Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.59 KB, 17 trang )

CHUYÊN ĐỀ: MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN TÁC PHẨM
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG THCS
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN II.
NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC
Chương I : KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC VIẾT TRUNG
ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG THCS
Chương II :NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ KHI PHÂN
TÍCH, ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM.
Chương III. VÍ DỤ MINH HỌA
Chương IV . GIẢI PHÁP MỚI
PHẦN III. KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý luận dạy học khẳng định: nhà giáo là người có ảnh hưởng quyết định
đối với tất cả những đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học.Theo đó người
thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển định hướng, thiết kế quá
trình dạy học, giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ , thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo,
Hiện nay, trong nhà trường phổ thông nói chung, trường THCS nói riêng,
cùng nằm trong yêu cầu đổi mới dạy học, việc đổi mới dạy học môn Văn đang
được triển khai rất sâu rộng. Cũng như các môn học khác trong trường THCS, đổi
mới dạy học Văn được tiến hành một cách đồng bộ với yêu cầu đổi mới toàn diện:
từ đổi mới phương pháp, đổi mới nội dung đến đổi mới việc kiểm tra, đánh giá học
sinh. Đổi mới phương pháp dạy học văn trên cở sở đáp ứng những yêu cầu: bám
sát chuẩn kiến thức kĩ năng, phát huy tính tích cực tự giác chủ động sáng tạo của
người học, chú ý đến mối quan hệ giáo viên- học sinh, học sinh- học sinh, chú
trọng rèn luyện các kĩ năng cơ bản nghe - nói- đọc- viết cho học sinh.


Thực tế công tác giảng dạy vài năm qua trong nhà trường phổ thông, kể cả
qua các tài liệu chỉ đạo, hướng dẫn về công tác đổi mới dạy học với bộ môn Văn,
qua các tài liệu về các cuộc hội thảo, và cả từ các chương trình tập huấn về chuyên
môn, chúng ta đều nhận thấy, trong 3 nội dung của đổi mới dạy học Văn hiện nay,
cần tập trung nhiều đến việc đổi mới phương pháp, sau đó là đổi mới trong kiểm
tra, đánh giá, đồng thời đổi mới nội dung dạy, học văn.Trong đó khâu đầu tiên có
tính đột phá nhất trong đổi mới giảng dạy Văn là đổi mới phương pháp giảng dạy .
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy để đem đến sự thành công cho một bài
giảng văn là điều không dễ, bởi lẽ mỗi bài văn, mỗi tác phẩm văn học nội dung rất
đa dạng, phong phú, giá trị và ý nghĩa mỗi bài, mỗi khác, không thể có sự trùng
lặp. Trong quá trình giảng dạy và thực tế hoạt động chuyên môn trong tổ, tôi nhận
thấy cái khó nhất của giáo viên văn khi đứng trước một bài giảng là mặc dù biết
được một số yêu cầu chung như: dạy đủ kiến thức cơ bản, làm nổi bật được trọng
tâm kiến thức, có sự liên hệ chặt chẽ giữa các phần, nội dung sát với trình độ của
học sinh, nhưng lại không thể hiện rõ được kiến thức nào sẽ phải được khai thác ở
mức độ nào nhất là làm thế nào bài giảng thực sự thu hút được học sinh; thiết nghĩ
không phải chỉ ở giọng giảng bài, giọng đọc, câu hỏi phù hợp, lớp học sôi nổi mà
là ở sự uyên thâm, sâu sắc của kiến thức, ở việc khám phá chiều sâu giá trị của tác
phẩm. Điều này cũng thấy ngay khi chúng ta dự giờ một giờ văn. Một bài giảng
hay trước hết phải là một bài giảng có nội dung khoa học, sâu sắc, có đầy đủ và
chính xác các kiến thức về giá trị tác phẩm, những phân tích đánh giá, bình luận
của giáo viên phải thật sự sâu sắc, độc đáo và khoa học.
Vậy làm thế nào để có một bài giảng sâu sắc, khoa học, kiến thức rộng mà
hợp lý để cuốn hút học sinh? Đó lại là vấn đề của phương pháp nghiên cứu, tiếp
cận tác phẩm, một vấn đề thuộc về việc vận dụng đúng đắn, hợp lý các nguyên tắc
trong việc tiếp cận các tác phẩm văn học.
