Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930- 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.18 KB, 21 trang )

LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930- 1945
Thời lượng: 8 tiết.
GIÁO VIÊN: ĐINH THỊ HỒNG THẮNG
TRƯỜNG THCS PHÚC THẮNG – PHÚC YÊN- VĨNH PHÚC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo ( Nghị quyết số 29-NQ/TW) đã nêu rõ:
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung và lịch sử dân tộc Việt Nam
nói riêng đã khẳng định vai trò của “người tài”. Họ là lực lượng khởi đầu cho sự nghiệp
phát triển kinh tế- xã hội, đem đến cho mỗi quốc gia nền văn minh, tiến bộ không
ngừng.
Ngày nay trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, nhất là trong nền
kinh tế tri thức, vai trò của “ người tài” càng tăng lên gấp bội. Chính vì thế, bồi dưỡng
học sinh giỏi là bước đi đầu tiên để đào tạo nhân tài cho đất nước và là nhiệm vụ quan
trọng của ngành giáo dục. Công tác này được xác định là một hoạt động mũi nhọn trong
việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đang được Đảng, Nhà
nước cùng toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh các môn khoa học tự nhiên như: Toán, Lý, Hoá thì việc dạy các môn
khoa học xã hội trong đó có môn Lịch sử đang được ngành đặc biệt chú ý. Mấy năm gần
đây thực trạng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông đã gây ra nhiều bức xúc, nỗi lo âu
của xã hội. Điều này không chỉ được phản ánh qua điểm số các kỳ thi tốt nghiệp phổ
thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng mà còn qua kết quả điều tra xã hội học, qua các
sân chơi truyền hình và dư luận xã hội. Mặt hạn chế nặng nề nhất của giáo dục môn Lịch
sử là đại bộ phận học sinh không thích học môn này, coi như môn học của các sự kiện,
năm tháng, môn học của trí nhớ, khô khan, nhàm chán.
Giáo sư Phan Huy Lê nói: Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà
không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn


hoá nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc thì làm sao có thể hoàn chỉnh được
phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải đặt
đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Dạy học lịch sử ở trường THCS là một quá trình sư phạm, bao gồm nhiều loại
hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm mục đích cho
học sinh nắm được tri thức lịch sử, yêu thích môn học, từ đó phát triển tư duy lịch sử,
biết nhận định, đánh giá cá sự kiện lịch sử một cách khách quan, đúng đắn.
Có rất nhiều phương pháp dạy học trong giảng dạy môn lịch sử, điều quan trọng
là giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp giảng dạy sao cho hài hoà, phù hợp với
đối tượng học sinh, có như vậy mới tạo được hứng thú học tập, tạo lòng đam mê, yêu
thích môn học ở học sinh.
Nhưng làm thế nào để bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, đặc biệt là đối với
môn lịch sử?, đó là câu hỏi luôn trăn trở của các nhà quản lý và của giáo viên trực tiếp
giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THCS.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn hoá trong các nhà trường nói chung và môn
lịch sử nói riêng là vấn đề quan trọng, cơ bản, cốt lõi để nâng cao chất lượng đào tạo,
giáo dục trí lực cho học sinh; mũi nhọn học sinh giỏi ở trong mỗi nhà trường nó đánh giá
chất lượng đào tạo cơ bản để nâng cao uy tín của nhà trường và uy tín của giáo viên
giảng dạy. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, kết quả mang lại không cao.
Qua thực tiễn giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Lịch sử, bản thân tôi đã tự
rút ra những kinh nghiệm, đó có thể là những giải pháp góp phần nhỏ song hành cùng
các đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn Lịch sử.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử:
Trong những năm gần đây, bộ môn Lịch sử ở phòng GD-ĐT thị xã Phúc Yên
tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh đạt kết quả chưa cao, mỗi năm chỉ có 3-5 em đạt
giải/20em dự thi, và kết quả cũng chỉ dừng lại ở giải 3 và giải KK là nhiều.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả đó, theo tôi đó là:
Thứ nhất, Giáo viên tham gia giảng dạy chưa xây dựng được một nội dung,
chương trình, giảng dạy chi tiết, phù hợp.

Thứ hai, học sinh không yêu thích môn học Lịch sử, xem đó là môn phụ, là môn
thi của những người không được học khối A,B,D, là môn của những người học thuộc
lòng. Và đã là môn phụ thì rất khó để học sinh quan tâm học hành tử tế. Thực tế những
em tham dự môn học là những em “ không sắc”, hơn nữa, gia đình các em không muốn
con mình tham gia dự thi môn học này. Theo như lời một phụ huynh nói thì đó là môn
phụ, không giúp gì cho cháu thi vào cấp 3 và thi đại học, chúng tôi chỉ muốn cháu học :
Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ thôi
Thứ ba, các em chưa biết cách học môn Lịch sử, chỉ biết học thuộc lòng, “ học
vẹt”, bởi vậy kiến thức nhớ không lâu, không hiểu bản chất sự việc. Người học tiếp nhận
kiến thức một cách thụ động, máy móc.
Thứ tư, các em chưa biết cách làm bài môn lịch sử. Nhiều em làm bài theo ý,
gạch đầu dòng như cách ghi thông thường trên bảng của các thầy cô dạy trên lớp. Chưa
biết phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử. Chưa biết tổng hợp, chọn lọc kiến thức cho các
câu hỏi mang tính khái quát
Thứ năm, trong quá trình giảng dạy, giáo vên chưa kiểm tra thường xuyên để biết
được sự tự học của các em. Giáo viên chưa dạy các em kỹ năng trình bày, phân tích ,
đánh giá các sự kiên lịch sử mình đang học, chưa giúp các em biết tự đặt ra các câu hỏi
cho những nội dung mình tiếp cận.
Thứ sáu, BGH nhà trường chưa thực sự vào cuộc, chưa có những giải pháp đồng
bộ để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Từ thực tế đó, tôi đưa ra các giải pháp để chúng ta cùng thảo luận.
II. Các giải pháp
a. Đối với Ban giám hiệu:
- BGH các nhà trường cần chỉ đạo lấy phương châm chất lượng giáo dục đại trà là
nền tảng để nâng cao chất lượng mũi nhọn.
- Phân công chuyên môn, phân công GV dạy đội tuyển một cách hợp lý, lựa chọn
giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm, cố
gắng phân công theo hướng ổn định để phát huy kinh nghiệm của giáo viên .
- Phát hiện và xây dựng nguồn HSG bắt đầu từ lớp 6.
- Tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học tập nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ.
- Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo viên và học
sinh tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Động viên khuyến khích thầy dạy cho học sinh
giỏi và học sinh thi học sinh giỏi đạt kết quả cao, kết hợp hài hoà giữa động viên tinh
thần với những biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất. Nguồn kinh phí cho công tác
này được huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách của nhà nước, xã hội hóa
- Tổ chức khảo sát các đội tuyển vào các thời điểm thích hợp.
b. Đối với giáo viên dạy bồi dưỡng.
Muốn có HSG phải có Thầy giỏi và tâm huyết với nghề, vì thế người thầy phải
luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn,
luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên
tìm tòi các tư liệu, có kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng
internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các
chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu… người thầy phải luôn trăn trở, tìm ra
các phương pháp dạy học thích hợp;…
Thứ nhất, Về chương trình bồi dưỡng:
- GV dạy bồi dưỡng phải xây dựng chương trình cho toàn bộ đợt bồi dưỡng
một cách cụ thể, chi tiết. Trên cơ sở đó, phân bố thời gian hợp lý cho từng buổi dạy,
tiết dạy.
- Xác định rõ kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm, kiến thức nâng cao mở rộng ở
từng bài, từng chương, từng phần…để có kế hoạch giảng dạy, phương pháp giảng dạy
phù hợp.
- Xây dựng giáo án cụ thể cho từng tiết dạy, giáo án phải tập trung chú trọng
nâng cao kiến thứ bộ môn, mở rộng kiến thức, nhưng phải hệ thống, giúp học sinh dễ
nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng trong làm bài. Xây dựng giáo án có vai trò hết sức quan trọng,
thể hiện nội dung xuyên suốt trong cả quá trình bồi dưỡng.
Thứ hai, về việc dạy bồi dưỡng (Đây là quá trình quan trọng nhất)
Học sinh được lựa chọn tham gia vào đội tuyển HSG là những em có những phẩm
chất đạo đức và năng lực trí tuệ hơn học sinh khác. Chính vì thế, những học sinh này cần
được tổ chức dạy học đặc biệt sao cho nhịp độ giảng dạy được cao hơn, nội dung giảng

