Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 9 PHẦN TRUYỆN, THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.87 KB, 31 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM ĐẢO
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TAM ĐẢO

CHUYÊN ĐỀ
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 9
PHẦN TRUYỆN, THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.

Họ và tên: TRẦN THỊ THANH HUYỀN
Chức vụ: Giáo viên.
. Đơn vị: Trường THCS Tam Đảo
Huyện Tam Đảo – Tỉnh Vĩnh Phúc.
NĂM HỌC 2013 - 2014
CHUYÊN ĐỀ
1
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 9
PHẦN TRUYỆN, THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.
***
A- MỤC ĐÍCH CHUYÊN ĐỀ:
1.Thông qua nội dung chuyên đề giúp đội tuyển HSG Ngữ văn 9 nắm được các kiến
thức cơ bản, kiến thức nâng cao cũng như các kiểu bài thường gặp có liên quan đến
phần truyện, thơ Việt Nam hiện đại thuộc chương trình Ngữ văn 9.
2. HS biết vận dụng kiến thức đã học vào việc làm các bài tập liên quan đến nội dung
chuyên đề.
3. Giáo dục cho HS có ý thức học tập tốt, tìm hiểu tài liệu để mở rộng, nâng cao kiến
thức, có những hiểu biết sâu sắc hơn về phần truyện, thơ Việt Nam hiện đại; vận dụng
tốt kiến thức đã học vào việc giải các bài tập .
B - ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN THỰC HIỆN.
1. Đối tượng bồi dưỡng: Đội tuyển HSG Ngữ Văn lớp 9.
2. Phạm vi kiến thức bồi dưỡng:
- Kiến thức cơ bản và nâng cao phần truyện, thơ Việt Nam hiện đại thuộc chương trình
Ngữ văn 9.


- Các dạng đề thường gặp liên quan đến phần truyện, thơ Việt Nam hiện đại thuộc
chương trình Ngữ văn 9.
3. Thời gian thực hiện: 22 tiết
- Lí thuyết: 4 tiết
- Bài tập minh họa: 18 tiết.
+ Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học: 6 tiết
+ Kiểu bài phân tích nhân vật: 2 tiết
+ Kiểu bài so sánh Văn học: 4 tiết
+ Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học: 2 tiết
C - NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
I - Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề.
1. Kiến thức cơ bản trong SGK.
a) Các tác phẩm truyện, thơ Việt Nam hiện đại.
Phần thơ:
- Từ 1945 đến 1954: Đồng chí
- Từ 1954 đến 1964: Đoàn thuyền đánh cá, Bếp lửa, Con cò.
2
- Từ 1965 đến 1975: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Bài thơ về tiểu đội xe
không kính.
- Sau 1975: Ánh trăng, Viếng lăng Bác, Mùa xuân nho nhỏ, Nói với con, Sang thu.
Phần truyện:
- Làng.
- Lặng lẽ Sa Pa.
- Chiếc lược ngà.
- Bến quê.
- Những ngôi sao xa xôi.
b) Một số thao tác cần lưu ý để làm tốt một bài văn nghị luận về các tác phẩm
truyện, thơ Việt Nam hiện đại thuộc chương trình Ngữ văn 9.
Bước 1: Nắm vững nội dung kiến thức các tác phẩm Văn học.
- Tác phẩm do ai sáng tác?

- Sáng tác trong hoàn cảnh nào?
- Đề tài và chủ đề của tác phẩm?
- Tóm tắt nội dung của tác phẩm đó (đối với tác phẩm văn xuôi)?
- Đối với tác phẩm thơ: nắm nội dung toàn tác phẩm, học thuộc lòng những phần nội
dung nằm trong chương trình học.
- Các thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong tác phẩm là gì?
Bước 2: Trước một bài Văn cần xem xét các dạng đề đối với tác phẩm đó - dạng đề
ở đây được hiểu là về thể loại và nội dung.(VD: Với tác phẩm Làng của Kim Lân, có
thể gắt gặp các dạng đề như phân tích các nhân vật trong tác phẩm, phân tích nghệ thuật
miêu tả tâm lý và khắc họa nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ) Ở mỗi
dạng đề cần định hướng được những ý chính cần triển khai.
Bước 3: Lập dàn bài chi tiết cho từng dạng đề ở mỗi tác phẩm.
- Đối với mỗi dạng đề cần lập ra một dàn bài. Việc làm này sẽ giúp HS lường hết mọi
tình huống đề có thể bắt gặp và không phải lúng túng khi làm bài.
- Khi lập dàn ý HS tự đặt ra những câu hỏi và trả lời cho câu hỏi của chính mình. Điều
này sẽ giúp HS vạch được cho mình những ý chính thật đầy đủ. Sau khi có được những
ý chính mới triển khai các ý phụ. Thêm vào đó HS có thể tham khảo các bài văn hay để
bổ sung các ý cần thiết. Bằng cách sơ đồ hóa dàn bài bằng những gạch đầu dòng và mũi
tên sẽ giúp HS thấy rõ các ý mà mình định triển khai. Và như thế, việc thiếu ý là một
điều hiếm khi xảy ra khi làm bài.
Bước 4: Viết bài và sửa chữa.
Trong quá trình viết bài cần vận dụng đa dạng phong phú các phép lập luận. Việc sử
dụng ngôn từ không chỉ đúng mà cần phải hay, biểu cảm. Khi viết chú ý vận dụng các
phép liên kết để bài văn được lô gic chặt chẽ, tự nhiên, thuyết phục được người đọc
người nghe Đặc biệt khi nghị luận về một bài thơ hoặc đoạn thơ có khác với nghị luận
3
tác phẩm truyện ở chỗ: nếu như những nhận xét đánh giá về nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân
vật, cách tạo dựng tình huống truyện, cách xây dựng nhân vật thì những đánh giá về
nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ lại được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh,

giọng điệu, các bút pháp nghệ thuật, cách ngắt nhịp Khi nghị luận một tác phẩm
truyện có thể tách rời giữa những nhận xét về nội dung và nghệ thuật nhưng nghị luận
thơ lại phải đi từ nghệ thuật đến nội dung. Trong quá trình triển khai các luận điểm, luận
cứ cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng của người viết về tác phẩm. Viết xong bài
văn cần đọc lại và sửa chữa những lỗi sai có thể mắc phải.
c) Tìm hiểu từng kiểu bài cụ thể.
c1. Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học: cần làm nổi bật được nội dung nghệ thuật
chính của tác phẩm, có phân tích chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực,
căn cứ vào từng tác phẩm để có cách triển khai cụ thể. Cần liên hệ với các tác phẩm
cùng đề tài cùng giai đoạn để người đọc người nghe hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm đang
nghị luận
- Các dạng bài phân tích tác phẩm thường gặp:
* Dạng bài phân tích một vấn đề nào đó của tác phẩm : Dạng bài này thường gặp dưới
hình thức phân tích một nhận định về tác phẩm. Nhận định đó có thể thuộc về nội dung,
thuộc về đề tài, thuộc về tính chất, thuộc về một khái niệm lí luận Văn học hoặc tác
dụng của tác phẩm.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:
+ Xác định đúng vấn đề của tác phẩm cần phải phân tích.
+ Phát hiện xem lời nhận định có những khía cạnh nào nói, quan hệ giữa khía cạnh đó, ý
nghĩa tổng hợp lời nhận định? Những chi tiết của tác phẩm biểu hiện các khía cạnh ấy.
+ Đánh giá được những ý nghĩa, giá trị và tác dụng của vấn đề.
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Đề bài yêu cầu phân tích nhận định của ai? Nhận định về tác phẩm nào? Tác giả nào?
Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?
+ Lời nhận định thiên về nội dung tác phẩm, tác dụng của tác phẩm hay yêu cầu dùng
tác phẩm để minh họa cho một vấn đề của lí luận Văn học?
+ Lời nhận định đó có những khía cạnh nào cần tách bạch ra để làm rõ hơn? Những chi
tiết nào của tác phẩm biểu hiện từng khía cạnh của vấn đề?
+ Ý nghĩa giá trị của lời nhận định.