Nguyên tắc lịch sử là một nguyên tắc chủ yếu, có tính cơ bản trong số
những nguyên tắc chung khi tiếp cận đánh giá một tác phẩm. Đây là một nguyên
tắc mà tính khoa học của nó là điều không thể chối cãi. Tuy nhiên vận dụng
nguyên tắc này như thế nào và phải làm gì để có thể vận dụng được nguyên tắc này

vào việc tìm hiểu tác phẩm văn học lại là một vấn đề không phải dễ. Lí luận văn
học khẳng định: văn học bắt nguồn từ đời sống. Văn học Việt Nam nói chung và
văn học Trung đại nói riêng luôn đồng hành cùng những bước thăng trầm của lịch
sử dân tộc- “ xã hội nào thì văn nghệ ấy”, hay nói cách khác “ Văn học nghệ thuật
là tấm gương phản ánh trung thành thời đại”, nhà thơ Chế Lan Viên nói một cách
hình ảnh:
“ Bài thơ anh, anh làm một nửa
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy”- ( Sổ tay thơ)
Thế nhưng trong thực tế dạy và học văn, việc gắn tác phẩm văn học với
hoàn cảnh lịch sử ra đời của nó đôi khi còn rất mờ nhạt. Người dạy và cả người
học thường lướt qua hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, coi đó là thông tin bên lề và
trong suốt quá trình tiếp cận, bình giá hoàn toàn tách rời nó ra khỏi văn cảnh xuất
hiện. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tác phẩm sau khi được
phân tích, tìm hiểu vẫn không lưu lại lâu bền trong tâm trí học sinh, nhất là những
tác phẩm đã có thời gian ra đời cách chúng ta khoảng thời gian rất lớn. Bởi thế tôi
chọn giới thiệu một hướng khai thác, tiếp cận tác phẩm văn học Trung đại để cùng
trao đổi là: “Vận dụng nguyên tắc lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung
đại thuộc chương trình Ngữ văn THCS”. Định hướng của chuyên đề nhằm cố
gắng tiếp cận với một nguyên tắc phân tích tác phẩm văn học có tính khoa học cao
và nhiều khả năng ứng dụng vào việc dạy văn học trong trường THCS nói chung ,
phần văn học Trung đại Việt Nam nói riêng.
PHẦN II. NỘI DUNG
I . CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC:
Nguyên tắc lịch sử trong dạy học văn xuất phát từ đặc trưng căn bản của tác
phẩm văn học nói chung. Cụ thể:
3.1.Tác phẩm văn học là tấm gương phản ánh xã hội lịch sử đương thời, quy
luật này nằm ngoài ý muốn chủ quan của nhà văn. Có nghĩa là, dù muốn hay
không, dù bất kỳ đề tài sáng tác nào, nhà văn vẫn sẽ đưa cái hồn của lịch sử đương
đại, của thời đại mình vào tác phẩm một cách vô thức. Bởi lẽ, văn học vốn căn bản
xuất phát từ yêu cầu lịch sử của bản thân từng xã hội.

Tính lịch sử của văn học nằm trong mọi yếu tố bên trong tác phẩm ( như đề
tài, chủ đề, thủ pháp nghệ thuật) và nằm cả trong các yếu tố liên quan trực tiếp đến
tác phẩm (quan niệm thẩm mỹ, quan niệm sáng tác, tư tưởng của nhà văn).
Lịch sử vừa là cơ sở xuất phát, hình thành nên tác phẩm lại vừa là yếu tố thể
hiện, được trình bày trong tác phẩm. Nghĩa là, lịch sử là yếu tố quyết định đến tác
phẩm ngay từ khi nó mới được nhà văn manh nha, dự định viết sau đó, thể hiện
một cách gián tiếp hoặc trực tiếp trong từng lời văn, từng nhân vật, từng cảnh đời,
từng cảm xúc của tác phẩm. Cho nên có thể nói, lịch sử là cái cốt lõi, nội tại có
trong mỗi tác phẩm văn học.
Chính vì lịch sử là yếu tố tồn tại bên trong, vốn có của tác phẩm văn học mà
khi tiếp cận với tác phẩm văn học, người dạy và người học tác phẩm nhất thiết
phải nắm vững nguyên tắc lịch sử của văn học.
3.2. Nguyên tắc lịch sử trong tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học thể hiện
ở chỗ phải luôn đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử ra đời của nó mà tìm hiểu.