dạy cao hơn, phương pháp giảng dạy đặc biệt hơn, để các em được học tập, làm việc,
phát triển hết khả năng của mình. Người giáo viên phải làm được:
Giúp học sinh thực sự yêu thích học bộ môn Lịch sử
Đây là vấn đề khó khăn nhất của mỗi giáo viên đứng lớp. Làm sao để học sinh
thực sự yêu thích môn học của mình, làm sao giáo viên truyền được lòng đam mê học
tập cho học sinh?
Dạy sử không đơn thuần là sự truyền đạt kiến thức một chiều, càng không phải là
áp đặt những khuôn sáo có sẵn…mà là sự đối thoại hai chiều giữa thầy cô giáo với học
sinh để lớp trẻ đi vào môn Lịch sử một cách năng động, thích thú và thoải mái. Người
thầy không đơn thuần chỉ là người truyền đạt kiến thức cho học sinh, mà thầy còn là
người giúp đỡ, động viên học sinh, gần gũi, tìm hiểu tâm tư của các em trong cuộc sống.
Đặc biệt, Thầy cần biết khéo léo, động viên, khích lệ các em trong giờ học. Trong quá
trình giảng dạy, nên kết hợp nhiều phương pháp, kết hợp kể 1 số câu chuyện về Lịch sử
để giờ học đỡ khô khan, không nhàm chán. Giáo viên cần khéo léo động viên để gắn
trách nhiệm của các em cũng là cách để các em thêm yêu thích môn học. Hãy cho các
em thấy rằng mình là niềm tự hào, niềm tin tưởng của gia đình, dòng họ, của thầy cô,
bạn bè, của nhà trường của Phòng, Sở…
Giúp các em phương pháp học tập bộ môn Lịch sử
Hầu hết học sinh khi học môn Lịch sử đề cố gắng học thuộc lòng và nhớ từng sự
kiện mà không có khả năng phân tích, khái quát, nhìn nhận sự kiện lịch sử trong bối
cảnh thời đại, từ đó thấy rõ bản chất, nguyên nhân và mối liên hệ của các sự kiện để hệ
thống hoá vấn đề cho dễ nhớ các sự kiện điển hình, tiêu biểu của mỗi giai đoạn lịch sử,
không sa đà vào chi tiết vụn vặt. Học Lịch sử phải hiểu được bản chất vấn đề, tránh lối
“học vẹt”. Chính vì thế học sử tuyệt đối không phải là thuộc lòng các năm tháng, sự
kiện, tên tuổi, nhân vật cùng với những con số khô cứng… mà là hiểu biết một cách
thông minh những diễn biến cơ bản của Lịch sử, thấm nhuần một cách hứng thú những
giá trị tiêu biểu của Lịch sử và văn hoá, xây dựng tư duy Lịch sử.
Phương pháp học bắt đầu từ cách ghi vở. Ghi vở, học sinh chỉ cần ghi những ý
chính, trọng tâm, ghi những sự kiện cơ bản, còn giành thời gian để nghe giảng, để hiểu,
để hỏi lại thầy những vấn đề mình chưa rõ…

Bên cạnh đó, việc tự học của các em là vô cùng quan trọng. Giáo viên phải hướng
dẫn các em cách tự học ở nhà. Không nên “học vẹt” mà phải nắm vững những kiến thức
lịch sử chính ở từng bài, từng chương, từng giai đoạn, sau đó mới liên hệ với các sự kiê
khác có liên quan. Phải phân biệt được đâu là sự kiện chính? Sự kiện đó nằm trong bối
cảnh lịch sử nào diễn ra như thế nào? kết thúc ra sao? Có tác dụng gì?
Hướng dẫn các em làm bài thi môn lịch sử
Dạy học sinh giỏi cần phải dạy và rèn luyện kỹ năng làm bài. Kỹ năng làm bài thi
của HS có có nhiều hạn chế, vì vậy GV phải là người hướng dẫn, rèn luyện cho HS cách
làm bài, trình bày bài thi một cách khoa học. Việc làm này phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục
Kỹ năng làm bài thi là một yêu cầu quan trọng trong quá trình bồi dưỡng. Học
sinh phải đọc qua tất cả các câu hỏi trong đề ra trước khi làm bài.
Trước khi làm bài nên ghi dàn ý.
Bài thi môn lịch sử cần chú ý:
+ Phần mở bài ( Có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để mở bài), lưu ý không nên
quá dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung.
+ Phần thân bài: Đây là phần trọng tâm câu trả lời. Dựa trên cơ sở những ý cơ bản
đã vạch ra học sinh tập trung liên hệ những kiến thức đã học, đã nắm được và học sinh
sử dụng phương pháp liên kết câu, liên kết đoạn văn để làm bài. Đây là phần cơ bản
nhất, học sinh cần đưa ra đầy đủ các kiến thức mà đề yêu cầu, đồng thời phải có sự đánh
giá, liên hệ thực tế.
+ Phần kết luận: Tóm tắt ý nghĩa, tác dụng của phần thân bài để làm kết luận.
Phần kết luận không cần dài dòng. (Có thể dùng phần kết quả, ý nghĩa, bài học kinh
nghiệm cho phần kết luận)
Lưu ý: Chọn câu dễ làm trước, Tuy nhiên trong kỳ thi HSG môn Lịch sử khuyến
khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử. Câu nào sự kiện trước thì làm trước.
Phải tập trung vào làm bài, nhưng cần phân bố thì gian hợp lý. Cố gắng làm hết
các câu hỏi trong đề thi. Tuy theo từng câu để phân bố thời gian cho phù hợp. Cuối giờ
nên để giành khoảng 10 phút để đọc lại bài trước khi nộp.
Thường xuyên kiểm tra sự tự học ở nhà.

