công nghệ.
- Có kiến thức tức là có cơ sở để đổi mới công nghệ.
c. Các giai đoạn biến đổi công nghệ
Một công nghệ thường được chia thành các công đoạn, các giai đoạn. Việc
phân chia, sắp xếp các giai đoạn ấy theo một trình tự hợp lý, khoa học hay không đều
ảnh hưởng đến khai thác công nghệ. Số lượng các giai đoạn ít nhiều khác nhau, do đó
phải tính toán khoa học, sắp xếp lựa chọn hợp lý, tối ưu ứng với mỗi quá trình công
nghệ để làm cho các giai đoạn biến đổi đóng góp tốt nhất, hiệu quả nhất tới cả quá
trình công nghệ và do số lượng công nghệ tăng theo hàm số mũ cho nên người ta
không thể thống kê hết được, do đó, người ta đưa ra 10 giai đoạn biến đổi để minh
hoạ như sau:
- Nuôi trồng - Chế tạo
- Thu nhặt - Lắp ráp
- Sơ chế - Đóng gói
10
Khoa học Công nghệ
Nghiên cứu
khoa học
Áp dụng

- Chế biến - Phân phối (bán)
- Xây dựng - Hỗ trợ kỹ thuật
Với một công nghệ cụ thể thì có thể lấy một vài giai đoạn trong đó rồi lặp đi
lặp lại.
d. Trình độ và năng lực công nghệ
Chủ yếu thể hiện ở năng lực công nghệ, năng lực công nghệ quyết định việc sử
dụng công nghệ triển khai, thay đổi công nghệ: năng lực công nghệ liên quan chặt
chẽ tới các thành phần công nghệ. Năng lực công nghệ khác nhau có các thành phần
công nghệ khác nhau.Khi xác định ảnh hưởng của năng lực công nghệ đến công nghệ
hay khi phân tích năng lực công nghệ người ta thường chia thành 3 loại sau:
* Năng lực công nghệ cơ sở thể hiện ở các mặt sau:
- Năng lực đầu tư:
+ Xác định được mục tiêu đầu tư (đây là yếu tố quan trọng nhất)
+ Xác định quy mô đầu tư (tuỳ theo thị trường)
+ Hiểu biết năng lực công nghệ của cơ sở liên quan.
- Năng lực sản xuất
+ Năng lực của mỗi thành viên trong tổ chức (doanh nghiệp)
+ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp ấy.
- Năng lực liên kết: Liên kết về KH - KT, về thông tin, liên ngành để tận dụng
thế mạnh của nhiều bên để giải quyết các vấn đề trong quá trình công nghệ.
* Năng lực công nghệ ngành và năng lực công nghệ quốc gia
Khi phân tích năng lực công nghệ ngành hay quốc gia ảnh hưởng tới sự phát
triển công nghệ thường người ta nhấn mạnh năng lực công nghệ cơ sở cộng thêm sự
ứng phó và hỗ trợ ngành của quốc gia tác động tới chính sách chiến lược về công
nghệ của quốc gia.
Đặc biệt khi phân tích ảnh hưởng của năng lực công nghệ quốc gia tới công
nghệ hay dựa vào:
- Đầu tư vật chất;
- Đầu tư con người (vốn con người);
- Nỗ lực công nghệ quốc gia.

e. Tác động của thị trường đối với công nghệ
11
Thị trường là nơi tiêu thụ công nghệ và sản phẩm công nghệ. Công nghệ mang
lại năng suất lao động cao, tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho người lao động. Do
thu nhập cao, các nhu cầu cho đời sống cũng được nâng cao, đòi hỏi các sản phẩm
ngày càng đa dạng, chất lượng ngày càng cao, như vậy nhu cầu sẽ kích thích sản xuất
phát triển, đòi hỏi các nhà sản xuất phải luôn đổi mới công nghệ.
- Công nghệ là yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm là đầu ra. Sản phẩm luôn gắn
chặt với thị trường vì thị trường là nơi tiếp nhận và tiêu thụ sản phẩm. Công nghệ tồn
tại, phát triển và đổi mới luôn luôn phụ thuộc vào thị trường.
f. Môi trường quốc gia
Công nghệ có tác động thúc đẩy và ảnh hưởng đến môi trường xunh quanh.
Các yếu tố của môi trường xung quanh không thụ động, chúng cũng có tác động trở
lại công nghệ . Các tác động của các yếu tố xung quanh như kinh tế, sinh thái, dân số,
tìa nguyên, văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật, có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy phát
triển công nghệ.
- Chính sách, chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia tạo điều kiện nâng
cao năng lực, trình độ để giải quyết các vấn đề liên quan đến công nghệ.
- Thực trạng về xã hội: thực trạng về thu nhập và sức mua cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của công nghệ.
II. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ
Muốn quản lý tốt công nghệ cần nắm vững các đặc trưng cơ bản của công
nghệ. Nhiều nước đang phát triển đã không thành công trong phát triển công nghệ do
không nắm vững các đặc trưng của nó.
Trong một nền kinh tế thị trường, công nghệ là một sản phẩm đặc biệt. Do đó,
ngoài những đặc trưng của sản phẩm thông thường, nó còn có những đặc trưng mà
chỉ công nghệ sản sinh ra sản phẩm mới có. Các đặc trưng của công nghệ là: vòng
đời, độ phức tạp, độ hiện đại của các thành phần công nghệ và chu trình sống của
công nghệ.
1. Chuỗi phát triển (vòng đời) của các thành phần công nghệ