Dàn ý:
- Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?
+ Trích dẫn nhận định.
- Thân bài:
4
+ Giải thích và chứng minh từng khía cạnh của nhận định.
+ Giải thích quan hệ giữa các khía cạnh.
- Kết bài: Ý nghĩa giá trị của lời nhận định.
* Dạng bài phân tích tác phẩm thơ:
Yêu cầu khi làm dạng bài này:
+ Tìm ra được niềm xúc động của nhà thơ, phát hiện cách thức nhà thơ diễn đạt niềm
xúc động ấy.
+ Tìm ra những giá trị đóng góp cho cuộc sống của tác phẩm thơ ấy.
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Bài thơ là cảm xúc của tác giả về con người hay sự việc, hiện tượng nào?
+ Có mấy ý thơ? (có thể tìm ý bằng cách cắt ngang hay bổ dọc).
+ Từng ý thơ đã được diễn đạt bằng những từ ngữ đặc sắc, những hình ảnh đẹp đẽ,
những âm thanh nhịp điệu ra sao?
+ Giá trị đóng góp cho cuộc sống?
Dàn ý:
- Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét đánh giá của mình.
( Nếu là phân tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái
quát nội dung cảm xúc của nó).
- Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của
đoạn thơ, bài thơ.
- Kết bài: Khái quát giá trị ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
* Dạng bài phân tích tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:

+ Nắm chắc cốt truyện bằng cách liệt kê, theo dõi các chặng đường phát triển của của
tình tiết.
+ Xác định nhân vật trung tâm và những chi tiết tiêu biểu rồi sắp xếp các chi tiết ấy theo
một trình tự hợp lý. Bình xét các chi tiết ấy để giải thích tính cách nhân vật.
+ Hiểu lời kể của tác giả. Từ ngữ, cách viết, lối kể của tác giả đã làm hiển hiện được
cảnh, việc, người như thế? Truyền đến cho người đọc tư tưởng quan điểm gì?
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Những chặng đường phát triển chủ yếu của các sự việc, các biến cố trong tác phẩm.
+ Những chi tiết biểu hiện tính cách nhân vật trong từng chặng đường? Quá trình biến
đổi của nhân vật qua các chặng đường?
5
+ Từ câu chuyện được sắp xếp có đầu cuối, từ nhân vật có suy nghĩ hành động trong các
tình huống ấy gợi cho ta những cảm xúc, nhận định, những liên hệ suy tưởng gì?
Dàn ý:
- Mở bài: Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, chủ đề tác phẩm, mục đích
phân tích tác phẩm và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
- Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có phân
tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
- Kết bài:
+ Nêu nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
+ Khẳng định vị trí của tác giả và tác phẩm trong Văn học, trong cuộc sống.
c2. Kiểu bài phân tích nhân vật.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:
- Xác định được những đặc điểm tính cách của nhân vật sau đó phân tích nhận xét từ
nhiều phía để làm sáng tỏ tính cách của nhân vật:
+ Tính cách nhân vật thể hiện qua những chi tiết cụ thể về diện mạo, dáng dấp, ngôn
ngữ, suy nghĩ, tình cảm, hành động của nhân vật trong các hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy cần
phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân loại chúng theo một trình tự
hợp lí.

+ Trên cơ sở sắp xếp, phân loại các chi tiết tiêu biểu mà phân tích nhận xét từ nhiều
phía để làm sáng tỏ tính cách nhân vật.
+ Phân tích bình xét về tính cách nhân vật, tổng hợp các mặt đã phân tích thành một
nhận định khái quát, nêu bật ý nghĩa và tác dụng nhận thức, giáo dục của nhân vật.
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Đề bài yêu cầu phân tích một hay một nhóm nhân vật của một hay một vài tác phẩm
nào?
+ Chọn trình tự nào để sắp xếp cho hợp lí? Những chi tiết nào biểu hiện tính cách nhân
vật?
+ Nhân vật đã góp phần thể hiện chủ đề như thế nào? Đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề
gì đặt ra trong tác phẩm?
Lưu ý: Khi lập dàn ý ở dạng bài này phải vạch hai ý chính nhất: ngoại hình và tính cách
của nhân vật. Bên cạnh đó một số yếu tố như: ngôn ngữ, hành động, cử chỉ, nội tâm mối
quan hệ với xã hội với các nhân vật khác. Tất cả các yếu tố này tựu trung lại cũng bổ trợ
và làm nổi bật tính cách của nhân vật. Song song với phân tích nội dung cần lưu ý và
nhấn mạnh đến các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm Văn học thường mang tính hình tượng, đại
diện cho một tầng lớp, một thế hệ nên sau quá trình phân tích đặc điểm nhân vật cần rút
ra được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm, qua nhân vật đó (Khái quát
bình diện Văn học).
6
Trong mỗi một ý lớn sẽ có thêm nhiều ý nhỏ hơn, cần dùng một mũi tên cho một
ý để sơ đồ hóa dàn bài của mình. Và ở mỗi ý nhỏ, cần tìm ra những dẫn chứng phù hợp
minh chứng cho những đặc điểm đó. Dẫn chứng chính là những đoạn trích trong tác
phẩm, cần học thuộc một số câu văn tiêu biểu để minh chứng cho những ý kiến đánh giá
của mình trong bài viết. Qua phân tích những dẫn chứng đó nhân vật sẽ hiện lên với đầy
đủ tính cách, chân thực và sống động.
c3. Kiểu bài so sánh Văn học.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:

- Yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện: đề tài, nhân vật, tình
huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật…
- Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng
có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại,
giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền Văn học.
- Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là phải chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa
hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của
từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng
muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần
hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng Văn học.
Tuy nhiên, đối với đối tượng học sinh phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần
phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả
năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực của các
em. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ để kiểm
định những vấn đề này.
- Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh Văn học cũng có 3 phần: mở
bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm
khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về
một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi.
Dàn ý
- Mở bài:
+ Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
+ Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
- Thân bài:
+ Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
+ Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ
yếu là thao tác lập luận phân tích)
+ So sánh nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận

nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh)
7
+ Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã
hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của
thời kì Văn học…( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập
luận phân tích)
- Kết bài:
+ Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
+ Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
c4. Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học
(VD: Tình yêu quê hương, đất nước qua các văn bản biểu cảm hiện đại đã được học
trong chương trình Ngữ văn lớp 9), HS cần đi từ vấn đề bao quát nhất: Thế nào là tình
yêu Tổ quốc? Sau đó đi vào chứng minh những biểu hiện cụ thể của tình yêu Tổ quốc
trong các tác phẩm thơ hiện đại trong Ngữ văn 9: Tình yêu Tổ quốc của con người Việt
Nam trong chiến đấu; Tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam trong lao động; Tình
yêu Tổ quốc là tình yêu mến lãnh tụ, thành kính với lãnh tụ; Tình yêu Tổ quốc cũng là
tình yêu thiên nhiên quê hương tươi đẹp.
Dàn ý: căn cứ vào từng đề bài để có cách triển khai cụ thể.
2. Kiến thức nâng cao, mở rộng.
- Trăng trong thơ hiện đại Việt Nam qua một số văn bản đã học trong SGK Ngữ Văn 9
–tập I.
- Phân tích, so sánh hình ảnh trăng (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng) trong ba bài thơ:
“Đồng chí”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Ánh trăng”.
- Nét đẹp của thế hệ trẻ qua hình ảnh người lính trong văn bản Bài thơ Tiểu đội xe
không kính và anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa.
- Hình ảnh con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ qua các tác phẩm
truyện ngắn được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở.
- Hình ảnh con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong công cuộc
xây dựng cuộc sống mới qua hai tác phẩm “Làng” của Kim Lân và “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long.

- Tình yêu quê hương, đất nước qua các văn bản biểu cảm hiện đại đã được học trong
chương trình Ngữ văn lớp 9.
- Tình cảm gia đình qua các tác phẩm truyện, thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình
Ngữ văn lớp 9.
II -Hệ thống các dạng bài tập đặc trưng của chuyên đề.
- Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học.
- Kiểu bài phân tích nhân vật.
- Kiểu bài so sánh Văn học.
- Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học.
8
III- Hệ thống các phương pháp cơ bản, đặc trưng để giải các dạng bài tập trong
chuyên đề.
- Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề, gợi tìm, đọc, nghiên cứu tài liệu, phân tích, giảng
bình, liên hệ, so sánh, thống kê, khái quát hoá.
- Cho HS tiếp cận VD mẫu để học sinh nhận biết cách làm từng dạng bài.
- Thực hành viết bài văn theo yêu cầu.
IV- Hệ thống các ví dụ, bài tập cụ thể cùng lời giải minh họa cho chuyên đề.
1. Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học.
* Dạng bài phân tích một vấn đề nào đó của tác phẩm.
VD: Đọc “ Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long có ý kiến cho rằng đây là một
truyện ngắn đầy chất thơ, chất chữ tình.
Hãy phân tích và chứng minh.
Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) quê huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là
cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Ông tham gia hoạt động văn nghệ trong những
năm kháng chiến chống Pháp ở Nam Trung Bộ. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công
tác ở Hội nhà văn Việt Nam, chuyên về sáng tác và biên tập. Những truyện ngắn của
Nguyễn Thành Long không gân guốc, gai góc mà thường pha chất kí, mang vẻ đẹp
trong trẻo, thơ mộng, giàu chất trữ tình. Tác phẩm chính: Bát cơm Cụ Hồ ( 1955 ),
Những tiếng vỗ cánh ( 1967 ), Giữa trong xanh (1972)… Với truyện kí Bát cơm Cụ Hồ
– 1953 Nguyễn Thành Long đã đựơc trao giải thưởng Phạm Văn Đồng.