Sau mỗi buổi học, giáo viên dạy bồi dưỡng cần đưa ra các câu hỏi, những bài tập
yêu cầu học sinh học bài, làm bài ở nhà. Hôm sau giáo viên giành khoảng thời gian 30
phút để kiểm tra lại việc học của học sinh. (GV nắm được học sinh học như thế nào? học
đến đâu? Đồng thời giáo viên kiểm tra được cách diễn đạt của học sinh, từ đó có phương
pháp uốn nắn kịp thời). Với mỗi bài kiểm tra của học sinh, thầy cần chấm kỹ phát hiện
những cái mới, hay mang tính sáng tạo, đồng thời cũng phát hiện những điểm sai, bỏ sót
về kiến thức, cách trình bày. Sau đó trả bài và chữa cẩn thận lại từng câu hỏi, các lỗi sai
phổ biến cho học sinh.
Tăng cường hướng dẫn học sinh biết sử dụng sách giáo khoa, học sinh phải hiểu
và khai thác hết kiến thức có trong sách giáo khoa
Giáo viên cần sưu tầm các dạng câu hỏi, các dạng đề thi của các năm trước,
của các đơn vị bạn để học sinh tham khảo
Mỗi nội dung lịch sử, người ra đề có thể hỏi bằng nhiều cách hỏi khác nhau, trong
quá trình giảng dạy sau mỗi nội dung, giáo viên nên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời,
đồng thời giáo viên nên tập cho học sinh cách đặt ra các câu hỏi theo ý của mình và
hướng trả lời các câu hỏi đó. Có như vậy các em tự phải tư duy và chắc chắn sẽ nhớ kiến
thức một cách lâu hơn.
III. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề: Giai đoạn lịch sử 1930-
1945.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, người giáo viên cần xác định rõ kiến thức trọng tâm,
kiến thức mở rộng, nâng cao để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Trong giai đoạn
1930- 1945 của Lịch sử Việt Nam, tôi có thể đưa ra 1 số dạng câu hỏi cụ thể như sau:
1. Kiến thức trọng tâm:
+ Nguyên nhân diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào cách mạng 1930-1931
và cuộc vận động dân chủ 1936- 1939.
+ Những cuộc khởi nghĩa mở đầu cho thời kỳ đấu tranh mới (Khởi nghĩa Bắc
Sơn, Nam kỳ, Binh biến Đô Lương): Nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa, bài học
kinh nghiệm)
+ Sự chuyển chỉ đạo chiến lược của Đảng trong thời kỳ 1936- 1939; 1939-1945.
+ Mặt trận Việt Minh và công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa.

+ Cao trào kháng nhật cứu nước( Hoàn cảnh, diễn biến, ý nghĩa)
+ Cách mạng tháng Tám: Thời cơ, diễn biến, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch
sử, tuyên ngôn độc lập 2.9.1945)
2. Kiến thức nâng cao
+ So với thời kỳ 1930- 1931 chủ trương sách lược của Đảng và hình thức đấu
tranh trong thời kỳ 1936- 1939 có gì khác? Vì sao?
+ Tại sao nói phong trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ
Tĩnh và phong trào cách mạng 1936- 1939 là hai cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cách
mạng tháng 8- 1945?
+ Bối cảnh lịch sử và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng
trong thời kỳ 1939- 1945?
+ Mặt trận Việt Minh có vai trò như thế nào đối với cách mạng tháng 8 -1945?
+ Hãy phân tích yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến thời cơ Cách mạng tháng
Tám năm 1945? Tại sao nói đây là thời cơ ngàn năm có một?
3. Những định hướng cơ bản ( Hướng dẫn trả lời các câu hỏi trong giai đoạn
1930- 1945)
Câu1: Tình hình Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới?
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933 là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
và sâu sắc nhất trong lịch sử CNTB. Nó chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của CNTB
trong những năm 20.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 không những tàn phá nặng nề các nước TB
mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước thuộc địa trong đó có VN:
Sản xuất đình đốn, hàng hoá ế ẩm, nhiều xí nghiệp nhất là của tư sản VN và những
người sản xuất nhỏ bị phá sản, công viên chức bị sa thải ngày càng nhiều, nạn thất
nghiệp thường xuyên bị đe doạ, nông dân đói khổ, điêu đứng vì nạn khủng hoảng kinh tế
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng
trợn, gắt gao trên phạm vi toàn quốc. Cả nước bao trùm 1 không khí bắt bớ, đàn áp.
Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ yêu nước bị bắt, tù đày. Trong tình hình đó, ĐCS VN ra đời
3.2.1930 là nguồn cổ vũ lớn lao đối với công nhân, nhân dân lao động.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân, nhân dân cả nước liên tiếp vùng lên đấu

tranh.
Câu 2: Nguyên nhân, diễn biến phong trào cách mạng 1930- 1931? Vì sao ở
Nghệ Tĩnh phong trào lại lên cao như vậy?
* Nguyên nhân:
- Do nhân dân ta bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Thêm vào đó tác
động của cuộc khủng hoảng KT 1929-1933 làm cho kinh tế NN, CN, TN nước ta suy
sụp. Đời sống nhân dân đã khổ lại càng khổ thêm, do vậy, mâu thuẫn giữa nhân dân ta
với đế quốc phong kiến ngày càng sâu sắc.
- Đầu 1930 khởi nghĩa Yên Bái thất bại, TD Pháp khủng bố đàn áp dã man lại
càng làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc của nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó, ĐCS VN ra đời đã tập hợp và lãnh đạo cách mạng, biến sự
căm thù của quần chúng thành hành động cách mạng đó là đấu tranh.
Nhận xét: Trong 3 nguyên nhân ấy thì nguyên nhân Đảng ra đời và lãnh đạo cách
mạng là nguyên nhân cơ bản nhất quyết định sự bùng nổ phong trào.
* Diễn biến:
Phong trào đấu tranh của quần chúng bùng lên mạnh mẽ từ 1929 trên khắp đất
nước. Đến năm 1930- 1931 phát triển tới đỉnh cao với sự ra đời của Xô Viết – Nghệ
Tĩnh.
- 2.1930 cuộc bãi công của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng.
- 4.1930 là các cuộc bãi công của 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, hơn
400 công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thuỷ, nhà máy xi măng Hải Phòng…
- Phong trào đấu trnh của nông dân đã diễn ra ở nhiều địa phương như: Hà Nam,
Thái Bình, Nghệ An,, Hà Tĩnh…
- Đặc biệt là ngày 1.5.1930, lần đầu tiên công nhân và các tầng lớp nhân dân
Đông Dương tỏ rõ dấu hiệu đoàn kết với vô sản thế giới và biểu dương lực lượng của
mình. (Đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, đòi bồi thường cho các gia
đình bị tàn sát trong cuộc KN Yên Bái…cuộc đấu tranh được Liên Xô ủng hộ.
Chính quyền TD đàn áp, bắn vào đoàn biểu tình làm 7 người chết, 18 gười bị
thương, bắt 98 người)
- Từ thành phố đến nông thôn trong cả nước đã xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ

đảng, mít tinh, bãi công, biểu tình, tuần hành…các cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ
ra trong các xí nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Sài Gòn- Chợ Lớn…
- Các cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái
Bình, Hà Nam, Nghệ An, …
( Các cuộc khởi nghĩa lan rộng trong cả nước. Trong tháng 5 có 21 cuộc đấu
tranh ở Bắc kỳ, 21 cuộc ở Trung kỳ, 12 cuộc ởNam kỳ; Trong đó có 16 cuộc đấu
tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4 cuộc của HS và dân nghèo
thành thị.)
- Nghệ Tĩnh là nơi phong trào diễn ra mạnh nhất. Tháng 9.1930 phong trào công –
nông đã phát triển tới đỉnh cao. Khẩu hiệu đấu tranh chính trị được kết hợp với các khẩu
hiệu kinh tế. Các cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt. Quần chúng tổ chức tuần hành thị uy,
biểu tình có vũ trang tự vệ, tấn công vào cơ quan chính quyền địch ở địa phương.
+ 01.9.1930: 20 ngàn nông dân Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, giảm thuế,
thả tù chính trị…Pháp nổ súng bắn vào đoàn biểu tình, nhưng những người biểu tình vẫn
tiến vào huyện đường phá nhà giam, thả tù chính trị, đốt hồ sơ sổ sách và dinh tri huyện.
Bọn hào lý địa phương bỏ chạy, hầu hết các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương trong
tình trạng không có chính quyền.
+ 05.9 Nhân dân huyện Anh Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân Thanh Chương…
+ 8-11.9 Khí thế đấu tranh càng sôi sục, hàng chục ngàn nông dân Nam Đàn,
Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc…nổi dậy
+ 12.9.1930 tại Hưng Nguyên hơn 20 ngàn nông dân liên kết với nông dân Nam
Đàn tổ chức biểu tình lớn. Đoàn xếp hàng dài hơn 1km kéo về thành phố Vinh, đi đầu là
những người cầm cờ đỏ, hai bên là những đội viên tự vệ được trang bị dao, gậy. Trên
đường đi, đoàn biểu tình dừng lại để diễn thuyết, chỉnh đốn đội ngũ. Dòng người càng đi
càng được bổ sung thêm. Khi đến gần Vinh con số lên tới 30 vạn người và xếp thành
hàng dài tới 4km. TD Pháp đàn áp dã man, chúng cho máy bay ném bom, dùng súng liên
thanh bắn vào đoàn biểu tình làm chết 217 người, bị thương 125 người, đốt cháy 277
nóc nhà. Hai làng Lộc Châu, Lộc Hải bị triệt hạ hoàn toàn. Sự đàn áp dã man của P
không ngăn nổi đoàn biểu tình….
* Kết quả:

- Bộ máy chính quyền của TD Pháp và phong kiến tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt,
ở nhiều xã bị tan rã
- Các chính quyền Xô Viết được thành lập.
*Vì sao phong trào ở Nghệ Tĩnh lên cao như vậy?
- Bên cạnh những nét chung của cả nước, Nghệ Tĩnh có những nét riêng:
+ Chịu ách thống trị của ĐQ, PK rất nặng nề.
+ Là vùng đất nghèo, nhân dân Nghệ Tĩnh có truyền thống cách mạng.
+ Cơ sở công nghiệp Vinh, Bến Thuỷ là trung tâm kỹ nghệ lớn nhất ở trung kỳ, là
điều kiện thuận lợi cho liên minh công – nông.
+ Các tổ chức cộng sản và cơ sở Đảng ở đây khá mạnh.
Nhận xét: Đây là phong trào cách mạng mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, phong trào nổ ra đều khắp cả nước, rầm rộ lôi cuốn nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động tham gia
Câu 3: Chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh ra đời trong hoàn cảnh nào? Nêu
những việc làm của chính quyền Xô Viết rồi rút ra nhận xét?.
*Hoàn cảnh ra đời: Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy chính
quyền của TD Pháp và PK tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Các ban
chấp hành nông hội xã do các chi bộ Đảng lãnh đạo đứng ra quản lý mọi mặt về đời
sống chính trị và xã hội, ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo hình
thức Xô Viết. Thực chất đó là 1 chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp công nhân
lãnh đạo.
*Những việc làm của chính quyền Xô Viết
- Về chính trị: Chính quyền đã ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân, quần
chúng được tự do hội họp, thảo luận và hoạt động trong các tổ chức đoàn thê cách mạng:
Nông hội, công hội, hội phụ nữ giải phóng, đoàn thanh niên phản đế, hội học sinh, hội
cứu tế đỏ…tổ chức các cuộc mít tinh, hội nghị để tuyên truyền giáo dục ý thức chính chị
cho quần chúng.
- Về kinh tế: Chia ruộng đất công cho nông dân, giảm tô, xoá nợ, bãi bỏ các thứ
thuế vô lý, bất công do ĐQ, PK đặt ra.
- Về VH- XH: Chính quyền Xô Viết tổ chức cho nhân dân thực hiện đời sống

mới, mở lớp dạy chữ quốc ngữ, xoá bỏ tệ nạn xã hội, bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng
tình đoàn kết…
-Về quân sự: Mỗi làng đều có đội tự vệ vũ trang, do vậy trị an được đảm bảo, nạn
trộm cướp không còn.
*Nhận xét: Tuy chính quyền mới thành lập ở 1 số xã, thời gian tồn tại chỉ được 4-
5 tháng nhưng qua những việc làm trên, chính quyền Xô Viết đã tỏ rõ bản chất cách
mạng và tính ưu việt của nó đã đem lại nhiều lợi ích căn bản cho nhân dân. Chính quyền
Xô Viết thật sự là chính quyền cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng
(Chính quyền của dân, do dân, vì dân)
Câu 4 : Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936- 1939
như thế nào?
a.Hoàn cảnh lịch sử:
* Thế giới:
-Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 giai cấp tư sản lũng đoạn
nhiều nước tìm lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng cách thiết lập chế độ phát xít
( Italia, Đức, Nhất)
Chủ nghĩa phát xít ra đời, chúng xoá bỏ mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân,
ráo riết chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới, chủ yếu là tiêu diệt Liên Xô và phong trào
cách mạng vô sản thế giới…
Trước nguy cơ đó, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ( 7.1935) chỉ ra kẻ thù chính
trước mắt của nhân dân lao động thế giới là chủ nghĩa phát xít. Vì vậy phải tập trung
mũi nhọn chống phát xít. Đại hội chủ trương mỗi nước thành lập một mặt trận nhân dân
để tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh bảo vệ hoà
bình thế giới.
Thực hiện nghị quyết của Quốc tế cộng sản nhiều nước đã thành lập mặt trận nhân
dân. 1936 mặt trận nhân dân Pháp lên nắm quyền đã thực hiện 1 số chính sách tiến bộ
như cho nhân dân thuộc địa được hưởng 1 số quyền tự do dân chủ…
*Trong nước:
Hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho đời sống các tầng
lớp, giai cấp bị ảnh hưởng. Thêm vào đó đế quốc Pháp ở Đông Dương vẫn thi hành