a. Vòng đời của vật tư kỹ thuật
Quá trình hình thành của phần cứng công nghệ bắt đầu từ nghiên cứu nhu cầu,
thiết kế, chế tạo, sản xuất thử sau đó là sản xuất hàng loạt, truyền bá, phổ biến sản
phẩm và cuối cùng nó được thay thế bởi công nghệ mới khi công nghệ này đi vào
trạng thái bão hoà rồi suy tàn.
b. Vòng đời của nhân lực khoa học công nghệ (chuỗi phát triển kỹ năng
công nghệ).
12
Để có được tri thức và kỹ năng về công nghệ, con người phải trải qua quá trình
nuôi dưỡng, dạy bảo, giáo dục, đào tạo, phát triển và nâng cao kiến thức, tay nghề.
Một đời người trải qua nhiều công nghệ do đó họ không kết thúc cùng công nghệ đó.
c. Vòng đời của thông tin công nghệ
Vòng đời của thông tin công nghệ bắt đầu từ tìm kiếm thông tin thông qua việc
phân tích, đặt câu hỏi và trả lời các câu hỏi đó, lựa chọn thông tin từ các nguồn thông
tin khác nhau, tổ chức lưu trữ hoặc chế tạo các sản phẩm thông tin, sử dụng, phổ
biến, cung ứng các dịch vụ thông tin (ngân hàng thông tin).
Một thông tin có thể dùng trong nhiều công nghệ.
d. Vòng đời của tổ chức công nghệ
Tổ chức công nghệ được hình thành bắt đầu từ việc nhận thức vẫn đề, chuẩn bị
(thiết kế) và thiết lập tổ chức, điều hành công việc, hướng dẫn, thúc đẩy và cải tổ cho
phù hợp với sự phát triển của các thành phần khác trong công nghệ.
Không nắm vững theo các trình tự trên, phá vỡ trình tự, đi tắt (bỏ qua các
bước) sẽ gây khó khăn cho sự phát triển của các thành phần công nghệ.
Chúng ta có thể tóm tắt vòng đời của các thành phần công nghệ thông qua
bảng sau:
Vật tư kỹ thuật (T) Con người
(H)
Thông tin (I) Tổ chức (O)
- Nghiên cứu
- Triển khai

- Sản xuất thử
- SX đại chà
- Truyền bá, phổ
biến (phân phối)
- Loại bỏ, bị thay thế
- Nuôi dưỡng
- Dạy dỗ
- Giáo dục
- Đào tạo
- Phát triển
- Nâng bậc
- Nâng cấp
- Thu thập
- Chọn lọc
- Phân loại
- Kết hợp
- Phân tích và tổng
hợp.
- Mô phỏng các vấn
đề
- Nhận thức vấn đề
- Chuẩn bị
- Thiết kế các thể
chế, tổ chức.
- Thiết lập các bộ
phận
- Vận hành
- Kiểm tra
13
- Cập nhật

- Ra quyết định dùng
hay không.
- Thúc đẩy
- Đổi mới (điều
chỉnh)
2. Mức độ tinh vi của các vòng đời công nghệ
Mức độ tinh vi của các thành phần công nghệ cũng được thể hiện một cách sơ
lược thông qua bảng sau:
Vật tư kỹ thuật (T) Con người
(H)
Thông tin (I) Tổ chức (O)
Thủ công
Cơ giới
Vạn năng
Chuyên dùng
Tự động
Tự động hoá có lập
trình
Tích hợp
Vận hành
Lắp đặt
Sửa chữa
Thích nghi hoá
Cải tiến
Đổi mới
Sáng tạo
TT Báo hiệu
TT mô tả
TT để lắp đặt
TT để sử dụng

TT thiết kế
TT mở rộng
TT đánh giá
Tổ chức đứng được
TC đứng vững
TC mở mang
TC bảo toàn
TC ổn định
TC nhìn xa
TC dẫn đầu
3. Độ hiện đại của các thành phần công nghệ
Để đánh giá độ hiện đại của các thành phần công nghệ, người ta thường so
sánh trình độ hiện đại của các thành phần công nghệ đang sử dụng với trình độ hiện
đại của các thành phần công nghệ tiên tiến nhất tại thời điểm đang xét. Và việc so
sánh đó được tiến hành theo các chỉ tiêu sau:
Thành phần CN Chỉ tiêu Các vấn đề so sánh
T Hiệu năng (P)
1. Quy mô vận hành
2. Độ chính xác cần có
3. Thao tác cần có
4. Phạm vi điều khiển
5. Chất lượng sản phẩm
H Tài năng của con
người (C)
1. Tiềm năng sáng tạo
2. Sự vươn lên
14
3. Khả năng hợp tác
4. Hiệu suất làm việc
5. Khả năng thực hiện đúng thời hạn