Có nghĩa là, không được đặt tác phẩm vào một vị trí :”phi lịch sử”, tác phẩm nhất
thiết phải nằm trong mối quan hệ với một hoàn cảnh lịch sử nhất định, cụ thể, xác
định. Nguyên tắc này đòi hỏi người dạy, người học phải tìm hiểu, nghiên cứu, nắm
chắc những đặc điểm nổi bật của lịch sử mà tác phẩm ra đời, không hiểu lịch sử,
không hiểu những biến động của hoàn cảnh xã hội, cuộc sống trong thời đại của
tác phẩm thì không thể hiểu đúng và hiểu đầy đủ được tác phẩm.
3.3. Phải đứng trên quan niệm lịch sử để đánh giá toàn diện giá trị cũng như
hạn chế của tác phẩm. Điều này có nghĩa là, khi đánh giá tác phẩm không thể lấy
quan niệm của thời đại hiện nay để nhìn nhận tác phẩm. Phải đặt tác phẩm vào giai
đoạn của nó, xem xét ở vào thời điểm đó, cái tiến bộ của nó và lạc hậu của nó là gì
trong mối quan hệ với xu thế của lịch sử khi đó, xem nó phản ánh lịch sử xã hội
đầy đủ, trung thực hạy phiến diện, lệch lạc? Quan niệm tư tưởng của nhà văn so
với thời đại ra sao? Cuối cùng là đóng góp của tác phẩm với bản thân tiến trình của
lịch sử văn học là gì?
II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I : KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC VIẾT TRUNG ĐẠI

TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS.
I.Sự hình thành của dòng văn học viết
- Văn học viết xuất hiện vào khoảng thế kỉ X do tầng lớp trí thức biết chữ hán
có tinh thần dân tộc, yêu nước đóng vai trò chủ chốt.
- Văn học viết ra đời cùng với văn học dân gian đã hoàn chỉnh diện mạo của
nền văn học dân tộc.
II. Tiến trình phát triển:
VHTĐ VN hình thành và phát triển trong bối cảnh văn hóa xã hội phong kiến, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến nên có những nét riêng biệt về thể
loại, thi pháp…. là nơi lưu giữ và toả chiếu những tinh hoa và bản sắc của tâm hồn
dân tộc. Phát triển qua 4 giai đoạn (cách chia mang tính tương đối )
1,Giai đoạn 1: từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 15
a) Hoàn cảnh lịch sử
- Đất nước tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước
- Giai cấp phong kiến tiếp tục phát huy vai trò tích cực, đoàn kết với nhân dân
và lãnh đạo toàn dân đánh thắng giặc Tống(11), Nguyên (13), Minh(15)và xây
dựng một nền văn hóa giàu tính truyền thống.
b)Văn học:
- Sự xuất hiện của văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Thể loại tiêu biểu: Chiếu , Hịch, Cáo, Thư.
Nội dung: Âm hưởng chủ đạo là tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc với
những biểu hiện cụ thể:Yêu mến tự hào, nhiệt tình ca ngợi vẻ đẹp non sông đất
nước và bản sắc văn hoá lâu đời, truyền thống chống ngoại xâm anh hùng của
cha ông, đề cao lòng tự tôn, ý thức tự chủ; có lòng căm thù giặc sâu sắc tố cáo
tội ác của giặc; có ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù cao độ; đề cao những võ
công oanh liệt biểu dương sức mạnh đoàn kết; nêu cao tư tưởng nhân nghĩa
khát vọng về một nền thái bình muôn thủa.
2,Giai đoạn 2: Từ thế kỉ 16 đến nửa đầu thế kỉ 18
a) Hoàn cảnh lịch sử: giai cấp phong kiến bắt đầu xuất hiện những mâu thuẫn
nội tại; đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, đất nước bị chia cắt thành đàng

trong đàng ngoài.
b) Văn học: đánh dấu bước phát triển mới của văn học sáng tác bằng chữ nôm.
Nội dung chủ đạo là đi tìm và khẳng định chủ nghĩa nhân đạo ( Phê phán và lên
án chiến tranh phong kiến; thể hiện niềm hy vọng về sự thống nhất đất nước;
thể hiện khí phách và tiết tháo của các nhà nho; bước đầu đề cập đến bi kịch cá
nhân con người.