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là kết quả trong chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè
năm 1970, sau này in trong tập Giữa trong xanh (1972) của Nguyễn Thành Long. Đây
là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đến với truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa pa”, ta không chỉ thán phục
những con người làm việc quên mình vì người khác, vì tổ quốc mà còn say sưa, ngây
ngất trong chất men say trữ tình lãng mạn của một thiên nhiên nên thơ qua những trang
viết rất mực tài hoa. Phải nói rằng một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp
phần thành công cho truyện ngắn này là chất trữ tình.Vì thế đã có ý kiến cho rằng đây
là một truyện ngắn đầy chất thơ, chất chữ tình.
Truyện ngắn có cốt truyện khá đơn giản, chỉ tập trung vào cuộc gặp gỡ tình cờ
giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên- nhân vật chính của tác phẩm trên đỉnh
Yên Sơn cao 2600mét. Giữa khung cảnh thiên nhiên Sa pa đẹp như một bức tranh.
Chất thơ bàng bạc toát lên từ khung cảnh thiên nhiên nên thơ ấy. Sa Pa được
miêu tả dưới một góc nhìn của một nhà hội hoạ. Nói đến Sa Pa, người ta sẽ nghĩ ngay
đến một nơi nghỉ ngơi, yên tĩnh và tuyệt đẹp. Nghĩ ngay đến những rừng hoa ban trắng
muốt, những cánh rừng bạt ngàn dưới ánh nắng ban mai, những đồi núi trập trùng dưới
sương mờ bao phủ, những thửa ruộng bậc thang, những phiên chợ tình lãng mạn
Thiên nhiên Sa Pa dưới ngòi bút của Nguyễn Thành Long hiện lên cũng không kém
phần sinh động. Thật vậy, Nguyễn Thành Long đã nhập vai, đã hóa thân vào người hoạ
9
sĩ, mượn cái nhìn của nghệ thuật hội họa, mượn lăng kính đầy màu sắc để tô vẽ nên một
thiên nhiên không kém phần thơ mộng, lung linh, kì ảo, trữ tình.
Sa Pa xuất hiện đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn bò lang cổ
có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là Sa Pa rồi! Bạn
đã nhận ra chưa? Còn người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi tơ tưởng đến một
ngày được về ở hẳn nơi ấy. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên
nhiên có sức hấp dẫn lòng người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường
như mọi vật đều trở nên sinh động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc,
khiến con người họa sĩ và cô kĩ sư cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh. Đến đây ta lại
như thấy cái nhìn của một nhà làm phim đang quay rất chậm và cận cảnh một bức tranh

phong cảnh. Cảnh đẹp quá, khiến tay quay như không dám lia nhanh máy và dường như
nín thở vì sợ cảnh ấy vụt biến khỏi tầm nhìn “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy
rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng
bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà lên trên
màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên vòm lá ướt sương,
rơi xuống đường cái, luồn vào cả gầm xe”. Rõ ràng tác giả đang ở điểm nhìn từ trên cao
nhìn xuống. Không gian bao quát, có cả mây, có cả rừng và thậm chí xuống đến cả gầm
xe nhưng lại đựơc nhìn theo có một chiều. Vẫn rất hợp lí. Ta cứ tuởng tượng, người hoạ
sĩ đang ngồi trên xe và xe thì đang nằm ngang với mây trời Tây Bắc. Chính vì lẽ đó mà
có những đụn mây vón cục xen vào những tán lá rừng. Vì lẽ đó mới thấy được những
giọt sương len trên vòm lá, cùng lúc với những tia nắng mặt trời chiếu trên đỉnh những
chòm thông. Thiên nhiên được nhân hoá trở nên sống động lạ kì “ Nắng len tới”; chòm
thông rung tít với “những ngón tay bằng bạc”; cây tử kinh với cái “ Nhìn bao che” “nhô
dầu” ; “ mây xua nắng đi” Bức tranh hiện lên với nhiều màu sắc tươi sáng, màu xanh
của những cánh rừng bạt ngàn, màu tím của những cây tử kinh, màu trắng của những
đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc nắng Khung cảnh bồng bềnh, sương khói, lãng
đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy chính là khung nền cho một cuộc gặp gỡ cũng
thấm đẫm chất trữ tình, bàng bạc chất nên thơ.
Chất trữ tình trong truyện chủ yếu toát lên từ cuộc gặp gỡ tình cờ mà để lại
nhiều dư vị ấy, từ những nét đẹp rất đáng mến của anh thanh niên, từ những câu
chuyện anh kể về cuộc sống của mình giữa lặng lẽ Sa Pa. Trong câu chuyện rất mực
tình cờ trên một chuyến xe, qua lời kể của bác tài xế, anh thanh niên hiện lên là một
chàng thanh niên “Cô độc nhất thế gian” với một nỗi “thèm người” hiếm có. Nỗi “thèm
người” ấy khiến anh phải một mình đẩy cả một gốc cây to ra ngáng đường xe chạy, để
được nhìn đôi chút, được trò chuyện một lát với những người từ dưới xuôi lên. Nỗi
“thèm người” ấy không phải là nỗi nhớ phồn hoa đô thị, nhớ cuộc sống an nhàn ở dưới
xuôi mà đó là thèm cái tình người, thèm được bày tỏ tình cảm. Bởi dù phải lao động
một mình ở một nơi hoàn toàn khắc nghiệt như vậy nhưng con người ấy không hề cảm
thấy buồn tẻ, cô đơn. Ta hãy nghe anh tâm sự: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi
chứ sao gọi là một mình được?”. Nỗi “thèm người” của anh chính là lẽ đương nhiên

của một con người, của một chàng trai trẻ.
Qua cái nhìn của người họa sĩ, anh thanh niên hiện lên là một “chàng trai nhỏ bé
với khuôn mặt rạng rỡ”. Anh sống trong một căn nhà ba gian, sạch sẽ với bàn ghế, sổ
sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại ở
một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách. Một cuộc
10
sống gọn gàng, ngăn nắp của một người yêu đời, say mê công việc và không lấy gì là
buồn chán cô đơn. Ngoài những giờ ốp, anh nuôi gà, trồng hoa và đọc sách. Với anh,
sách là người bạn. Cuộc sống giản dị ấy tưởng chừng giản đơn nhưng để có nó thật
không đơn giản chút nào. Bác họa sĩ già khi thấy anh thanh niên vội vội vàng vàng chạy
trước lên nhà khi mời khách lên chơi đã thoáng có ý nghĩ như vậy. “Khách tới nhà bất
ngờ, Chắc cu cậu chưa kịp quét tước, dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn”. Nhưng
người họa sĩ lấy lại được dịp ngạc nhiên khi bước lên khỏi bậc thang, thấy người con
trai đang hái hoa. “Còn cô kĩ sư chỉ kịp “ồ” lên một tiếng!”.“Sau gần hai ngày, qua
ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trong mây mù ngang tầm với
chiếc cầu vồng kia, bổng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng
phấn, tổ ong ngay lúc dưới kia là mùa hè” làm cô gái quên cả e thẹn. Cuộc gặp gỡ
tình cờ mà rất đỗi tự nhiên khiến chàng trai cũng nhẹ nhàng, tự nhiên trao tặng cô gái bó
hoa và cô gái cũng nhẹ nhàng đón nhận. Đọc đến đây em bất giác suy nghĩ: phải chăng
chính khung cảnh thiên nhiên thơ mộng trữ tình ấy đã tạo nền cho cuộc gặp gỡ thơ
mộng trữ tình kia, phải chăng chính cái luống hoa đầy màu sắc như tình cảm muôn màu
của anh thanh niên đã kia “cám dỗ” tâm hồn cô kĩ sư đang có nhiều tâm sự? Để rồi cô
mở lòng ra đón nhận tình cảm chân thành từ anh, một chàng trai xa lạ một cách tự nhiên
cởi mở như một người bạn thân quen đã xa cách lâu ngày nhẹ nhàng và quyến rũ. Cái
chất men ấy cứ bàng bạc lòng người, bàng bạc đến cuối cuộc chia tay. Để rồi cô gái ấy
đã để lại lòng mình cùng với chiếc khăn tay, để rồi chàng trai không hiểu ý, vô tình đem
trả lại Tất cả không qua khỏi con mắt của người nghệ sĩ. Hay tất cả đều được nhìn qua
lăng kính của một người nghệ sĩ nên thật lãng mạn, thật nên thơ, một cái gì đó thoáng
qua, một cái gì đó sương khói mà sao vẫn để lại dư âm vang mãi trong lòng người. Có
khi những điều tưởng chừng nhỏ nhoi ấy lại có sức khơi gợi làm thay đổi một cách