những chính sách bóc lột, vơ vét, khủng bố, đàn áp làm cho đời sống của nhân dân ta
càng thêm đói khổ, ngột ngạt.
Một số tù chính trị được thả, họ đã nhanh chóng hoạt động trở lại.
b. Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936- 1939
Cách mạng Việt Nam là 1 bộ phận của cách mạng thế giới, căn cứ vào tình hình
thế giới và trong nước, tiếp thu nghị quyết của Quốc tế cộng sản, Đảng ta nhận định kẻ
thù trước mắt, cụ thể của nhân dân lúc này là bọn phản động Pháp và bè lũ tay sai không
chịu thi hành chính sách của Mặt trận nhân dân Pháp tại các thuộc địa
Tạm gác khẩu hiệu “ Đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập”,
“ Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày” nêu nhiệm vụ trước mắt của nhân
dân Đông Dương là “ Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động
thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình”
Thành lập mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương năm 1936 ( đến tháng 3.1938
mặt trận dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước dân chủ, tiến bộ
đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít bảo vệ hoà bình thế giới.
Hình thức và phương pháp đấu tranh : Hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai, nửa
công khai khi cần thì rút vào bí mật để bảo toàn lực lượng của ta.
Như vậy do hoàn cảnh lịch sử thay đổi nên chủ trương của Đảng cũng thay đổi,
điều đó chứng tỏ Đảng đã trưởng thành hơn trong việc chỉ đạo sách lược đấu tranh.
Câu 5: So với thời kỳ 1930- 1931 chủ trương sách lược của Đảng và hình
thức đấu tranh trong thời kỳ 1936- 1939 có gì khác? Vì sao?
Nội dung 1930- 1931 1936- 1939
Kẻ thù Đế quốc, phong kiến
Thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai
không chịu thi hành chính sách của
mặt trận Nhân dân Pháp
Nhiệm vụ( Khẩu
hiệu)
Chống đế quốc, giành độc
lập dân tộc, chống phong

kiến, giành ruộng đất cho
dân cày
Hoãn khẩu hiệu “ Đánh đổ đế quốc
Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc
lập”, “ Tịch thu ruộng đất của địa chủ
chia cho dân cày” mà nêu các khẩu
hiệu: Chống phát xít, chống chiến
tranh, đòi tự do, cơm áo hồa bình
Mặt trận
Thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế
Đông Dương, sau đổi thành mặt trận
dân chủ Đông Dương
Hình thức,
phương pháp
đấu tranh
Bí mật, bất hợp pháp
Bậo động vũ trang
Hợp pháp, nửa hợp pháp; công khai,
nửa công khai…
Câu 6: Tại sao nói phong trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết
Nghệ Tĩnh và phong trào cách mạng 1936- 1939 là hai cuộc tổng diễn tập chuẩn bị
cho cách mạng tháng 8- 1945?
a. Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là cuộc
tổng diễn tập lần thứ nhất:
- Mặc dù cuối cùng vẫn bị thất bại, song phong trào cách mạng 1930- 1931 mà
đỉnh cao là XVNT là thuận lợi đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình
phát triển tiếp theo của cách mạng. Phong trào đã tạo ra những nhân tố đầu tiên đảm bảo
cho thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp cách mạng.
- Phong trào đã khẳng định thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng qua phong trào này,
uy tín của Đảng được xác lập trong quần chúng, phong trào chứng tỏ đường lối cách

mạng của Đảng là đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng cơ bản của nhân dân là “ Độc lập dân
tộc” và “ Người cày có ruộng”
Một kết quả to lớn nữa là phong trào đã xây dựng được khối liên minh công nông,
cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản, khối liên minh công nông là nhân tố quyết định
thắng lợi cách mạng sau này.
- Qua phong trào, lần đầu tiên quần chúng đã tạo ra một hình thức chính quyền
mới, một mô hình xã hội mới ở nước ta.
- Trong quá trình đấu tranh, đội ngũ cán bộ được thử thách và rèn luyện…
- Phong trào đã khẳng định sự trưởng thành của giai cấp công nhân, uy tín của
Đảng được nâng cao trong phong trào Cộng sản và công nhân Quốc tế.
- Cao trào cách mạng 1930- 1931 đã để lại những bài học kinh nghiệm quí giá:
+ Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng
+Bài học về thực hiện liên minh công- nông
+ Bài học về sử dụng bạo lực cách mạng
+ Bài học về xây dựng chính quyền.
Chính vì những lẽ trên, phong trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh cao là XVNT
là cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất cho cách mạng tháng Tám 1945.
b. Phong trào cách mạng 1936- 1939 là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai.
- Nếu như phong trào cách mạng 1930- 1931 đã tạo ra những nhân tố cơ bản đảm
bảo cho thắng lợi cách mạng tháng 8.1945, thì phong trào cách mạng 1936- 1939 lại tiếp
tục bồi bổ và phát triển những nhân tố đó lên một bước cao hơn.
- Thông qua phong trào này Đảng đã được trưởng thành thêm về tư tưởng và tổ
chức. Nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác- Lê Nin ngày càng thêm thấm
nhuần trong tư tưởng, hành động của các đảng viên cộng sản đã ăn sâu, toả rộng trong
các tầng lớp nhân dân. Đảng đã xây dựng và phát triển được một đội ngũ cán bộ có năng
lực giàu kinh nghiệm, đồng thời phát triển thêm các tổ chức cơ sở, tăng cường mối dây
liên hệ với quần chúng. Qua phong trào nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng, trình
độ giác ngộ của đảng viên và uy tín của đảng được nâng lên một bước rõ rệt.
- Cùng với sự trưởng thành của đảng, lực lượng cách mạng cũng lớn mạnh không
ngừng, qua thực tế đấu tranh đảng đã xây dựng một đội quân chính trị hùng hậu gồm

hàng triệu người ở cả thành thị và nông thôn tập hợp trong một mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi đó là Mặt trận dân chủ Đông Dương, cũng qua đấu tranh mà quần chúng
cách mạng được tôi luyện và thử thách dày dạn.
- Phong trào cách mạng 1936- 1939 còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí giá
cho giai đoạn cách mạng sau:
+ Đó là bài học về tổ chức, tập hợp quần chúng đấu tranh.
+ Bài học về sử dụng hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, về khẩu
hiệu đấu tranh…
- Phong trào cách mạng 1936- 1939 đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa
Đảng và quần chúng cách mạng bước vào thời kỳ đấu tranh trực tiếp giành chính quyền.
Vì vậy, đây là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho cách mạng tháng 8 -1945.
Câu 7: Nguyên nhân bùng nổ và thất bại, diễn biến, ý nghĩa lịch sử và bài
học kinh nghiệm của khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ?
*Nguyên nhân bùng nổ:
- 9.1940 Nhật xâm lược Đông Dương, Pháp đầu hàng nhục nhã dâng nước ta cho
Nhật
- Pháp – Nhật câu kết với nhau áp bức , bóc lột nhân dân ta…
- Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với Pháp- Nhật sâu sắc dẫn đến bùng nổ các
cuộc khởi nghĩa.
* Diễn Biến
- Khởi nghĩa Bắc Sơn ( 27.09.1940):….
- Khới nghĩa Nam Kỳ ( 23.11.1940)…
* Kết quả: Thất bại
* Nguyên nhân thất bại:
- Khởi nghĩa Bắc Sơn: Thời cơ mới chỉ xuất hiện ở địa phương chứ chưa phải trên
khắp cả nước nên Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn áp.
- Khởi nghĩa Nam Kỳ: Chưa có điều kiện thuận lợi, kế hoạch bị bại lộ nên địch đã
chuản bị đối phó.
* Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm:
- Thể hiện nguyện vọng giải phóng dân tộc của nhân dân