3,Giai đoạn 3: nửa sau thế kỉ 18 đến nửa đầu thế kỉ 19
a) Hoàn cảnh lịch sử: Đây là thời kì bão táp sôi động nhất của phong kiến Việt
Nam; chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, khởi nghĩa nông dân nổi lên
khắp nơi, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực.
b) Văn học phát triển rực rỡ cả văn học chữ hán và văn học chữ nôm. Nội dung
chủ đạo là trào lưu nhân đạo chủ nghĩa (Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp hình thể đức
hạnh của con người; lên án tố cáo những thế lực phong kiến bạo tàn; đồng cảm
với những bi kịch của con người; đồng tình với những ước mơ khát vọng chân
chính về tình yêu, hạnh phúc)
4,Giai đoạn 4: Nửa sau thế kỉ 19 đến hết thế kỉ 19:
a) Hoàn cảnh lịch sử: Pháp xâm lược Việt Nam; xã hội VN chuyển từ xã hội
phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến
b) Văn học: âm hưởng chủ đạo: tư tưởng yêu nước chống xâm lăng; phê phán sự
lố lăng của xã hội buổi giao thời; thể hiện nỗi đau mất nước.
Như vậy nhìn vào tiến trình phát triển nêu trên chúng ta thấy: Dòng văn học
viết trung đại Việt Nam ( còn được gọi là văn học viết phong kiến hay văn học cổ
điển) được đưa vào chương trình Văn học cấp THCS . Cụ thể là từ lớp 6 đến lớp 9;
ở lớp 6 là một số truyện trung đại, lớp 7 chủ yếu là các tác phẩm thơ trữ tình trung
đại. Lên lớp 8 học sinh được tiếp xúc với các tác phẩm nghị luận thuộc thể loại
cáo, hịch, chiếu; ở lớp 9 là các tác phẩm thuộc thể loại truyền kì, truyện thơ nôm,
tuỳ bút, chí. Các tác phẩm được đưa vào chương trình đều có lịch sử ra đời cách
khá xa thời đại chúng ta. Tác phẩm xa nhất như “ Nam quốc sơn hà” có lịch sử trên
1000 năm và gần nhất là các bài thơ của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương . Đó
thực sự là những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học nước nhà, những tinh hoa của

nền văn hóa dân tộc được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm đầy vẻ vang và nhiều
biến động của lịch sử dân tộc. Đây vẫn luôn là mảng tác phẩm được cả người dạy
và người học coi là khó nhất trong chương trình văn học cấp THCS nói chung.
Việc tiếp nhận các tác phẩm này khó khăn ở rất nhiều yếu tố:
Trước hết, cái khó khi dạy và học những tác phẩm văn học viết trung đại ở
chính ngay trong thời gian ra đời của những tác phẩm đó. Lịch sử lâu đời của tác
phẩm, hoàn cảnh xã hội lịch sử quá xa mà tác phẩm hình thành và phản ánh đã gây
cho cả người dạy và người học những khó khăn rất lớn. Tất cả những gì được phản
ánh trong các tác phẩm văn học cổ đều ít nhiều là sự phản ánh những biến động, sự
kiện lịch sử cụ thể, phản ánh cuộc sống, suy nghĩ quan niệm của những con người
trong lịch sử.
Hơn nữa, quan điểm thẩm mỹ, nghệ thuật của những tác giả thời phong kiến
cũng đã ít tồn tại đến ngày nay. Hệ thống quan niệm về cái đẹp, quan niệm sống,
cách nhìn nhận đánh giá con người, xã hội đều mang dấu ấn đậm nét của quan
niệm phong kiến, dĩ nhiên càng phức tạp hơn vì nó có thêm dấu ấn của mỗi thời
đại, tuỳ thuộc vào sự thịnh suy của lịch sử mỗi thời.
Thêm nữa, cái khó của những tác phẩm này còn nằm trong thể tài, hình thức
biểu hiện của mỗi tác phẩm.Tất cả, từ chữ viết, từ ngữ, thể văn, phương thức diễn
đạt, đều ít nhiều khá xa lạ .Mặt khác, theo quan niệm trước đây, văn học và sử học
hầu như không có sự phân biệt, nhất là ở thể văn xuôi và văn biền ngẫu. Điều này,
thể hiện rất rõ trong quan niệm “ văn, sử bất phân” .Việc nắm được các đặc điểm
thể loại mang nhiều tính lịch sử này là tương đối khó khăn.