nhìn, làm thay đổi một cách nghĩ, thay đổi một quan niệm sống.
Với tình cảm chân thành, cởi mở của chàng trai, với những củ tam thất gửi biếu
vợ bác lái xe, với quả trứng gà gửi khách khi rời nhà và cùng với bó hoa tặng cô gái
tất cả chỉ là những món quà nhỏ, món quà của tinh thần mà sao ta vẫn thấy nó có giá trị
biết bao. Có ý nghĩa lớn lao biết bao. Chính lối sống say mê, nhiệt tình, chân thành, cởi
mở và đầy tinh thần trách nhiệm của anh thanh niên đã khiến cho người nghệ sĩ nhìn
anh với một con mắt khác, nhìn mình với một cái nhìn khác. Ông cảm thấy đã bắt gặp
được một bức chân dung về cuộc sống, ông muốn ghi lại nó. Anh thanh niên với khuôn
mặt rạng ngời thì có lẽ không có gì khó vẽ đối với người họa sĩ, nhưng anh thanh niên
đã khiến ông lại muốn vẽ bức chân dung tinh thần về anh. Chính anh đã khiến ông có
suy nghĩ khác về cuộc sống về nghệ thuật. Để vẽ được tất cả những gì cảm nhận được
về anh thanh niên thật khó quá. Người nghệ sĩ cảm thấy “nhọc quá”.
Chính cái tình người của anh thanh niên đã khiến bác lái xe mỗi khi lên đến
ngang đèo đều cho xe dừng lại. Bác dừng lại chắc cũng không chỉ vì những chén nước
chè tươi, chắc cũng không chỉ vì muốn đưa cho anh những cuốn sách mà bởi vì bác quý
một con người, quý một tâm hồn thầm lặng. Cô kĩ sư, để lại chiếc khăn tay không phải
vì mới đầu cô có tình ý gì đặc biệt với anh thanh niên mà bởi chính cuộc sống của anh
thanh niên đã làm thay đổi suy nghĩ của cô về con người về lí tưởng sống của thanh
niên, cô muốn để lại một cái gì đó kỉ niệm cho lần gặp gỡ này. “Cô chìa tay cho anh
nắm, cẩn trọng, rõ ràng như người ta trao cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt
tay” Cô đã hiểu được nhiều điều về cuộc sống từ anh thanh niên. Còn người họa sĩ già
11
thì cũng thật sự xúc động lúc chia tay đã chụp lấy tay anh thanh niên và nói: “Chắc
chắn tôi sẽ quay trở lại. Tôi sẽ ở với anh vài hôm được chứ!”. Chính anh thanh niên đã
làm thay đổi cả suy nghĩ của người nghệ sĩ lão thành ấy. Chính cuộc sống trẻ trung của
anh, chính lí tưởng sống quên mình của anh đã khiến cho người họa sĩ có cách nhìn
nhận khác về Sa Pa, về quan điểm nghệ thuật. Ông sẽ quay lại Sa Pa không phải để
nghỉ ngơi, tỉnh dưỡng như lời nói với bác lái xe ban đầu mà để làm một việc gì đó có
ích cho cuộc sống này. Ông đã cảm thấy rằng Sa Pa không chỉ là nơi để nghỉ ngơi, tỉnh
dưỡng mà nơi ấy còn có biết bao con người làm việc và cống hiến một cách thầm lặng

cho cuộc đời.
Có thể nói, truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa có dáng dấp của một bài thơ, chất thơ bàng
bạc trong toàn truyện, từ phong cảnh vùng núi cao đến hình ảnh những con người sống
và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc, bởi sự gắn bó của họ với đất nước,
với mọi người. Nếu như đến với “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam người đọc cảm
nhận được chất trữ tình toát lên từ tình người đầm ấm của cậu bé Sơn, của vú già, của
mẹ Sơn qua những cử chỉ yêu thương, ấm áp tình người trong mùa gió lạnh thì đến với
Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long ta lại cảm nhận cũng cái tình người ấm áp ấy
qua cuộc gặp gỡ đầy tình cờ và bất ngờ giữa những con người ở cái nơi heo hút tưởng
chừng chỉ có núi đồi, và yên lặng. Ta bắt gặp hình ảnh những con người chỉ mới thoáng
qua thôi, không để lại tên tuổi, quê quán, chỉ biết họ là anh thanh niên, ông kĩ sư chuyên
nghiên cứu vườn rau để thụ phấn cho cây su hào, nhà nghiên cứu bản đồ sét Họ sống
và làm việc một cách âm thầm, lặng lẽ mà không hề tẻ nhạt. Niềm say mê lao động, sự
hăng hái nhiệt tình trong cách sống, tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên của họ đã
để lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ, trăn trở về cuộc đời. Lối sống của họ khiến ta
nghĩ đến lời ca đầy tính triết lí và quen thuộc trong bài hát “Một đời người, một rừng
cây” của tác giả Trần Long Ẩn: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ sẽ giành
phần ai ? Ai cũng một thời trẻ trai, cũng thường nghĩ về đời mình.”.
Truyện đã thành công trong cách xây dựng tình huống hợp lí, tự nhiên mà hết sức
bất ngờ, trong cách kể chuyện giản dị, trong cách miêu tả con người, cảnh vật dưới
nhiều điểm nhìn. Ở đây ta thấy có hai nhân vật thường xuyên suy ngẫm, thường nhìn
nhân vật chính - hai nhân vật đại diện cho hai thế hệ, hai cách suy nghĩ khác nhau. Để
rồi chân dung nhân vật dần dần được khắc họa. Ngôn ngữ đậm chất hội họa, trữ tình
cũng là một trong những thành công của thiên truyện.
Sa Pa lặng lẽ mà trữ tình, lãng mạn. Sa Pa lặng lẽ mà không cô quạnh, đìu hiu. Bởi
nơi đây, vẫn còn có rất nhiều những con người ngày đêm âm thầm lặng lẽ dâng hiến
tuổi trẻ, trí tuệ và niềm say mê lao động của mình cho đất nước, cho cuộc đời. Hãy làm
những việc bình thường bằng một niềm tin phi thường bạn nhé! Chính tình yêu cuộc
sống, sự say mê lao động sẽ đem đến cho bạn những giây phút thăng hoa. Chính niềm
say mê sáng tạo mà Nguyễn Thành Long đã mang đến cho ta một áng văn thấm đẫm

chất trữ tình.
* Dạng bài phân tích tác phẩm thơ:
VD1: Phân tích và phát biểu suy nghĩ của em về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
của Huy Cận.
12
Dàn ý
a) Mở bài:
- Huy Cận viết bài thơ Đoàn thuyền đánh cá năm 1958 tại Hồng Gai (Quảng Ninh).
-Tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động của một vùng biển giàu đẹp của
miền Bắc trong những năm đầu cải tạo xã hội chủ nghĩa, bài thơ là một tiếng hát ca ngợi
công việc lao động đánh cá trên biển, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả hùng vĩ, bao la.
b) Thân bài:
b1) Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (Khổ 1)
* Hoàng hôn xuống biển cả:
- Cảnh “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” đẹp một cách hùng vĩ: Mặt trời như hòn lửa
“ lặn” xuống biển mà vẫn rực cháy.
- Sóng biển là then cài, màn đêm là cánh cửa. Cửa đã sập, then đã cài (sóng đã cài then,
đêm sập cửa), một ngày đã chấm dứt, bắt đầu một đêm. Khai thác nghệ thuật so sánh, ẩn
dụ để làm nổi bật điều đó.
* Đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
- Đêm bắt đầu là bắt đầu cảnh lao động của người ngư dân: “ Đoàn thuyền đánh cá lại ra
khơi”
- Tiếng hát của những người đánh cá như cùng với gió khơi làm căng thêm buồm, đưa
đoàn thuyền đánh cá chạy nhanh ra khơi xa. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, một
sự mở đầu của một đêm lao động vui, hào hứng và khẩn trương.
b2) Cảnh lao động đánh cá trên biển cả bao la, hùng vĩ và giàu có (các khổ thơ 2, 3,
4, 5, 6)
* Biển giàu có:
- Cá thu, một loại cá quý ở biển, nhiều như đoàn thoi (Cá thu biển Đông như đoàn thoi).
- Từ sự ví von (cá thu như đoàn thoi), tạo nên một sự liên tưởng ý vị:

+ Cá đi trên biển là cá dệt biển:
“ Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
+ Cá vào lưới là cá dệt lưới:
“ Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi”
* Biển hùng vĩ, công việc lao động đánh cá thật hùng tráng:
- Biển hùng vĩ với gió, trăng, mây, với chiều cao, chiều rộng, chiều sâu:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển”.
- Công việc lao động đánh cá trên biển thật hùng tráng:
13
+ Thuyền đánh cá có gió làm lái, trăng làm buồm và lướt giữa cái mênh mông bao la
của trời, biển giữa mây cao và biển bằng.
+ Công việc đánh cá là thăm dò tài nguyên của biển (dò bụng biển), là:
“Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Con người làm chủ thiên nhiên làm chủ công việc lao động
* Biển đẹp và ân tình; công việc lao động đánh cá đầy thi vị lãng mạn và hết sức
hào hùng:
- Biển đẹp và ân tình:
+ Biển đẹp. Đó là cái đẹp “lấp lánh” của những con cá biển:
“ Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.
Con cá song đã đẹp, lại càng đẹp trong một cảnh biển đẹp:
“ Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa, nước Hạ Long”.
+ Biển ân tình như lòng mẹ:
“ Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tựa buổi nào”.
- Công việc lao động đánh cá trên biển thật đầy thi vị lãng mạng và hết sức hào hùng:
+ Cảnh lao động đánh cá đầy thi vi lãng mạn:
“ Ta hát bài cá gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.
+ Cảnh lao động đánh cá hết sức hào hùng:
“ Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
“ Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”.
b3) Cảnh đoàn thuyền đánh cá từ khơi xa trở về (Khổ thơ cuối)
* Đoàn thuyền đánh cá trở về:
- Tác giả lặp lại câu thơ ở khổ thơ đầu “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi” làm cho khổ
thơ cuối giống như một điệp khúc trong một bài hát. Đoàn thuyền ra đi hào hứng, khẩn
trương. Đoàn thuyền trở về cũng vẫn tinh thần ấy: khẩn trương, hào hùng.
- Một hình ảnh được xây dựng theo lối khoa trương (Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt
trời), nói lên vẻ đẹp hùng tráng và nhịp điệu lao động khẩn trương của đoàn thuyền
đánh cá trên đường về.
* Bình minh trên biển cả:
14
- Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển và kết thúc bài thơ là cảnh bình minh trên
biển:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”.
- Một sự so sánh ngầm (ẩn dụ) táo bạo, bất ngờ và thú vị. Nó gắn bó công việc lao động
đánh cá với thiên nhiên trời đất:
“ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
c) Kết bài:
- Đoàn thuyền đánh cá là một khúc hát ca ngợi lao động đánh cá trên biển của người
ngư dân làm chủ cuộc đời và biển cả, ca ngợi biển cả bao la, hùng vĩ, giàu và đẹp.
- Miêu tả một cảnh lao động trên biển cả trong đêm, bài thơ đầy ánh sáng, tiếng hát và
con người thì lồng lộng giữa trời cao, biển rộng. Bài thơ là một bức tranh đẹp và là một
bài ca hào hùng về thiên nhiên và con người, về biển cả và sự lao động của con người
làm chủ thiên nhiên, về những năm tháng thi đua lao động và sản xuất xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.

VD 2: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiệu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Từ đó, em hãy phát biểu suy nghĩ của mình về sự kế thừa của tuổi trẻ hôm nay với
tuổi trẻ cha anh.
Dàn ý
a) Mở bài:
- Trong những năm tháng gay go, quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước, từ tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ, nhà thơ Phạm Tuyến Duật đồng
thời cũng là anh bộ đội đã viết những bài thơ ca ngợi người lính trên chiến trường với
một phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Thơ của anh đã được đánh giá cao.
- Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Trích trong tập Vầng trăng-Quầng lửa)
là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc về hình ảnh
những người lính và sự kế thừa của biết bao thế hệ.
b)Thân bài
b1) Hình tượng thơ gắn liền với cái đẹp, vẻ chau chuốt sự kì vĩ đi cùng năm tháng
đó chính là hình ảnh những chiếc xe không kính.
- Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp, ấy thế mà tác giả đã
lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp
lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm,
sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
- Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Những
“ bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những
người lính.
Lời thơ bình dị:
“ Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
15
- Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn
gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
………………………………….

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
Hoàn cảnh chiến trường khó khăn, cái chết là những thử thách lớn với những
người lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa.
- Điệp ngữ “ không có kính” ở đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm
nhận được gian khổ, hiểm nguy sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính
Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam, dù thiếu thốn,
khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu.
b2) Hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
- Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm vui
sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam.
- Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang
hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột
thịt”. Câu thơ chuyển giai điệu, thanh thản, tự tin:
“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
- Những từ ngữ chọn lọc “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư
thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận.
- Tư thế hiên ngang, lòng tự tin của anh bộ đội còn được biểu lộ ở chỗ bất chấp “bom
giật, bom rung” của kẻ thù, vẫn cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, của đất nước, những
nét đẹp lãng mạn, mặc dù cái chết còn lẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh anh. Hình ảnh
thơ đẹp, mạnh mẽ:
“ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Những thiếu thốn, khó khăn vật chất lại càng không ngăn được con đường anh đi tới:
“ Không có kính, ừ thì có bụi”;
“ Không có kính, ừ thì ướt áo”
Câu thơ mộc mạc như một lời nói thường ngày đầy dí dỏm, tinh nghịch: “ừ thì có
bụi”, “ ừ thì ướt áo” đã giúp ta hiểu thêm về người lính trước những khó khăn gian khổ .
Có khó khăn nhưng nào đáng kể gì! Có sao đâu, anh chấp nhận tất cả.
- Cách giải quyết khó khăn của anh cũng thật bất ngờ, thú vị:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”;
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
16
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
- Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý
tưởng.
- Tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy
còn được nhân lên gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn
hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao gồm những con người từ bốn
phương chung lý tưởng, gặp nhau thành bạn bè:
“ Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Các anh đã cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, tình đồng
chí. - Hình ảnh sinh hoạt ấm tình đồng đội:
“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”.
Những câu thơ này như tái hiện được những âm điệu vui tươi của bài hát “ Năm
anh em trên một chiếc xe tăng”. Tuy mỗi người một tính nhưng ta chung một lòng.
- Đọc những câu thơ tiếp theo, ta thấy rõ khó khăn gian khổ càng nhiều hơn chiến tranh
càng ác liệt hơn:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
- Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh bộ
đội vẫn không hề lay chuyển: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh “Chỉ
cần trong xe có một trái tim” của bài thơ đã nêu bật được lòng yêu nước và ý chí quyết
tâm dành chiến thắng của các anh.
* Đánh giá chung về sự suy ngẫm liên tưởng đến thế hệ trẻ hôm nay và thế hệ cha
ông đi trước.
- Bài thơ thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên tuyến