I Tính tích hợp (A)
1. Mức độ dễ lấy thông tin
2. Số nguồn liên kết về thông tin
3. Khả năng cập nhật
4. Mức độ dễ dàng trong giao lưu
O
Hiệu quả của tổ chức
đó (E)
1. Khả năng lãnh đạo
2. Mức độ tự trị của các thành viên trong
tổ chức
3. Tính định hướng
4. Khả năng đáp ứng yêu cầu của khách
hàng.
5. Không khí đổi mới trong tổ chức đó.
4. Chu trình sống của công nghệ
4.1. Chu trình sống của công nghệ
Công nghệ gồm hai phần: công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm. Chu
trình sống của công nghệ mô tả quy luật phát triển khởi đầu các giai đoạn phát triển
và kết thúc cảu một công nghệ theo thời gian.
a) Chu trình sống của công nghệ phần cứng và mối quan hệ với thị trường
Phần cứng của công nghệ bao gồm các máy móc thiết bị, các dụng cụ, các
phương tiện ở dạng vật chất, nó giống như một sản phẩm cho nên chu trình sống của
phần cứng cũng có những thời điểm phát sinh, phát triển, bão hoà, suy tàn và được
biểu thị thông qua đồ thị sau:
GĐ gthiệu GĐ ptriển GĐ bão hoà GĐ suy tàn

15
Số lượng
người áp

dụng
Đường lợi
nhuận của CN
Tgian
Hình 2: Chu trình sống của công nghệ phần cứng
* Giai đoạn giới thiệu (phôi thai):
Khi có một phát minh khoa học ra đời hay một nhu cầu đáp ứng đòi hỏi của thị
trường, các nhà công nghệ tiếp nhận và nảy sinh các ý đồ, dự định để đưa phát minh
đó vào thực tiễn, thực tế. Cuối giai đoạn đó có một công nghệ thành công và được
đưa ra áp dụng. Khi bắt đầu áp dụng thì có ít người áp dụng nó, chỉ có những người
thích đi tiên phong, mạo hiểm, có kinh nghiệm, có vốn lớn, có trình độ năng lực cao
áp dụng thành công. Điều này làm cho uy tín của họ tăng lên, noi gương cho những
người đi sau, một số khác áp dụng theo làm cho đường cong lúc đầu đi là là với trục
hoành sau đó dần đi lên. Đặc trưng của giai đoạn này là sự tăng trưởng tham số thực
hiện chậm. Trong giai đoạn này, số người áp dụng còn ít do giá thành công nghệ còn
cao và khả năng rủi ro khi áp dụng công nghệ lớn.
* Giai đoạn phát triển:
Sau một thời gian, do kêt quả sử dụng công nghệ, một số lớn người có nhu cầu
sẽ mua công nghệ này và tạo ra cầu đối với công nghệ đó.
Theo gương những người đi trước, một số khác nữa lại tiếp tục áp dụng và cứ
như thế lan truyền mãi làm cho đường cong tiếp tục đi lên. Trong giai đoạn này, các
tham số được cải thiện nhanh nhờ các cải tiến, sự tăng trưởng nhanh dần lên.
* Giai đoạn bão hoà:
Đa số người cần có công nghệ thì đã có, chỉ có một số ít người gọi là chậm đổi
mới (có thể còn do dự, ít vốn hay trình độ năng lực công nghệ yếu kém, ) nay áp
dụng nốt làm cho đường cong đi đến đỉnh bão hoà. Ứng với giai đoạn này công nghệ
bắt đầu đạt đến giới hạn của nó, ví dụ các giới hạn vật lý. Điều này cho biết nếu một
công nghệ đạt tới giới hạn tự nhiên của nó thì nó sẽ trở thành công nghệ bão hoà và
có khả năng bị thay thể hay huỷ bỏ.
* Giai đoạn suy tàn:

Khi công nghệ đã đạt tời giai đoạn bão hoà, tức tất cả mọi người cần có công
nghệ thì đã có, trong số họ có một số ít người muốn thay đổi công nghệ đó bằng một
16
công nghệ khác tiên tiến hơn, đẩy công nghệ đó vào giai đoạn suy tàn, điều này làm
cho đường cong đi xuống và tới chỗ bị triệt tiêu.
b. Chu trình sống của công nghệ phần mềm
Khác với công nghệ phần cứng, công nghệ phần mềm không bao giờ mất đi,
khi có một công nghệ cụ thể thay đổi thì phần cứng của công nghệ thay đổi còn phần
mềm của công nghệ được áp dụng cho một công nghệ khác. Công nghệ phần mềm
bao gồm các lý thuyết, các phương pháp, các bí quyết, các thông số. Chu trình sống
của công nghệ phần mềm tuân theo quy luật của đường cong chữ S và được chia
thành 3 giai đoạn: Giai đoạn phát triển chậm, giai đoạn phát triển toàn bộ công nghệ
và giai đoạn bão hoà.
Khi công nghệ bắt đầu đưa ra thị trường, quá trình phát triển của nó tương tự
như công nghệ phần cứng, sau đó một loạt các công nghệ khác hỗ trợ cho nó, giải
quyết các nguyên nhân cản trở sự áp dụng công nghệ. Nhờ những hỗ trợ này các công
nghệ phần mềm thường có sự đột biến trong ứng dụng. Sau đó, việc ứng dụng công
nghệ sẽ dần dần ít đi, công nghệ đi vào giai đoạn bão hoà.
* Nhận xét:
- Chu trình sống của công nghệ phần cứng và phần mềm đều được biểu thị
bằng đồ thị của hàm số mũ, điều này thể hiện thông qua dạng đồ thị hình chữ S.
Nghĩa là, nền kinh tế phải dựa trên cơ sở công nghệ hay nói cách khác lấy công nghệ
làm cơ sở động lực, tiền đề phát triển thì tốc độ kinh tế tăng trưởng nhanh và nền
kinh tế phát triển bền vững.
- Công nghệ dù hiện đại, tiên tiến đến đâu cũng đến một lúc nào đó đạt đến giai
đoạn bão hoà, suy tàn. Nghĩa là công nghệ không phải được sử dụng mãi trên thị
trường, do đó phải tiến hành thay đổi, đổi mới công nghệ. Muốn thay đổi công nghệ
thì phải có kiến thức, phải được đầu tư, cho nên nó gắn liền với việc đào tạo trình độ
công nghệ của người lao động.
- Về mặt kinh tế: Khi đầu tư vào công nghệ thì phải thu hồi lại vốn, do đó phải

tính khấu hao qua chu trình sống của công nghệ. Chúng ta có thể dựa vào đồ thị mô
tả chu trình sống của công nghệ phần cứng để thấy được cần khấu hao ở giai đoạn
nào mà lợi nhuận của công nghệ đang tăng, không nên khấu hao vào giai đoạn đầu và
giai đoạn cuối. Vấn đề đặt ra ở đây là đầu tư như thế nào? đầu tư ntn là phù hợp và
đầu tư vào cái gì?
- Đối với các doanh nghiệp, thông qua 4 giai đoạn nên kéo dài thời gian phát
triển và giai đoạn bão hoà, rút ngắn thời gian giới thiệu và suy tàn để tăng lợi nhuận.
Nhưng trong thực tế rất khó thực hiện và điều này phụ thuộc vào trình độ năng lực,
kinh nghiệm, vốn lớn, sự mạnh bạo trong đầu tư,
4.2. Ý nghĩa của chu trình sống công nghệ (Đọc giáo trình)
17
III. NHẬN THỨC VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ (Chương 5 - GT)
1. Nhận thức về đổi mới công nghệ
1.1. Khái niệm về đổi mới công nghệ
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình kỹ thuật đặ trưng quyết
định sự phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn đó. Ví dụ, thời kỳ đồ đá phát triển
cao hơn thời kỳ trước đó là nhờ sự xuất hiện và phát triển các công cụ lao động bằng
đá. Thời kỳ đó lại được thay thế bởi thời kỳ đồ đồng có mức độ phát triển cao hơn
với sự xuất hiện và phát triển của việc sản xuất và sử dụng các công cụ sản xuất bằng
đồng. Chính khả năng dễ chế tạo thành các công cụ lao động khác nhau của đồng và
tính hiệu quả cao hơn của các công cụ này đã làm cho chất lượng cuộc sống của con
người được nâng cao hơn, Và tiến bộ trong nhận thức của người dân đã dẫn đến sự
thay đổi cơ bản và tạo nên các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin là một xu thế
tất yếu của hệ thống công nghệ toàn cầu, đã và đang mang lại những hiệu quả to lớn
đối với sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp, mỗi quốc gia và toản thế giới
nhờ liên tục đổi mới công nghệ.
Vậy đổi mới công nghệ là gì? Đó chính là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ
và là quá trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công