- Nêu cao tinh thần yêu nước bất khuất của nhân dân ta.
- Khởi nghĩa vũ trang là phương pháp cách mạng được nhân dân hưởng ứng để
thực hiện nhiệm vụ dân tộc.
- Để lại cho Đảng ta những bài học kinh nghiệm về:
+ Khởi nghĩa vũ trang
+ Xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích…
Câu 8: Hoàn cảnh ra đời, chương trình hành động của mặt trận Việt Minh?
Mặt trận Việt Minh có vai trò như thế nào đối với cách mạng tháng 8. 1945?
a. Hoàn cảnh ra đời và chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh?
- 9. 1940 phát xít Nhật vào Đông Dương câu kết với Pháp với Pháp áp bức bóc lột
nhân dân ta rất rã man tàn bạo đẩy nhân dân ta vào chỗ khốn cùng, nhân dân ta rất căm
thù chúng muốn vùng dậy giành độc lập tự do.
- Chiến tranh thế giới lần thứ 2 sắp bước vào giai đoạn mới, tình hình thế giới và
trong nước đòi hỏi ta phải khẩn trương xúc tiến xây dựng lực lượng chờ thời cơ khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Trước tình hình đó, thực hiện nghị quyết hội nghị lần VIII BCH trung ương
Đảng họp từ ngày 10- 19.5.1941 ở Pắc Pó ( Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chủ
trương thành lập 1 mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi.
- Ngày 19.5.1941 mặt trận Việt Minh được thành lập nhằm tập hợp mọi lực lượng
yêu nước trong dân tộc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân làm nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, cứu nước, cứu nhà
b. Chương trình hành động.
Sau khi ra đời, Việt Minh đã công bố cương lĩnh 10 điểm của mình thể hiện 3 nội
dung chính sau:
- Về mục đích: Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập
- Về đối nội: Xây dựng nền kinh tế tài chính độc lập, xoá bỏ mọi thứ thuế vô lý,
thực hiện quyền tự do dân chủ, dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền.
- Về đối ngoại: Chủ trương thân thiện với tất cả các nước coi trọng nền độc lập
của VN.
- Với cương lĩnh 10 điểm Việt Minh nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp lực

lượng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân đứng lên cứu nước. Mười chính sách ấy là một
kinh nghiệm cho việc xác định đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn của nước ta ngày
nay.
c.Vai trò của mặt trận Việt Minh đối với cách mạng tháng 8-1945.
- Mặt trận Việt Minh đã tập hợp mọi lực lượng yêu nước để xây dựng khối đoàn
kết toàn dân trong 1 tổ chức chính trị quần chúng…
- Bằng báo chí của mình, bằng những cuộc hội họp mít tinh Việt Minh đã tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng trong quần chúng, đấu tranh chống mọi thủ đoạn
chính trị, văn hoá của địch, thu hút đông đảo quần chúng vào hàng ngũ cách mạng, tích
cực đấu tranh. Việt Minh là sợi dây chuyền nối Đảng với quần chúng.
- Khắp nơi, mặt trận Việt Minh đã tổ chức được những đoàn thể cứu quốc như:
Hội nông dân cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc…hình thành lực
lượng chính trị to lớn trong cả nước.
- Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đông đảo quần chúng ở vùng Cao- Bắc- Lạng,
Thái Nguyên dần dần phát triển rộng ra khắp nước. Xây dựng căn cứ vững chắc ở Cao-
Bắc- Lạng làm cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang.
- Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Việt Minh đã lãnh đạo cao trào kháng Nhật, tổ
chức những cuộc khởi nghĩa từng phần ở địa phương, rải truyền đơn, căng biểu ngữ,
biểu tình, tuần hành, đánh chiếm kho thóc… Việt Minh đã tập dượt cho quần chúng đấu
tranh.
- Trong những ngày tổng khởi nghĩa, Tổng bộ Việt Minh đã đứng ra triệu tập
quốc dân Đại Hội Tân Trào, trực tiếp kêu gọi, tổ chức huy động lực lượng quần chúng
đấu tranh giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của đảng giành thắng lợi.
Tóm lại: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Minh có vai trò to lớn trong việc chuẩn
bị và tổ chức tổng khởi nghĩa tháng 8-1945
Câu 9: Vì sao phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp vào tháng 3/1945 ở
Đông Dương? Trước sự kiện này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có chủ trương và
hành động gì để tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945?
* Vì sao phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp vào tháng 3/1945:
- Về bản chất : Đế quốc-phát xít Pháp-Nhật không thể chung một thuộc địa như

Đông Dương. Chúng tuy cấu kết với nhau nhưng mâu thuẫn giữa chúng rất gay gắt.
- Trên thực tế :
+ Vào đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ở
mặt trận châu Âu, quân đội Liên Xô mở cuộc tiến công về phía Béc lin Nước Pháp
được giải phóng (8/1944), chính phủ kháng chiến Đờ Gôn về Pa-ri.
+ Ở mặt trận châu Á-Thái Bình Dương, phát xít Nhật khốn đốn trước các đòn tấn
công dồn dập của Anh-Mĩ bộ cũng như trên biển.
+ Ở Đông Dương, thực dân Pháp nhân cơ hội cũng ráo riết hoạt động, đợi khi
quân Đồng minh kéo vào đánh Nhật sẽ nổi dậy hưởng ứng để giành lại địa vị thống trị
cũ.
+ Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo
chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương, quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài
nơi rồi nhanh chóng đầu hàng. Đông Dương từ chỗ là thuộc địa của Pháp- Nhật nay trở
thành thuộc địa của Nhật
* Chủ trương và hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương khi Nhật đảo
chính Pháp:
- Ngay khi tiếng súng đảo chính của Nhật vừa nổ, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp hội nghị mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn-Bắc Ninh). Hội nghị ra chỉ thị
“Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước
mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát Nhật.
- Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật, cứu nước” mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi.
- Thực hiện chủ trương của Đảng, từ giữa tháng 3/1945 trở đi, cách mạng đã
chuyển sang cao trào, phong trào đấu tranh vũ trang và những cuộc khởi nghĩa từng
phần liên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương. Ở khu căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng Ở nhiều
thành phố, thị xã
- Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự Bắc Kì họp ở Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị
quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển
hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang xây dựng căn cứ địa kháng Nhật Uỷ
ban quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập

- Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập Uỷ ban
Lâm thời Khu giải phóng đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh đem lại quyền lợi cho
nhân dân. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cả nước và là hình ảnh thu nhỏ
của nước Việt Nam mới.
- Phong trào phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đã đáp ứng được yêu
cầu bức thiết của quần chúng, thu hút hàng triệu người tham gia, báo trước giờ hành
động quyết định sắp tới.
- Qua khởi nghĩa từng phần lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang được củng cố
phát triển vượt bậc quần chúng nhân dân được tập dượt đấu tranh, sẵn sàng khởi nghĩa
giành chính quyền khi thời cơ đến.
Câu 10 : Bối cảnh lịch sử và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
của Đảng trong thời kỳ 1939- 1945?
a. Hoàn cảnh lịch sử:
9.1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ( 1939- 1945) Đức chiếm được phần
lớn Châu Âu, đến 6.1940 phát xít Đức kéo vào nước Pháp, chính phủ Pháp đã đầu hàng.
Ở Viễn Đông, Nhật cũng đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc và cho quân tiến sát
biên giới Việt – Trung.
Đức đánh chiếm Liên Xô, việc Liên Xô tiến hành chiến tranh giữ nước vĩ đại và
tham gia cuộc chiến tranh chống phát xít làm cho tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi
( từ phi nghĩa trở thành chính nghĩa) một bên là bọn phát xít với một bên là các lực
lượng hoà bình dân chủ mà Liên Xô là lực lượng to lớn làm nòng cốt.
Lúc này là cơ hội thuận lợi cho các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc đứng lên giải
phóng mình…
9.1945 phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, Pháp đã đầu hàng dâng nước ta
cho Nhật. Nhật lấn bước biến Đông Dương thành thuộc địa và làm căn cứ chiến tranh
của chúng.
23.7.1941 Nhật – Pháp ký hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương
Nhật – Pháp cấu kết thoả hiệp với nhau để áp bức bóc lột nhân dân ta đến tận
xương, tuỷ…
Hậu quả của sự thống trị của Pháp – Nhật là gây ra nạn đói khủng khiếp cuối năm

1944 đầu 1945 làm cho hơn hai triệu người chết đói.
Trước tình hình ấy làm cho mâu thuẫn dân tộc vốn gay gắt lại càng thêm gay gắt.
Vì vậy lúc này quyền lợi của tất cả các giai cấp phải tạm gác lại, đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của dân tộc bởi nếu quyền lợi dân tộc không đòi được thì quyền lợi của tất cả các
giai cấp nghìn năm cũng không có được.
b.Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong thời kỳ 1939-
1945.
Trước bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước như vậy Đảng CSĐD chỉ thị cho
cán bộ hoạt động công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp nhanh chóng rút vào hoạt động bí
mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi chính quyền thực
dân có nhiều sơ hở thành các căn cứ địa rộng lớn vững chắc của cách mạng, đồng thời
Đảng vẫn duy trì những cơ sở ở thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào ở thành thị với
nông thôn. Nhanh chóng chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đặt vấn đề giải phóng dân tộc
lên hàng đầu. Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng thông qua các hội
nghị sau:
*6.11.1939 hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà
Điểm ( Hóc Môn) do đồng chí tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
Hội nghị đã phân tích tính chất của chiến tranh thế giới thứ 2, vị trí của Đông
Dương trong cuộc chiến tranh đó, chính sách của Pháp, thái độ của các giai cấp xã hội…
-Từ sự phân tích đó, hội nghị xác định mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông
Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc Đông Dương làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập.
- Vấn đề giải phóng dân tộc được xem là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của
cách mạng.
- Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược để phù hợp với
sự chuyển hướng đó , khẩu hiệu cũng thay đổi: Chống địa tô cao, chống cho vay lãi
nặng, tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ tay sai chia cho dân nghèo.
- Chủ trương thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương ( mặt
trận phản đế Đông Dương) thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương không còn phù hợp
với tình hình mới nữa nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, dân tộc trong cuộc

đấu tranh chống đế quốc phát xít giành lại độc lập cho các dân tộc ở Đông Dương.
- Về phương pháp cách mạng: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ
sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ hoạt động hợp
pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
KL: Nghị quyết Hội nghị lần VI của TW Đảng đánh dấu bước chuyển hướng
quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng. Nó chứng tỏ sự lãnh đạo
sáng suốt, đúng đắn, sự nhạy bén, năng lực sáng tạo của Đảng trước những biến đổi của
tình hình.
* Từ 10 đến 19.5.1941 hội nghị trung ương lần VIII của BCH TW Đảng tại
Pắc Pó ( Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì , hội nghị đã phân tích tình hình thế
giới, trong nước và đi đến chủ trương:
- Tán thành nghị quyết của hội nghị trung ương lần VI: Đặt vấn đề giải phóng dân
tộc lên nhiệm vụ hàng đầu, xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là Pháp –
NHật và tay sai do vậy trước hết phải giải phóng được các dân tộc Đông Dương ra khỏi
ách Pháp – Nhật.
- Tạm gác khẩu hiệu: “ đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng
các khẩu hiệu “ Tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho dân cày nghèo,
giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất công, tiến tới thực hiện “ người cày có ruộng”
- Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước: “ Ai lao độc lập đồng
minh hội” ở Lào, “ Cao Miên độc lập đồng minh hội “ ở Cam pu chia, ở VN thành lập :
VN độc lập đồng minh ( gọi tắt là Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là
hội cứu quốc nhằm : “ Liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt
giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng
nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”
- Quyết định phải xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới 1 cuộc khởỉ nghĩa vũ trang
khi có điều kiện, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhấn
mạnh phải coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng
và dân ta lúc này.
KL: Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII đánh dấu 1 bước tiến so
với Nghị quyết trung ương Đảng lần VI. Vì đã hoàn chỉnh được chủ trương chuyển

hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng. Nghị quyết của hội nghị trung ương Đảng lần
VIII có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của cách mạng tháng 8 – 1945 ở Việt
Nam và ghi nhận sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong buổi đầu về nước trực tiếp chỉ
đạo cách mạng nước ta.
Câu 11 Phân tích thời cơ của tổng khởi nghĩa Tám năm 1945 và vạch rõ vì
sao nói đây là “Thời cơ ngàn năm có một” ?
*Thời cơ của tổng khởi nghĩa tháng Tám:
Tổng khởi nghĩa tháng Tám diễn ra khi thời cơ đã chín muồi, quần chúng cách
mạng trong cả nước được tập hợp và rèn luyện qua quá trình chuẩn bị tập hợp lực lượng,
đặc biệt là qua cao trào “ Kháng Nhật cứu nước” nên đã sẵn sàng vùng dậy.
Đảng cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị đầy đủ quyết tâm phát động và lãnh đạo
quần chúng giành chính quyền. Trong khi đó Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng
minh vô điều kiện vào ngày (14/8/1945). Quân Nhật ở Đông Dương vô cùng hoảng hốt,
chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim bị tê liệt, mất hết chỗ dựa, kẻ thù hoang mang, tan
rã cao độ.
*Nói đây là “Thời cơ ngàn năm có một” Vì:
Giữa lúc phát xít Nhật và tay sai đang hoang mang tan rã như vậy thì cả một tập
đoàn đế quốc Anh, Pháp và quân Tưởng Giới Thạch đang ráo riết kéo vào Đông Dương.
Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định phải giành chính quyền từ tay Nhật, lật đổ
chính quyền bù nhìn tay sai. Đứng ở vị trí người chủ nhà để đón tiếp quân Đồng minh
vào giải giáp quân đội Nhật. Nếu chúng ta hành động chậm trễ khi quân Đồng minh vào
Đông Dương là thời cơ không còn nữa.
Câu 12 Trình bày hoàn cảnh lịch sử, diễn biến chính của Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
a) Hoàn cảnh lịch sử:
Thế giới (Khách quan): Chiến tranh thế giới thứ hai đang tới những ngày cuối. Ở
Châu Âu, tháng 5/1945 phát xít Đức đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện. Ở
Châu Á-Thái Bình Dương ; tháng 8/1945 Nhật cũng đầu hàng vô điều kiện. Khi đó, các
nước Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.
Trong nước (Chủ quan): quân Nhật và bè lũ tay sai của chúng hoang mang đến