đường Trường Sơn đầy gay go, thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Họ là hình
ảnh “Nhân dân ta rất anh hùng”.
- Âm điệu trẻ trung, vui tươi, lời thơ gần với những lời nói trong sinh hoạt thường ngày
và cách xây dựng hình tượng thơ độc đáo đã thể hiện phong cách thơ riêng của Phạm
Tiến Duật.
c) Kết bài: Khẳng định giá trị bài thơ về mặt nột dung và nghệ thuật.
* Dạng bài phân tích tác phẩm truyện
VD: Phân tích tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
Dàn ý
a) Mở bài:
17
- Nguyễn Thành Long ( 1925 – 1991 ) quê huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là cây
bút chuyên về truyện ngắn và kí. Ông tham gia hoạt động văn nghệ trong những năm
kháng chiến chống Pháp ở Nam Trung Bộ. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác
ở Hội nhà văn Việt Nam, chuyên về sáng tác và biên tập. Những truyện ngắn của
Nguyễn Thành Long không gân guốc, gai góc mà thường pha chất kí, mang vẻ đẹp
trong trẻo, thơ mộng.
- Tác phẩm chính: Bát cơm Cụ Hồ ( 1955 ), Giữa trong xanh (1972)…
- Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là kết quả trong chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè năm
1970, sau này in trong tập Giữa trong xanh (1972) của Nguyễn Thành Long. Đây là một
truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
b) Thân bài.
Truyện có cốt truyện khá đơn giản, xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ
giữa ông hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh
Yên Sơn thuộc Sa Pa. Bốn con người khác nhau, tình cờ gặp nhau mà bỗng trở nên thân
thiết, gần gũi như trong một gia đình. Tuy tính cách và nghề nghiệp khác nhau, nhưng
tất cả đều có chung một tâm hồn tinh tế trong sáng, một suy nghĩ lành mạnh sâu sắc và
nhất là họ có chung một thái độ sống, lao động và cống hiến hết mình cho Tổ quốc, một

cách vô tư hồn nhiên, âm và thầm lặng lẽ. Anh thanh niên - nhân vật chính của truyện -
chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại cho các nhân vật khác trong truyện và bạn đọc
những tình cảm tốt đẹp.
b1) Nhân vật anh thanh niên.
- Anh thanh niên là nhân vật chính chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác
kịp ghi nhận một ấn tượng, một kí hoạ chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất
lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thủa của núi cao Sa Pa. “ Trong cái
lặng im của Sa Pa…, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”.
Nhân vật anh thanh niên được hiện ra qua sự nhìn nhận, suy nghĩ, đánh giá của của các
nhân vật khác: bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư. Qua cách nhìn và cảm xúc của mỗi
người, hình ảnh anh thanh niên thêm rõ nét và đáng mến hơn.
* Hoàn cảnh sống và làm việc: một mình trên đỉnh núi cao, quanh năm suốt tháng giữa
cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc của anh “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo
chấn động mặt đất, tham dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách
nhiệm cao (nửa đêm đúng giờ ốp thì dù mưa tuyết, giá lạnh thế nào cũng phải trở dậy ra
ngoài trời làm công việc đã qui định). Nhưng cái gian khổ nhất là phải vượt qua được sự
cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng
người – một hoàn cảnh thật đặc biệt.
* Vẻ đẹp trong tính cách của người thanh niên:
- Trước hết đó là ý thức về công việc và lòng yêu nghề, thấy được ý nghĩa cao quí trong
công việc thầm lặng của mình. Anh không tô đậm cái gian khổ của công việc, nhưng
anh nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết được mình góp phần phát hiện kịp thời một
đám mây khô mà nhờ đó “không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm
Rồng”.
18
- Anh đã có những suy nghĩ thật đúng, thật giản dị mà sâu sắc về công việc, về cuộc
sống. Có lẽ đây là những tâm sự chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào
nghề, những đêm bầu trời đen kịt…mình vì ai mà làm việc”. Dù một mình nhưng anh tự
hiểu mình đang cùng với bao nhiêu người khác làm việc, làm việc vì con người, vì cuộc

sống, nên không còn thấy cô đơn nữa.
- Anh còn biết tìm đến những niềm vui lành mạnh để cân bằng cuộc sống tinh thần của
mình. Cuộc sống của anh không còn cô đơn, buồn tẻ khi anh biết lấy sách làm người
bạn tâm tình, biết tổ chức cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, tươi tắn ( trồng hoa,
nuôi gà). Thế giới riêng của anh là công việc “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn
ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời anh thu gọn lại một góc trái
gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”.
* Ở người thanh niên ấy còn có nhiều nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến:
- Sự cởi mở, chân thành, rất quí trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ,
trò chuyện cùng mọi người: tình thân của anh với bác lái xe, anh nhớ cả chuyện vợ bác
lái xe vừa ốm dậy nên đào củ tam thất làm quà cho bác.
- Vui mừng đến luống cuống, hấp tấp, cùng thái độ ân cần chu đáo tiếp đãi những người
khách xa đến thăm bất ngờ. Anh chân thành bộc lộ niềm vui mừng một cách hồn nhiên,
thành thật đến cảm động: “Tôi cắt thêm mấy cành nữa…Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà
Nội lên tới nhà tôi bốn năm nay”.
- Anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quí báu: “Bác lái xe
chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu năm
phút. Còn hai mươi phút, mời cô và bác vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện.
Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm”, “Trời ơi chỉ còn có năm phút !”
- Đến khi chia tay, anh xúc động đến nỗi phải quay mặt đi mà ấn vào tay ông họa sĩ làn
trứng làm quà và không dám tiễn khách ra xe dù chưa tới giờ ốp.
- Anh còn là người khiêm tốn thành thực, cảm thấy công việc và những đóng góp của
mình chỉ là nhỏ bé. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh không dám từ chối để
khỏi vô lễ, nhưng anh nhiệt thành giới thiệu những người khác mà anh thực sự cảm
phục. Anh nói về ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, về anh cán bộ nghiên cứu sét với tất
cả sự say mê hào hứng và lòng cảm phục chân thành của mình.
=> Dù anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc nhưng bằng những chi tiết tiêu
biểu, tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật với những nét đẹp về tinh thần, tình
cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.
b2) Các nhân vật khác:

- Bác lái xe: Qua lời kể của nhân vật này, cô gái và ông hoạ sĩ trong truyện cũng như
người đọc được kích thích sự chú ý, đón chờ sự xuất hiện của anh thanh niên. Cũng qua
lời kể của bác mà ta biết được những nét sơ lược về nhân vật chính và nỗi thèm người
của anh khi mới lên sống một mình trên đỉnh núi cao quanh năm suốt tháng lạnh lẽo chỉ
có cỏ cây và mây mù
- Nhân vật ông hoạ sĩ:
19
+ Ngay từ phút đầu gặp anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao
khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối: “Vì
họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi một nét thôi đủ khẳng
định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”
+ Ông hoạ sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng một nét bút kí hoạ và “Người
con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người
ta suy nghĩ về anh và về những điều anh suy nghĩ”.
Những cảm xúc suy tư của nhân vật hoạ sĩ về người thanh niên và về những điều
khác nữa được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung nhân vật
chính thêm sáng đẹp và chứa đựng chiều sâu tư tưởng.
- Nhân vật cô kĩ sư :
+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, cả chuyện anh kể về
những người khác đa khiến cô bàng hoàng, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng
cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh” và quan
trọng hơn nữa về con đường mà cô đã lựa chọn, cô đang đi tới (việc lên công tác ở miền
núi). Đây là cái bàng hoàng đáng lẽ cô phải biết khi yêu, nhưng bây giờ cô mới biết, nó
còn giúp cô đánh giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ và yên tâm hơn về
quyết định của mình. Đó là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao cao đẹp khi người
ta gặp được những ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống tâm hồn người khác.
+ Cùng với sự bàng hoàng ấy là một tình cảm hàm ơn với người thanh niên, không phải
chỉ vì bó hoa to mà anh tặng cô một cách hết sức vô tư, mà còn vì “một bó hoa nào
khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Tóm lại, thông qua những cảm xúc và suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của những

nhân vật khác, hình ảnh nhân vật anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn,
gợi ra nhiều ý nghĩa như là đã được lọc qua thứ ánh sáng tâm hồn trong trẻo và rực rỡ
khiến hình ảnh ấy rạng rỡ hơn, ánh lên nhiều sắc màu hơn. Đây là một thủ pháp nghệ
thuật mà tác giả đã sử dụng thành công trong việc xây dựng nhân vật chính của truyện.
b3) Các chi tiết tạo nên chất trữ tình của tác phẩm:
+ Chất trữ tình được toát lên từ những phong cảnh thiên nhiên đẹp và đầy thơ mộng của
Sa Pa được miêu tả qua cái nhìn của người họa sĩ già, nó còn thấm đượm vẻ đẹp của
cuộc sống một mình giữa thiên nhiên lặng lẽ của nhân vật anh thanh niên, trong cuộc
gặp gỡ tình cờ của ba nhân vật mà để lại nhiều dư vị, trong những suy nghĩ về con
người, về cuộc sống, về nghệ thuật của các nhân vật.
+ Chất trữ tình của truyện toát lên chủ yếu từ nội dung truyện: từ cuộc gặp gỡ tình cờ
mà để lại nhiều dư vị trong lòng mỗi người, từ những nét đẹp giản dị rất đáng mến của
người thanh niên, từ những câu chuyện của người thanh niên, từ những câu chuyện anh
kể về cuộc sống một mình giữa lặng lẽ Sa Pa, và từ những tình cảm, cảm xúc mới nẩy
nở của ông họa sĩ, cô kĩ sư đối với anh thanh niên.
+ Tác dụng của chất trữ tình: nâng cao ý nghĩa và vẻ đẹp của những sự việc, con người
rất bình dị được miêu tả trong truyện, nhờ vậy mà chủ đề và tư tưởng của truyện được
rõ nét và sâu sắc.
c) Kết bài
20
+ Truyện Lặng lẽ Sa Pa ngợi ca những con người lao động như anh thanh niên làm
công tác khí tượng và cái thế giới những con người như anh. Tác giả muốn nói với
người đọc: “Trong cái lặng im của Sa Pa…có những con người làm việc và lo nghĩ như
vậy cho đất nước”.
+ Đồng thời qua câu chuyện về anh thanh niên, tác phẩm cũng gợi ra những vấn đề về ý
nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối với con
người: dù trong hoàn cảnh đơn độc giữa thiên nhiên vắng lặng quanh năm mà con người
vẫn không cô đơn buồn tẻ khi người ta tìm thấy ý nghĩa của công việc và cuộc sống của
mình.
2. Kiểu bài phân tích nhân vật.