Do đó, tất cả, từ hoàn cảnh xã hội lịch sử, cuộc sống quan niệm thẩm mỹ của
người xưa, đặc điểm nghệ thuật của dòng văn học cổ, những vấn đề mang tính lịch
sử này, đều đòi hỏi phải được nghiên cứu, tìm hiểu, lấy đó làm cơ sở đánh giá,
phân tích, tiếp nhận tác phẩm văn học.
III. Cái nhìn lịch sử khi nghiên cứu, tiếp cận tác phẩm VHTĐ:
Việc tiếp nhận các tác phẩm văn học nói chung, đặc biệt là với các tác phẩm
có lịch sử lâu đời như các tác phẩm văn học viết Việt Nam trung đại thì việc xác
định cho mình một cái nhìn lịch sử từ ban đầu, bao quát lên toàn bộ tác phẩm là hết

sức quan trọng. Cái nhìn lịch sử đó phải luôn luôn được người giáo viên đặt lên
hàng đầu, giống như một phản xạ tự nhiên khi bắt gặp những tác phẩm có liên
quan nhiều đến kiến thức lịch sử ( ở đây bao gồm cả vấn đề về lịch sử văn học).
Vậy “cái nhìn lịch sử” là như thế nào, nó đòi hỏi mỗi giáo viên phải chuẩn bị
cho mình những kiến thức gì?
Có thể hiểu những “cái nhìn lịch sử” ở đây là thái độ nghiên cứu, tìm hiểu,
đánh giá tác phẩm dựa trên nguyên tắc lịch sử nói chung. Cái nhìn đó đòi hỏi giáo
viên dạy tác phẩm phải đặt tác phẩm của mình vào đúng hoàn cảnh xã hội, lịch sử
mà tác phẩm hình thành, đánh giá tác phẩm đặt trong mối quan hệ mật thiết với các
vấn đề lịch sử của thời đại tác phẩm, trên quan niệm lịch sử của thời đại đó.
Chương II :NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ KHI PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM.
I. Nguyên tắc lịch sử trong đánh giá nội dung tác phẩm
Nội dung của tác phẩm Văn học bao gồm nhiều yếu tố: đề tài, chủ đề, giá trị
tư tưởng… Trong đó, chủ đề là nơi tập trung đầy đủ nhất giá trị nội dung của tác
phẩm. Mặt khác, nội dung tác phẩm tuỳ thuộc vào thể loại tác phẩm lại được bộc
lộ bằng những cách khác nhau: Với tác phẩm thơ , nội dung thể hiện trong cảm
xúc chủ đạo của nhân vật trữ tình, của các hình tượng thơ , với tác phẩm tự sự
( truyện), nội dung thể hiện trong cốt truyện, nhân vật, tình huống và cách giải
quyết tình huống của truyện. Văn học cổ điển không chỉ đơn thuần có hai thể loại
này mà còn có những thể loại khác mà giá trị nội dung của tác phẩm được bộc lộ
theo phương thức trực tiếp không qua hình tượng văn học, đó là các loại Hịch và
Cáo. Đó cũng chính là những nét riêng của dòng văn học viết trung đại.
Lý luận văn học đã chỉ rõ khi nhìn nhận thế nào là một nội dung hay, có giá
trị. Đó phải là một nội dung có đề tài rõ ràng, gần gũi với hiện thực cuộc sống, đặt
ra được những vấn đề nóng hổi, cấp thiết nhất của cuộc sống đương đại ; có cách
giải quyết vấn đề hợp lý, tiến bộ phù hợp với tiến trình phát triển đi lên của thời
đại,cách giải quyết vấn đề phải mang tính sáng tạo, độc đáo, mới mẻ.
Dựa vào những vấn đề trên, ta thấy việc phân tích nội dung tác phẩm luôn
luôn phải đặt trong các mối liên hệ với hoàn cảnh xã hội lịch sử thời đại mà tác
phẩm ra đời. Từ sự phân tích mối quan hệ đó mà đánh giá những thành công và

hạn chế của nội dung tác phẩm.
Khi áp dụng nguyên tắc lịch sử để tìm hiểu nội dung một số tác phẩm,
chúng ta cần tập trung vào giải quyết một số vấn đề có tính câu hỏi sau:
1. Thứ nhất : Đề tài tác phẩm được xây dựng như thế nào? Nó có theo sát
được những sự kiện lịch sử đương đại không?