nghệ. Có rất nhiều quan niệm về đổi mới công nghệ xuất phát từ những nhận thức về
công nghệ khác nhau, có quan điểm cho rằng, đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và
phát triển không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu
khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quán lý kinh tế,
xã hội. Theo quan điểm này, thì một sự thay đổi nhỏ trong các thành phần công nghệ
cũng được coi là đổi mới công nghệ , thực ra các hoạt động này nên coi là cải tiến
công nghệ thì chính xác hơn. Mặt khác, hệ thống công nghệ mà con người đang sử
dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một loại sản phẩm đã có thể dùng rất nhiều
loại công nghệ khác nhau, do đó nếu xếp tất cả cac thay đổi nhỏ về công nghệ thuộc
về đổi mới công nghệ thì việc quản lý đổi mới công nghệ là việc làm không mang
tính khả thi. Để có thể quản lý được các hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào
những hoạt động cơ bản. Do đó, chúng ta có thể nắm bắt khái niệm về đổi mới công
nghệ như sau:
“Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt
lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn,
hiệu quả hơn”.
Đổi mới công nghệ chỉ có thể nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông số
sản xuất như năng suất, chất lượng, hiệu quả, (gọi là đổi mới công nghệ quá trình)
18
hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc một dịch vụ mới phục vụ thị trường (Đổi
mới công nghệ sản phẩm).
1.2. Nhận thức về đổi mới công nghệ
a. Đổi mới công nghệ là tất yếu:
Chư chúng ta đã thấy, trong cuộc sống cũng như trong mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh và mọi lĩnh vực hoạt động khác thì cũng phải luôn luôn tiến hành đổi mới
trong nhận thức, trong quản lý và trong thực tiễn của hoạt động hay lĩnh vực đó. Như
vậy, nhận thức về đổi mới công nghệ là phù hợp với quy luật khách quan và là sự
thay đổi tất yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động khác.
Do công nghệ luôn luôn biến đổi theo chu trình sống của nó, tức là nó cũng
được sinh ra, phát triển và cuối cùng là suy vong. Cho nên đổi mới công nghệ là nhu

cầu tất yếu và phù hợp với quy luật phát triển. Các nhà quản lý nào cũng phải có
những hoạt động nhằm đổi mới công nghệ của mình, bởi nếu không hệ thống công
nghệ của họ sẽ bị đào thải, sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp đó sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
Tính tất yếu của đổi mới công nghệ còn do các lợi ích khác nhau cho doanh
nghiệp cũng như cho toàn xã hội. Lợi ích căn bản nhất đối với doanh nghiệp, đó là
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, từ đó có thể giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Thông qua đó, việc
đổi mới công nghệ giúp duy trì và mở rộng thị phần và dần chiếm lĩnh thị trường, mở
rộng phẩm cấp và tạo thêm chủng loại sản phẩm. Đó chính là cơ sở đem lại các lợi
ích thương mại. Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ còn đáp ứng được các quy
định, tiêu chuẩn và luật lệ; giảm tiêu hao các nguyên vật liệu, năng lượng; vải thiện
điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị; giảm tác động
xấu tới môi trường xung quanh.
b. Cơ sở của đổi mới công nghệ
Do công nghệ luôn luôn biến đổi theo chu trình sống của nó, cho nên đổi mới
công nghệ là phù hợp với quy luật phát triển. Cơ sở của đổi mới công nghệ là phải có
phát minh và sáng chế. Phát minh là việc tìm, khám phá ra những hiện tượng, quy
luật mang tính lý thuyết và được khoa học công nhận. Nhờ có những phát minh đó đã
làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người. Còn sáng chế là việc làm ra cái mới
chưa từng có trong tự nhiên và xã hội, hay có thể nói sáng chế là việc áp dụng các
phát minh lần đầu.
Việc thiết kế sản phẩm dựa trên sự đổi mới công nghệ thường gắn với việc
thiết kế những sản phẩm mới hoàn toàn hoặc cải tiến về cơ bản những sản phẩm đã
được biết đến theo hướng tạo cho sản phẩm những chức năng mới, làm cho sản phẩm
có chất lượng cao hơn hẳn, hoặc làm cho nó có kết cấu khác biệt rõ ràng, hoặc làm
giảm chi phí sản xuất một cách đáng kể. Như chúng ta đã nói đến trong phần 1.1.
19
Khái niệm về đổi mới công nghệ, có 2 hình thức: Đổi mới công nghệ quá trình và đổi
mới công nghệ sản phẩm. Đổi mới công nghệ sản phẩm là đổi mới căn cứ vào sản