cực độ, lính Nhật mất hết tinh thần chiến đấu. Trong khi đó, lực lượng cách mạng của ta
lớn mạnh, nhân dân đã sẵn sàng, Đảng ta có sự chuẩn bị chu đáo trong suốt 15 năm.
Như vậy, Cách mạng tháng Tám nổ ra trong điều kiện khách quan và chủ quan
hoàn toàn chín muồi. Đó là thời cơ ngàn năm có một (vì nó rất hiếm và rất quý, nếu bỏ
qua thì thời cơ không bao giờ trở lại nữa). Nhận thức rõ thời cơ có một không hai này,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Đây là thời cơ ngàn năm có một cho dân tộc ta vùng dậy. Lần
này dù có phải thiêu cháy dãy Trường Sơn cũng quyết giành độc lập cho đất nước”.
Đứng trước hoàn cảnh thuận lợi ấy, Đảng và Hồ Chí Minh kịp thời phát lệnh
Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Điều này được thể hiện qua Hội nghị toàn quốc của
Đảng, Quốc dân Đại hội Tân Trào và thư gửi đồng bào cả nước của Hồ Chủ Tịch.
b. Những diễn biến chính: (từ 14/8 đến 28/8/1945).
+ Từ ngày 14/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa nhưng khởi
nghĩa đã nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền Trung.
+ Chiều ngày 16/8/1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng
do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái
Nguyên, mở đường về Hà Nội.
+ Từ 14 đến 18/8/1945 có 4 tỉnh giành được chính quyền sớm nhất là Bắc Giang,
Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam.
+ Tại Hà Nội: từ ngày 15 đến 18/8 phong trào chuẩn bị khởi nghĩa của quần
chúng ngày càng sôi sục. Ngày 19/8/1945, Hà Nội giành được chính quyền.
+ Ngày 23/8/1945, ta giành chính quyền ở Huế.
+ Ngày 25/8/1945, ta giành chính quyền ở Sài Gòn.
+ Ngày 28/8/1945, hầu hết các địa phương trong cả nước giành được chính quyền.
+ Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị.
Như vậy chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14/8 đến 28/8/1945) tổng khởi nghĩa tháng
Tám đã thành công trong cả nước. Lần đầu tiên trong cả nước chính quyền về tay nhân
dân.
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Câu 13: Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của
cách mạng tháng tám 1945? Nguyên nhân nào mang tính chất quyết định chính?
Vì sao?
a. Ý nghĩa lịch sử:
Đối với dân tộc:
- Cách mạng tháng tám là 1 sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã
phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời lật nhào
chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót ngàn năm
Việt Nam từ 1 nước thuộc địa đã trở thành 1 nước độc lập dưới chế độ dân chủ
cộng hoà, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người độc lập, tự do, làm chủ nước nhà.
- Cách mạng tháng tám mở ra 1 kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập tự do
Đối với thế giới
- Cách mạng tháng tám là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của 1 dân tộc
nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân.
- Thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa trên thế giới, đặc biệt là nhân dân châu Á, châu Phi.
b. Nguyên nhân thắng lợi:
- Nguyên nhân chủ quan:
- Dân tộc VN có truyền thống yêu nước sâu sắc, đấu tranh kiên cường bất khuất từ
ngàn xưa cho độc lập – tự do. Vì vậy, khi Đảng CS Đông Dương và mặt trận Việt Minh
phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi người hăng hái hưởng ứng.
- Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được mọi lực lượng yêu nước
trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, biết kết hợp tài tình đấu tranh vũ trang
với đấu tranh chính trị, đấu tranh du kích với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên
phát động tổng khởi nghĩa cả ở nông thôn và thành thị, đánh đổ hoàn toàn bộ máy cai trị
của đế quốc phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Nguyên nhân khách quan
Cách mạng tháng tám thành công nhanh chóng và ít đổ máu một phần nhờ có hoàn cảnh
quốc tế thuận lới. Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến hồi kết thúc, Hồng quân Liên
Xô và quân Đồng minh đã đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức- Nhật, góp phần quyết định

vào thắng lơi chung của các lực lượng hoà bình dân chủ trên thế giới.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân quan trọng và mang tính quyết định
nhất là nguyên nhân chủ quan bởi vì: Nếu quần chúng nhân dân không sẵn sàng anh
dũng đứng lên, nếu Đảng không sáng suốt tài tình, nhận định đúng thời cơ thì thời cơ sẽ
qua đi.
Vì thế nguyên nhân chủ quan mang tính chất quyết định còn nguyên nhân khách
quan chỉ là sự hỗ trợ, là thời cơ để Đảng sáng suốt phát động quần chúng nhân dân
đứng lên giành chính quyền trong thời gian ngắn chỉ 15 ngày ; có được kết quả thắng lợi
đó là sự chuẩn bị 15 năm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
c. Bài học kinh nghiệm
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kết hợp đúng đắn, sáng
tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; đưa nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu,
giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc.
- Đánh giá đúng và biết tập hợp mọi lực lượng của các giai cấp cách mạng, trong
đó công-nông là đội quân chủ lực.Trên cơ sở liên minh công-nông phân hoá, cô lập kẻ
thù rồi tiến lên đánh chúng.
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin; tiến hành khởi nghĩa vũ trang, kết hợp đấu
tranh vũ trang với đấu tranh chính trị; kết hợp đấu tranh du kích, khởi nghĩa từng phần ở
nông thôn với đấu tranh chính trị ; khởi nghĩa ở đô thị để khi thời cơ đến khởi nghĩa
giành chính quyền.
- Kết hợp chuẩn bị lâu dài với việc chớp thời cơ.
A. KẾT LUẬN
Không được giáo dục Lịch sử chu đáo, thế hệ trẻ của chúng ta sẽ mất gốc, thờ ơ
với vận mệnh dân tộc. Môn học Lịch sử không chỉ trang bị kiến thức mà còn khơi dậy
niềm tự hào dân tộc ở người học. Cung cấp cho họ nền tảng văn hoá – điều rất cần thiết
trong thời kỳ đất nước đang hội nhập sâu rộng với quốc tế. Chính vì vậy, vai trò của
người giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc biệt là vai trò trong việc tạo niềm đam mê,
yêu thích môn học cho thế hệ trẻ.
Công tác dạy học Lịch sử đã khó, nhưng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử

ngày càng khó hơn trong thời đại ngày nay.
Theo tôi, nhiệm vụ của người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ là biết
kết hợp các phương pháp giảng dạy hợp lý để củng cố kiến thức cơ bản, tổng hợp, nâng
cao kiến thức, khái quát kiến thức theo hệ thống các câu hỏi, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo
làm bài cho học sinh…. Mà điều quan trọng nữa không thể không nhắc tới đó là tạo
được niềm đam mê, yêu thích môn học, để từ đó các em học tập một cách tự giác, có
thái độ học tập đúng đắn, có như vậy ta mới đào tạo được những học sinh yêu thích học
môn Lịch sử một cách thực sự, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI hiện nay.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân thành của các đồng nghiệp.

×