Tuy đề tài không phải là vấn đề then chốt của tác phẩm, bởi dù mượn cảnh
nào, người nào hay vật nào để phản ánh thì mục đích cuối cùng vẫn là chủ đề, là
giá trị tư tưởng mà tác giả muốn trình bày. Nhưng nếu đặt đề tài trong mối liên hệ
với tình hình lịch sử xã hội , nhận ra mối liên quan giữa chúng , vẫn sẽ giúp người
học hiểu được sự sát thực, thái độ muốn phản ánh trung thực hiện thực của tác giả,
hơn nữa hiểu được một cách cụ thể về các sự kiện, cảnh, người của thời đại cũ.
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu đề tài của tác phẩm đặt trong mối quan hệ với hoàn
cảnh lịch sử xã hội cũng giúp nhận xét được cách thức phản ánh của tác phẩm
( trực tiếp hay gián tiếp)
Theo đó, ta thấy ngay rằng hầu hết các tác phẩm thể văn xuôi ( truyện, ký,
tiểu thuyết chương hồi) và thể văn biền ngẫu ( hịch, cáo) và tác phẩm trữ tình đều
có lối phản ánh đề tài trực tiếp, chỉ có một số ít các tác phẩm mượn đề tài gián tiếp
( tiêu biểu như: Chuyện người con gái Nam Xương ( Nguyễn Dữ)- mượn chuyện
cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV để nói về hiện thực thế kỷ XVI, hay như bài Bánh
trôi nước ( Hồ Xuân Hương)– mượn chuyện cái bánh trôi để phản ánh thân thế
của người phụ nữ xưa).
Qua cách phân tích đối chiếu này, chúng ta giúp học sinh tiếp nhận một cách
trực tiếp về bức tranh lịch sử thời đại được phản ánh trong các tác phẩm, giúp các
em hiểu cụ thể hơn, rõ ràng hơn, dễ hình dung hơn về thời đại đó (Ví dụ như hiểu
được tường tận trận đánh, sự lớn mạnh của nghĩa quân Lam Sơn, các việc làm cụ
thể của Lê Lợi, Nguyễn Trãi khi đọc Bình Ngô Đại Cáo ( Nguyễn Trãi), hay như
việc được xem lại gần như khá hoàn chỉnh về cuộc tấn công ra Bắc của Nguyễn
Huệ khi đọc Hồi thứ 14 Hoàng Lê nhất thống chí ( Ngô gia văn phái). Nhìn thấy
gần như tường tận cảnh cung điện, cuộc sống của chúa Trịnh khi đọc đoạn trích
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh- Phạm Đình Hổ). Những kiến thức thu lượm được

rõ ràng có giá trị không kém gì những bài lịch sử, thậm chí chi tiết và dễ hình dung
hơn. Qua sự phân tích nhận thức đó, đối chiếu với lời giảng bổ sung của giáo viên
hoặc qua các tài liệu khác về hoàn cảnh xã hội đương thời, học sinh bước đầu đánh
giá về độ chân thực, tính sát đúng của các đề tài thể hiện trong tác phẩm.
2.Thứ hai: Vấn đề mà tác phẩm đề cập, nêu lên có phải là vấn đề mang tính
thời sự, nổi cộm nhất của lịch sử?
Vấn đề của tác phẩm là một yếu tố ban đầu của chủ đề tác phẩm. Trong hàng
loạt vấn đề của xã hội đương đại, nhà văn chọn phản ánh vấn đề gì là chủ yếu, xây
dựng nó thành chủ đề của tác phẩm? Cách chọn vấn đề thể hiện cái nhìn của nhà
văn với thời đại mình, thể hiện mối quan tâm nhất của thời điểm cho ra đời tác
phẩm. Vấn đề được chọn sẽ quyết định đến giá trị , cái hay của chủ đề tác phẩm.
Bởi lẽ, một chủ đề hay phải là một chủ đề phản ánh được vấn đề bức xúc nhất,
được nhiều người đương đại quan tâm nhất. Nếu ta hiểu rõ những nét chính của
lịch sử thời đại, nắm được đâu là vấn đề bao trùm, nổi bật nhất của thời đại, chúng
ta sẽ dễ dàng đánh giá được sự lựa chọn của nhà văn. Để làm được việc này, theo
tôi, giáo viên phải bao quát được toàn bộ tiến trình lịch sử của 10 thế kỷ văn học ,
nắm đựợc từng nét đặc điểm cụ thể, nổi bật nhất của từng giai đoạn nhỏ của lịch
sử, nắm được đâu là vấn đề nổi bật của giai đoạn lịch sử đó.