phẩm, theo đó người ta lấy một sản phẩm là trung tâm và sau đó thiết kế, sắp xếp các
yếu tố khác. Ví dụ, đối với công nghệ sản phẩm thì người ta thường hay nói tới
những công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm khác nhau như công nghệ sản xuất
ôtô, công nghệ đóng tàu, công nghệ sản xuất máy tính, công nghệ sản xuất giày
dép, Hay nói tới đổi mới công nghệ theo quá trình, tức là dựa trên cơ sở những quy
trình xác định, căn cứ vào sự liên quan về mặt khoa học (hoặc tự nhiên, hoặc có tính
chất lí - hoá - sinh) của các hoạt động sản xuất cấu thành nên công nghệ đó. Sự liên
quan về mặt khoa học - kỹ thuật này là cơ sở, trung tâm để người ta tiến hành đổi mới
công nghệ . Chẳng hạn, người ta nói đến công nghệ hàn, công nghệ mạ, công nghệ
đúc, với tư cách là những công nghệ được thiết lập trên cơ sở những quy trình hoàn
toàn xác định trên cơ sở quan hệ KH - KT giữa các bước, các thao tác có liên quan
mật thiết với nhau theo một trình tự về cơ bản là xác định, không thể làm ngược
được.
Muốn đổi mới tốt phải xác định rõ mục tiêu và hoàn cảnh. Sự thành công của
đổi mới công nghệ gắn liền với năng lực công nghệ, tức đổi mới công nghệ gắn liền
với sự phát triển của khoa học.
Khi nghiên cứu đổi mới công nghệ phải chú ý ba khía cạnh của xã hội:
- Nhu cầu của xã hội;
- Các nguồn lực của xã hội;
- Đặc thù tình cảm của xã hội.
Nếu thiếu đi một trong các yếu tố đó thì đổi mới công nghệ không có khả năng
được áp dụng hoặc khó thành công.
Khi con người có khả năng cảm nhận một cách mạnh mẽ về nhu cầu của họ thì
họ mới dành các nguồn lực vào công nghệ. Bất luận nguồn gốc của nhu cầu xã hội
xuất phát từ đâu thì điều quan trọng vẫn là có đủ người cảm nhận thấy nhu cầu đó để
tạo được một thị trường mà có thể đáp ứng được các nhu cầu đó.
Các nguồn lực xã hội là một điều có ý nghĩa không kém để cho việc áp dụng
tiến bộ công nghệ thành công. Nhiều phát minh đã đi đến thất bại vì không có đủ
nguồn lực - vốn, vật tư và con người có trình độ để áp dụng. Ví dụ, các nguồn lực
dưới dạng vốn là sự tồn tại của năng suất thặng dư và sự tổ chức có khả năng đưa ra

các của cải sẵn có vào các hướng sao cho các nguồn tiến bộ công nghệ có thể sử dụng
nó được. Các nguồn lực dưới dạng năng lực có trình độ được hàm ý là sự có mặt của
các trình độ có khả năng tạo ra sản phẩm nghệ thuật và tạo ra được những quy trình
mới. Tóm lại, xã hội phải chuẩn bị tốt các nguồn lực thích hợp thì mới có thể duy trì
bền vững được sự tiến bộ công nghệ.
20
Đặc thù tình cảm của xã hội là một môi trường chịu tiếp nhận các ý tưởng mới,
một môi trường mà các nhóm người sẵn sàng xem xét sự áp dụng công nghệ mới một
cách nghiêm túc. Tính chất chịu tiếp nhận này có thể chỉ hạn chế ở một số lĩnh vực,
cũng có thể diễn ra dưới dạng một thái độ rộng lớn hơn đối với việc tìm kiếm cái
mới. Chẳng hạn, trong xã hội công nghiệp trung lưu của Anh trong thể kỷ 18 có rất
nhiều người sẵn sàng gieo các ý tưởng mới, là các nhà phát minh, những người nuôi
dưỡng ý tưởng mới. Các doanh nghiệp muốn mạo hiểm giúp tạo ra môi trường có
tính tiếp nhận như vậy. Sự tồn tại của một nhóm người sẵn sàng khuyến khích các
nhà phát minh và sử dụng các ý tưởng của họ là một trong những yếu tố then chốt tạo
nên sự thành công của công nghệ.
2. Phân loại đổi mới công nghệ
Từ những năm 1950, các nhà kinh tế học tân cổ điển đã nhận thức được vai trò
của công nghệ. Trong các mô hình phát triển của họ đã có sự tham gia của tiến bộ
công nghệ. Các nhà kinh tế học đã khẳng định chính đổi mới công nghệ đã giúp cho
các nền kinh tế, một mặt thoát khỏi tình trạng lợi tức giảm, mặt khác đạt được tỷ lệ
tăng trưởng dài hạn. Nếu đổi mới công nghệ có thể giúp nhà sản xuất tạo ra cùng một
lượng sản phẩm nhưng tiết kiệm được vốn nhiều hơn tiết kiệm lao động, trong trường
hợp này người ta gọi là đổi mới công nghệ tiết kiệm vốn. Nếu đổi mới công nghệ tiết
kiệm lao động nhiều hơn tiết kiệm vốn thì đổi mới công nghệ được gọi là đổi mới
công nghệ tiết kiệm lao động.
Trong trường hợp đổi mới công nghệ có tác dụng tiết kiệm cả hai yếu tố cùng
một tỷ lệ, thì đổi mới công nghệ được gọi là trung tính.
Cũng có cách phân loại đổi mới công nghệ phần cứng và đổi mới công nghệ
phần mềm.