VD: Phân tích nhân vật Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của
Lê Minh Khuê.
Lê Minh Khuê là một cây bút nữ chuyên viết truyện ngắn. Trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, ngòi bút của bà trong chiến tranh luôn hướng
về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Truyện ngắn “Những
ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của bà viết về đề tài này. Tác
phẩm được bà sáng tác vào năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc diễn
ra hết sức ác liệt. Truyện ngắn là một bức tranh sinh động về cuộc kháng chiến với
những ngôi sao mà ánh sáng của nó chiếu rọi trong lòng ta – ánh sáng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Đó là những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn với những vẻ đẹp kì diệu của tâm hồn, lòng dũng cảm và tình đồng đội thân
thương, tiêu biểu là nhân vật Phương Định- nhân vật chính của truyện.
Truyện xoay quanh nhân vật chính là Phương Định – một cô gái Hà Nội gốc,
lãng mạn và mơ mộng xung phong vào chiến trường. Cô sống cùng đồng đội, Thao,
Nho, trên cao điểm, giữa một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn. Công việc
của họ tuy vất vả và nguy hiểm nhưng các cô vẫn có những giây phút hồn nhiên, thơ
mộng của tuổi trẻ. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, Phương Định và Thao đã
chăm sóc rất tận tình. Cũng là lúc có một trận mưa đá ào xuống, Phương Định được
sống lại với niềm vui trẻ thơ và cô lại nhớ về thành phố và gia đình. Các cô có hoàn
cảnh sống và chiến đấu rất khó khăn, gian khổ. Họ sống trên một cao điểm, trọng điểm
ở tuyến đường Trường Sơn giữa mênh mông khói bụi và bom đạn hủy diệt của kẻ thù.
Công việc của họ là “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần
thì phá bom”. Các cô phải đối diện với thần chết từng phút, từng giờ, “thần kinh căng
như chão, tim đập bất chấp cả nhip điệu chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh
có nhiều quả bom chưa nổ”. Trong lúc “đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn và
làm việc có khi suốt đêm” thì các cô, tổ trinh sát mặt đường, phải chạy trên cao điểm cả
ban ngày, dưới cái nóng trên 30 độ. Từ cao điểm trở về, mặt các cô ai cũng “hai con
mắt lấp lánh”,“cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc”. Nhiệm vụ của họ
thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, thể hiện phần nào hiện thực cuộc
chiến đầy khắc nghiệt. Và cũng từ đó, ta thấy sáng ngời lên tinh thần yêu nước, đầy quả

cảm của các cô gái thanh niên xung phong.
Ấn tượng đầu tiên về Phương Định là vẻ bề ngoài đáng yêu, trẻ trung, xinh xắn
và đầy sức sống. Cô có “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh
như đài hoa lòa kèn”. Đặc biệt, cô có đôi mắt với cái nhìn sao mà xa xăm. Chẳng phải
21
ngẫu nhiên mà các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm cô, hay “viết những thư dài
gửi đường dây”, “mặc dù có thể chào nhau hằng ngày”. Phương Định cảm nhận được
điều đó, cô cảm thấy vui và tự hào nhưng chưa dành tình cảm cho một ai. Cô chỉ thích
ngắm mình trong gương và làm điệu hoặc có vẻ kiêu kì một cách đáng yêu khi thấy các
đồng đội của mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó. Phương Định vừa bước
qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Cô mang theo vào chiến trường Trường Sơn đầy
ác liệt cả những nét đáng yêu của một cô gái tuổi mới lớn, mang theo cả một tâm
hồn mơ mộng, rất hồn nhiên, yêu đời. Cô mê hát. Sống trong hoàn cảnh ác liệt của
bom đạn trên chiến trường Trường Sơn, lúc nào cũng cận kề với cái chết, cô vẫn không
bỏ đi sở thích của mình. “Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát.
Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng phải ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười
một mình”. Tuy vậy, chị Thao vẫn say mê chép những lời bài hát mà Định bịa ra. Cô
thích rất nhiều bài, “thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ
màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh ”Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có”. Cô hát
trong những khoảnh khắc “im lặng” khi máy bay trinh sát rè rè trên đầu, khi cơn bão
lửa sắp chụp xuống cao điểm. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để động viên
chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi trẻ, của người
chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại những người thân yêu sau
bao nhiêu nhớ nhung, chờ đợi. .
Phương Định luôn sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình
và thành phố Hà Nội thân yêu. Gặp một trận mưa đá, ở cô lập tức toát lên một niềm
vui con trẻ, niềm vui ấy nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Cô nhặt những hạt mưa đá để rồi
bâng khuâng ngơ ngác khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến.
“Tôi bỗng thẫn thờ, tiếc không nói nổi Tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái
cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Cơn mưa ấy đã đã làm dịu cả

bầu không khí ngột ngạt ở bên ngoài hang và cũng làm dịu mát tâm hồn Phương Định
và đồng đội sau những căng thẳng của một trận chiến đấu. Nó đánh thức dậy sự hồn
nhiên, vô tư của tuổi trẻ và gợi về những kỷ niệm tuổi thơ và những trận mưa thành phố
nơi quê hương. Tất cả mọi kỉ niệm đẹp nhất ở thành phố Hà Nội, về mẹ, về tuổi thiếu nữ
trong sáng, vô tư như ùa về, xoáy mạnh trong lòng cô gái. Chính những kỉ niệm đó đã
làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.
Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật lên
tinh thần dũng cảm gan dạ, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy. Điều đó được
thể hiện cụ thể qua một lần phá bom trên cao điểm ở Trường Sơn. Sau những đợt thả
bom của giặc, Định cùng đồng đội chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ, nơi vẫn còn có
những quả bom chưa nổ. Không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Nhưng cô không hề
sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an
tâm hơn. Cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh ấy không
thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm giác ấy vừa thể
hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy.
Phương Định “dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom”. Quả bom nằm lạnh lùng. Lưỡi
xẻng thỉnh thoảng lại chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người vang lên,
cứa vào da thịt cô. “Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Cách miêu tả của tác giả thật tài
tình, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được âm thanh của hai vật bằng sắt
chạm vào nhau rồi lại cảm thấy rùng mình như Định, càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, gan
22
dạ của cô. Những lúc đối mặt với quả bom sắt lạnh lùng, cô cũng có nghĩ đến cái chết.
“Nhưng một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể”. Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Còn
điều mà cô quan tâm lúc này là “liệu mìn có nổ không, bom có nổ không? Không thì
làm cách nào để châm mìn lần thứ hai”. Trong suy nghĩ của Định, cô luôn cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ thật tốt dù có phải hi sinh. Cảm xúc, suy nghĩ chân thật ấy của cô đã
truyền sang người đọc nhiều đồng cảm, yêu mến, trân trọng và kính phục. Chính nhờ
sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Định thực hiện tốt công
việc của mình. Một cô gái như muôn ngàn cô gái khác trên tuyến đường Trường