Ví dụ như: Thế kỷ X - thế kỷ XV, nét nổi bật của lịch sử là các phong trào,
các cuộc kháng chiến, các cuộc khởi nghĩa nhằm giành bảo vệ và giành lại nền độc
lầp của dân tộc, tinh thần tự tôn, lòng yêu nước, lòng căm thù giặc, vấn đề đoàn kết
dân tộc cùng đứng lên chống ngoại xâm. Xác định được như vậy, ta sẽ thấy ngay
rằng, hầu hết các tác phẩm được dạy trong chương trình thuộc giai đoạn này( như
Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Nam quốc sơn hà) đều đã phản ánh được tinh
thần chủ đạo của thời đại. Bên cạnh những vấn đề nổi bật đó, cũng cần nhận thấy
một số đặc điểm khác với thời đại như: việc mới giành độc lập, sự hưng thịnh của
đạo Phật, lòng lạc quan tin tưởng vào sức đi lên của dân tộc, những nỗi lo về thời
cuộc khi xã hội phong kiến của biểu hiện đi xuống cuối thế kỷ XV.Hiểu được điều
này, ta cũng giúp học sinh dễ dàng đánh giá hơn khi tìm hiểu nội dung một số tác
phẩm trong giai đoạn này của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi.

Đến giai đoạn thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII, xã hội phong kiến Việt
Nam đã đi vào thời kỳ thoái trào, tư tưởng phong kiến không còn được tôn trọng,
chiến tranh xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến, đời sống nhân dân vô
cùng cực khổ, mối quan hệ giữa người với người không còn tốt đẹp, nhiều nhà nho
muốn tìm đến cuộc sống ẩn đạt thanh cao. Tuy nhiên đây cũng chưa phải là giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đó là những vấn
đề nổi cộm nhất của thời kỳ này. Từ những nhận định như thế, ta có thể thấy ngay
là các tác Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) đã phản ánh rất kịp
thời những vấn đề trên. Hơn thế, đề tài người phụ nữ thời phong kiến đầy đau khổ,
chịu cảnh bất công của lễ giáo phong kiến lần đầu tiên được phản ánh một cách sâu
sắc và chân thực trong tác phẩm văn học viết qua những tác phẩm của Nguyễn Dữ(
không chỉ qua Chuyện Người con gái Nam Xương mà còn qua rất nhiều tác
phẩm khác trong tập Truyền kỳ mạn lục). Rõ ràng, với những vấn đề như thế, các
tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ đã thể hiện được sự quan tâm,
cập nhật đến những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại.
Trong hai giai đoạn văn học sau ( nửa sau thế kỉ 18 đến nửa đầu thế kỉ 19)
Đây là thời kì bão táp sôi động nhất của phong kiến Việt Nam. Chế độ
phong kiến khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ ,khởi
nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi.Nói một cách hình ảnh thì đây chính là thời kì mà
những ung nhọt già nua của xã hội phong kiến bắt đầu kịch phát. Xác định được
như vậy ta sẽ thấy hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn này đều mang âm hưởng
chung là chủ nghĩa nhân đạo: Trân trọng ngợi ca vẻ đẹp hình thể, tài năng, đức
hạnh của con người; lên án, tố cáo những thế lực phong kiến bạo tàn; đồng cảm
sâu sắc với những bi kịch của con người; đồng tình với những ước mơ ,khát vọng
chân chính của con người.
Tương tự như vậy ở giai đoạn nửa sau thế kỉ 19 đến hết thế kỉ 19 chúng ta
cũng tìm hiểu về thời đại lịch sử với những vấn đề xã hội, lịch sử nổi bật. Đối
chiếu giữa vấn đề trong tác phẩm với những vấn đề của thời đại nhằm đánh giá về
việc lựa chọn vấn đề của tác phẩm theo các tiêu chí : có thể hiện được vấn đề nổi
bật nhất của thời đại không ? Phản ánh vấn đề sâu sát và chân thực không?Tác giả

có đề cập đến bao quát, toàn diện các vấn đề của thời đại hay không?
3.Thứ ba: Từ vấn đề được xây dựng, tìm hiểu xem cách giải quyết các
vấn đề đó tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại lịch sử
không?