3. Quá trình đổi mới công nghệ
3.1. Các giai đoạn đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ không phải là một hoạt động độc lập mà là một quá trình
tổng hợp bao gồm nhiều quá trình nhỏ có liên quan mật thiết với nhau. Nó không chỉ
là sự ấp ủ, phát triển một ý tưởng mới hoặc phát minh một thiết bị mới, phát triển một
thị trường mới, mà nó bao gồm tất cả các công việc trên và thống nhất với nhau.
Thực chất của quá trình đổi mới công nghệ là một hệ thống các hoạt động phức
tạp nhằm khuyến đổi các ý tưởng và kiến thức khoa học thành thực tế vật chất và các
ứng dụng trong thế giới hiện thực. Đó là một quá trình biến đổi tri thức thành các sản
phẩm và dịch vụ hữu ích có tác động tới sự phát triển của nền kinh tế.
Lịch sử phát triển của công nghệ cho thấy có 8 giai đoạn trong quá trình đổi
mới công nghệ: Nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, triển khai công nghệ, thực
thi công nghệ, sản xuất, marketing, truyền bá và mở rộng công nghệ.
21
 Nghiên cứu cơ bản: Là những nghiên cứu nhằm tăng thêm sự hiểu biết chung
về các quy luật tự nhiên.
 Nghiên cứu ứng dụng: Là loại nghiên cứu hướng trực tiếp vào việc giải quyết
một hoặc những vấn để xã hội đặt ra. Sự thành công của nghiên cứu ứng dụng
dẫn đến sự ra đời của công nghệ mới và sử dụng nó.
 Triển khai công nghệ: Là những hoạt động của con người nhằm biến đổi tri
thức và các ý tưởng thành phần cứng, phần mềm hoặc dịch vụ.
 Thực thi công nghệ: Đây là một loạt các hoạt động gắn với việc đưa một sản
phẩm ra thị trường. Thực thi công nghệ có quan hệ với việc ứng dụng lâng đầu
tiên một ý tưởng hoặc một sản phẩm. Nó liên kết với các hoạt động nhằm đảm
bảo đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường một cách thành công về giá
cả, tính an toàn và thoả mãn các khía cạnh về môi trường.
 Sản xuất: Đây là một loạt các hoạt động gắn với việc mở rộng loại sản phẩm
hoặc dịch vụ cụ thể. Sản xuất bao gồm việc chế tạo, quản lý, cung cấp và phân
phối.
 Marketing: Một loạt các hoạt động đảm bảo cho người tiêu dùng tiếp nhận

công nghệ. Nó bao gồm việc đánh giá thị trường, chiến lược phân phối, thúc
đẩy bán hàng và xác định thới quen, tập quán của khách hàng.
 Truyền bá: Đây là chiến lược và các hoạt động đảm bảo sự lan truyền và tăng
vị thế của công nghệ trên thị trường. Việc truyền bá phụ thuộc vào phương
pháp khai thác công nghệ và phương pháp Marketing công nghệ trong thực tế.
 Mở rộng công nghệ: Đây là giai đoạn với mục tiêu là duy trì ưu thế cạnh tranh
của công nghệ. Nó bao gồm việc cải tiến công nghệ, phát triển thể hệ mới hoặc
ứng dụng mới của công nghệ, cải tiến chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cũng
như đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của khách hàng
3.2. Quá trình đổi mới công nghệ
a) Đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp
Với doanh nghiệp, người ta thể hiện quá trình đổi mới công nghệ thông qua sơ
đồ khối như sau:
+ Nảy sinh ý đồ: Khi xuất hiện nhu cầu công nghệ, các nhà công nghệ tiếp
nhận nhu cầu và tìm cách đáp ứng nhu cầu đó; Phân tích các giải pháp; Chọn giải
pháp tốt nhất và tiêu chuẩn lựa chọn; Đề đạt thực thi.
+ Xác định khái niệm: Xác định khái niệm sản phẩm hay dịch vụ; Định mục
tiêu kỹ thuật và ưu tiên; Dự kiến kết quả thực hiện.
22
+ Phân tích thị trường: Xác định thị trường; Phân tích nhu cầu hiện tại và
tương lai; Tìm hiểu khách hàng; Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh; Xác định cơ hội.
+ Phân tích kỹ thuật: Các nguồn lực cần thiết; Nguồn lực sẵn có; Lịch trình
triển khai.

ờtưytuty
Hình 3: Các bước điển hình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp
+ Kế hoạch kinh doanh: Phân tích ma trận SWOT; Phân tích kinh tế; Vốn;
Triển vọng chiến lược.
+ Phê chuẩn: Phê chuẩn của cấp quản lý cao nhất của công ty; Các phê chuẩn
khác.

+ Triển khai: Sản xuất thử; Kiểm định, thử nghiệm.
+ Marketing: Kiểm định trên thị trường.
+ Sản xuất và thương mại hoá: Sản xuất đại chà; Hoàn thiện công nghệ; Xây
dựng hệ thống vận chuyển tới các đại lý, kho tàng,
+ Loại bỏ: Do sự lỗi thời của công nghệ hay các vấn đề môi trường.
b) Quá trình đổi mới công nghệ ở phạm vi quốc gia
Đối với hệ thống công nghệ quốc gia, theo kinh nghiệm của các nước đã trải
qua quá trình công nghiệp hoá thành công thì quá trình đổi mới công nghệ thường trải
qua 7 bước như sau:
- Nhập công nghệ để thoả mãn các nhu cầu tối thiểu;
23
Nảy
sinh ý
đồ
Loại
bỏ
Xác định
khái niệm
Phân tích
thị trường
Phân tích
kỹ thuật
Kế hoạch
kinh doanh
Phê chuẩn
Sản xuất và
thương mại hoá
Kiểm định thông
qua thị trường
Triển khai