Sơn, đang hàng giờ dệt nên những kì tích cho Tổ quốc thân thương- những con
đường bằng phẳng để các chuyến xe vượt Trường Sơn tiến vào Nam.
Công việc “chọc giận thần chết” đã trở nên quen thuộc với cô, là công việc hàng
ngày, nhưng nó không làm cho tâm hồn cô trở nên chai lì, khô cứng. Ở Định, ta còn
thấy thường trực một tình cảm đồng đội, đồng chí nồng ấm, gắn bó. Cô luôn yêu
thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao lên cao điểm chưa
về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô vỗ về và chăm
sóc cho Nho tận tình như một cô y tá, khi Nho bị thương lúc phá bom: “moi đất, bế Nho
đặt lên đùi mình”, “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi
“pha sữa trong cái ca sắt”. Sự chăm sóc tận tình của Định đã giúp Nho khỏe lại nhanh
chóng. Ba cô gái thanh niên xung phong tuy với tính cách khác nhau nhưng họ yêu
thương nhau và đối xử với nhau như chị em ruột thịt. Cô còn dành tình cảm trân trọng,
yêu mến của mình cho những người chiến sĩ đang trực tiếp cầm súng chiến đấu trên
chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và
cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Tình đồng đội,
đồng chí của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý. Chính điều đó đã tiếp
thêm sức mạnh cho cô để cô làm tốt nhiệm vụ của mình. Có được trang viết này cũng
một phần xuất phát từ tâm hồn giàu tình cảm của cây bút Lê Minh Khuê.
Có thể nói phẩm chất, tính cách của những Nữ thanh niên xung phong nói chung,
Phương Định nói riêng rất giống với phẩm chất của những chiến sĩ lái xe Trường sơn
trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Họ thực sự là những thế hệ
trẻ Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ lợi ích chung của dân tộc. Họ đã
quên đi lợi ích của riêng mình vì một đất nước độc lập, thống nhất. Vẻ đẹp của những
cô gái mở đường Trường sơn cùng vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm
Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói chung, của Lê Minh Khuê và Phạm Tiến
Duật nói riêng đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ý chí, tâm hồn và nhân cách của thế hệ
trẻ Việt nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Họ mãi tỏa sáng như
những vì sao trên bầu trời, trong những câu chuyện cổ tích. Họ đã viết lên những trang
sử vàng của dân tộc, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi: Xẻ dọc Trường sơn đi cứu
nước- Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Như vậy, thành công nhất trong truyện là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý
nhân vật. Truyện được miêu tả theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính, tạo điều kiện
để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật chính, làm cho câu chuyện
diễn tả một cách chân thật, tự nhiên cảm xúc, tâm trạng của những người chiến sĩ. Nhan
đề truyện xuất phát từ ánh nhìn của Phương Định, những ngôi sao xa xăm trên bầu trời
gợi nhiều cảm xúc. Bên cạnh đó, vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thật lấp lánh, lãng mạn
giữa hiện thực khắc nghiệt như những ngôi sao xa xôi, lấp lánh trên bầu trời cao rộng.
23
Trường Sơn là nơi thử thách ý chí, khí phách con người Việt Nam. Chính những con
người như Phương Định, Thao, Nho đã xướng nên bài ca tuyệt đẹp của “những bông
hoa trên tuyến lửa” anh hùng. Truyện hấp dẫn người đọc ở cách tạo tình huống cam go
căng thẳng của cuộc kháng chiến. Cách tạo tình huống không chỉ làm nổi bật tính cách,
tâm hồn các nhân vật mà còn góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện. Đặc
biệt Lê Minh Khuê đã sử dụng rất thành công các kiểu câu văn ngắn, câu rút gọn, câu
đặc biệt… để diễn tả không khí căng thẳng, ác liệt của chiến trường. Giữa sự ác liệt của
chiến tranh, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa sáng. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hòa bình
đã tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Họ vốn chỉ là
những con người rất đỗi bình thường nhưng đã góp phần tạo nên những kì tích anh
hùng cho dân tộc.
Tóm lại, truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong
mọi người hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung phong thời kháng chiến
chống Mỹ với tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu
đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan. Phương Định, tuy chỉ là một ngôi
sao bé nhỏ, nhưng sẽ luôn tỏa sáng, sáng lấp lánh trên bầu trời Việt Nam. Các cô mãi là
những hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến. Vẻ
đẹp của Phương Định như gợi nhắc ở người đọc về những hy sinh mất mát của cả dân
tộc trong chiến tranh.
3. Kiểu bài so sánh Văn học.
VD 1: Đánh giá về hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ, có ý kiến nhận xét như sau:
“Hai bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

(Phạm Tiến Duật) đã thể hiện rõ đặc điểm chung mang tính chất truyền thống và
những nét riêng có tính chất phân định về hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ trong hai
cuộc Kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ”.
Dựa vào kiến thức về hai bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật), hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Dàn ý
a) Mở bài:
- Dẫn dắt hợp lí, hấp dẫn, thuyết phục.
- Nêu được vấn đề: Hai bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” (Phạm Tiến Duật) đã thể hiện rõ đặc điểm chung mang tính chất truyền
thống và những nét riêng có tính chất phân định về hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
b) Thân bài:
* Hình ảnh người chiến sĩ trong hai bài thơ có những đặc điểm chung mang tính
chất truyền thống giống nhau:
- Họ có nguồn gốc xuất thân giống nhau. Đó là những người lính bình dị, sinh ra và lớn
lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng nên họ cùng chung lí tưởng vì độc lập của dân
tộc, vinh quang của thế hệ trẻ cho tổ quốc.
24
- Họ giống nhau ở điểm: Sẵn có lòng yêu nước nồng nàn. Họ được giác ngộ ngày càng
sâu sắc. Họ dứt khoát gác lại tình cảm riêng tư, nguyện ra đi theo lí tưởng trong sáng, vì
mục đính và lí tưởng cao đẹp.
- Trong chiến đấu, họ phải đối mặt với vô vàn thiếu thốn, khó khăn, nguy hiểm. Thời
tiết khắc nghiệt (rừng hoang sương muối, gió, bụi, mưa rừng,…) quân trang thiếu thốn
(áo rách, quần vá, xe không kính, không mui, không đèn…), bệnh tật (sốt rét…)…
Nhưng họ vẫn vượt lên tất cả để hoàn thành nhiệm vụ; tôi luyện cho họ những phẩm
chất của người chiến sĩ: ý chí dũng cảm, lòng quả cảm, phi thường, niềm lạc quan, tự tin
cao độ…
- Họ đều có tình cảm cảm động, cao đẹp, bền chặt, gắn bó… là tình đồng chí, đồng đội.
Tình cảm này làm nên sức mạnh để họ trụ vững, vượt qua thử thách, gian khổ giành

chiến thắng (đôi tri kỉ, đồng chí, tay nắm lấy bàn tay, bắt tay qua cửa kính vỡ, chung bát
đũa…).
- Đặc biệt là họ còn rất trẻ. Họ mang sức mạnh vinh quang từ ngàn xưa của dân tộc, sức
mạnh tuổi xuân của họ vừa phi thường, vừa lãng mạn…
- Tiểu kết: Họ có bản chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng Việt Nam với nhân
cách truyền thống cao đẹp nhất của chủ nghĩa anh hùng dân tộc.
* Tuy nhiên họ lại có những nét riêng có tính chất phân định về hình tượng anh bộ
đội Cụ Hồ trong hai cuộc Kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Điều này được
thể hiện ở nội dung và nghệ thuật thơ của mỗi tác giả:
- Hai bài thơ có sự riêng biệt về chủ đề (Phân tích và nêu dẫn chứng).
- Hai bài thơ với hai hình ảnh người chiến sĩ cách mạng với hai hoàn cảnh xuất thân
khác nhau (phân tích và nêu dẫn chứng).
- Hai bài thơ hiện lên những tâm tư, tình cảm của những người lính, người chiến sĩ cách
mạng cũng có sự khác nhau rõ rệt (phân tích và nêu dẫn chứng).
- Họ có hoàn cảnh và thái độ chiến đấu khác nhau trong gian khổ (phân tích và nêu dẫn
chứng).
- Những người chiến sĩ có thái độ khác nhau đối với nhiệm vụ. (phân tích và nêu dẫn
chứng).
- Sự phân định khác nhau về nội dung chủ đề.
- Sự khác nhau về cảm hứng nghệ thuật.
- Sự khác nhau trong việc tạo ra các nét tương phản chủ yếu.
- Sự khác nhau trong việc tạo ra những hình ảnh thơ độc đáo.
- Sự khác nhau về cách nói ẩn dụ.
- Sự khác nhau về mức độ thành công của hai bài thơ và hai hình tượng anh bộ đội Cụ
Hồ.
* Lí giải sự khác biệt: Những nét khác nhau mang tính chất phân định chính là biểu
hiện sinh động từ cái chung, tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong hình tượng người chiến
sĩ. Nguyên nhân dẫn đến sự phân định rõ rệt này là do đặc điểm hoàn cảnh lịch sử chi
25

×