- Tổ chức cơ sở hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập
khẩu;
- Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài thông qua lắp ráp sản phẩm (SDK, CKD,
IKD);
- Phát triển công nghệ thôgn qua mua licence;
- Thích nghi, cải tiến công nghệ nhập khẩu. Tiến hành đổi mới công nghệ nhờ
nghiên cứu và triển khai;
- Xây dựng tiềm lực công nghệ để xuất khẩu công nghệ trên cơ sở nghiên cứu
và triển khai;
- Khẳng định vị thế thị trường công nghệ thế giới dựa trên đầu tư cao cho
nghiên cứu cơ bản.
3.3. Các hình thức đổi mới công nghệ
a) Đổi mới công nghệ thông qua thay thế công nghệ
- Đây là một dạng thay đổi truyền thống, tức là công nghệ mới thay thế cho
công nghệ cũ.
- Biểu hiện của thay thế công nghệ: công nghệ mới chiếm lĩnh thị trường của
công nghệ cũ.
- Điều kiện để công nghệ mới thay thế công nghệ cũ: công nghệ mới phải ưu
việt hơn, có những chức năng mới, giá trị sử dụng mới hoặc tạo ra những sản phảm
mới có chất lượng cao hơn hẳn, hoặc làm cho các sản phẩm có kết cấu khác biệt rõ
ràng, hoặc làm giảm chi phí sản xuất một cách đáng kể. Ví dụ như công nghệ sản
xuất ra ti vi màu đổi mới hơn công nghệ sản xuất ti vi đen trắng.
- Đặc điểm của hình thức thay thế công nghệ:
+ Có rất nhiều công nghệ thay thế cho công nghệ cũ.
Ví dụ: Để sản xuất ra điện năng tiêu dùng thì người ta thường dùng công nghệ
nhiệt điện nhưng khi khoa học phát triển thì có thể thay thế bằng các công nghệ khác
như công nghệ thuỷ điện, công nghệ điện nguyên tử hay công nghệ loại năng lượng
mới (gió, thuỷ triều, )
+ Các công nghệ thay thế cho nhau nhưng vẫn song song tồn tại.
Ví dụ, công nghệ thuỷ điện thay thế công nghệ nhiệt điện nhưng chúng vẫn tồn

tại song song với nhau, như nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, và thuỷ điện Hoà Bình,
Ialy, thủy điện Sơn la,
b) Đối mới công nghệ thông qua truyền bá công nghệ
24
- Biểu hiện: Công nghệ mới thay thế cho công nghệ cũ nhờ vào phương tiện
thông tin đại chúng và các phương tiện thông tin khác, điều đó được đánh giá dựa
trên số người sử dụng công nghệ mới đó.
- Đặc điểm: Việc truyền bá công nghệ phụ thuộc vào vị trí địa lý, cự ly, khoảng
cách, uy tín và các phương tiện thông tin liên lạc.
IV. CÔNG NGHỆ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội
Quan niệm về sự phát triển: phát triển là bao hàm toàn bộ những thay đổi cần
thiết để một xã hội hay một cộng đồng có thể duy trì được trạng thái phù hợp với
mong muốn và phúc lợi của dân chúng; nó bao gồm tất cả những thay đổi, trong đó
một hệ thống xã hội từ một hoàn cảnh hầu như không thuận lợi tiến đến một hoàn
cảnh được coi là tiến bộ hơn.
Để đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, một cộng đồng về
mặt phương pháp luận thì chưa có phương pháp nào là hoàn hảo cả, tuy nhiên người
ta đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá như sau:
- Tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm trong nước
- Chỉ số phát triển nhân bản: Năm 1990, Liên Hợp Quốc đưa ra một chỉ số
đánh giá - chỉ số phát triển nhân bản (HDI hay còn gọi là chỉ số phát triển con người)
- dựa trên 3 yếu tố cơ bản sau:
+ GDP tính theo đầu người;
+ Trình độ học vấn trung bình (tính bằng số người đi học trong độ tuổi đi học);
+ Tuổi thọ trung bình đặc trưng cho tiến bộ xã hội về chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng.
- So sánh sự phát triển giữa các quốc gia với nhau.
2. Vai trò và tác động của công nghệ đến sự phát triển kinh tế - xã hội
2.1 Công nghệ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội

Lịch sử phát triển 200 năm vừa qua thể hiện ở 4 thời điểm, cả 4 thời điểm đều
được gọi là 4 bước ngoặt đánh dấu sự tiến bộ về mặt công nghệ:
- Thời điểm năm 1780: Các nước tiến hành công nghiệp hoá (chẳng hạn ở nước
Anh, người ta phát minh ra máy hơi nước từ đó thúc đẩy công nghệ luyện kim, luyện
gang, công nghệ dệt và các ngành công nghiệp khác).
Ví dụ:
Năm 1788 sản xuất được 65.000 tấn gang
25

×