Chọn vấn đề phải đi đôi với việc giải quyết vấn đề, đây mới là bước
quan trọng nhất trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm văn học. Việc giải quyết
chủ đề của tác phẩm thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất quan niệm, tư tưởng suy nghĩ
của nhà văn với những vấn đề lịch sử, xã hội mà họ đã lựa chọn và phản ánh trong
các tác phẩm.
` Muốn đánh giá được cách giải quyết chủ đề ở mỗi tác phẩm, giáo viên
trước hết phải trang bị cho mình kiến thức lịch sử rất khoa học và đầy đủ. Giáo
viên không chỉ nắm được các sự kiện lịch sử từng thời đại, mà hơn thế, nếu muốn
đánh giá đúng chủ đề tác phẩm, phải có kiến thức lịch sử khoa học, thể hiện ở
những đánh giá, nhận định đúng đắn về giai đoạn lịch sử và đặc biệt là về tiến
trình phát triển tất yếu của lịch sử. Có được những kiến thức này mới có thể đánh
giá đúng những giá trị cũng như những hạn chế của tác phẩm thể hiện trong cách
giải quyết chủ đề tác phẩm. Thế nào là một cách giải quyết vấn đề hay? Theo Lí
luận văn học, một cách giải quyết vấn đề được đánh giá là hay phải đảm bảo các
yếu tố sau:
- Cách giải quyết độc đáo, sáng tạo, mang cá tính sáng tạo riêng của nhà văn.
- Cách giải quyết hợp lí, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xu thế lịch
sử tiến bộ.
- Cách giải quyết mang tính nhân đạo phù hợp với những giá trị nhân văn của
loài người .
Trong ba tiêu chí nêu trên, ta thấy ngay tiêu chí thứ hai gắn liền với giá
trị nội dung của tác phẩm trong mối quan hệ với toàn cảnh lịch sử xã hội, đặc biệt
là với xu thế phất triển của lịch sử. Đánh giá cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm
so với xu thế tiến bộ của lịch sử là một cách đánh giá đúng đắn và khoa học nhât,
nó hoàn toàn giúp loại bỏ cách đánh giá mang nhiều cảm tính, thiếu khách quan
của người dạy, người học. Và ngay cả ở trong tiêu chí thứ ba, tính nhân đạo, những

giá trị nhân văn cũng là những vấn đề mang đậm dấu ấn của lịch sử thời đại.
Nhìn chung trong các tác phẩm văn học, tư tưởng, quan niệm của nhà văn
thường được thể hiện rõ trong chủ đề của tác phẩm. Nhưng như phần trên đã nói,
không phải tác phẩm nào cũng có cách giải quyết vấn đề theo lối đưa ra những
mâu thuẫn, tình huống và giải quyết. Đó chỉ là cách giải quyết đặc trưng của văn tự
sự. Còn đa số tác phẩm thường chọn cách giải quyết vấn đề một cách trực tiếp
thông qua chủ đề tư tưởng, cảm xúc của tác phẩm, mà nói chính xác thì chính là
suy nghĩ, quan niệm của nhà văn.
Tương tự như thế, ta có thể thấy được tầm cao tư tưởng và giá trị nhân đạo rất
đáng khâm phục trong các tác phẩm viết về người phụ nữ của Hồ Xuân Hương. Rõ
ràng, quan niệm giải phóng người phụ nữ, đấu tranh cho những quyền cơ bản là
quyền được sống tự do, được mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ giữă lúc mà lễ
giáo phong kiến đang rất nặng nề là một tư tưởng rất táo bạo, dũng cảm và tiến bộ
của nhà thơ.
II. Nguyên tắc lịch sử trong đánh giá nghệ thuật của tác phẩm.
Trong phần trên, việc vận dụng nguyên tắc lịch sử trong đánh giá nội dung tác
phẩm, tư tưởng, quan niệm của tác giả, ta đều lấy căn cứ từ hoàn cảnh lịch sử xã
hội giai đoạn tác phẩm ra đời, trên cơ sở nghiên cứu tiến trình và qui luật phát triển
của lịch sử. Thế nhưng, nếu đem những căn cứ trên đây để đánh giá về những giá
trị về nghệ thuật của tác phẩm thì lại không được. Nghệ thuật xây dựng tác phẩm là
một vấn đề tuy vẫn có quan hệ với hoàn cảnh lịch sử nhưng chỉ là quan hệ gián
tiếp. Bởi lẽ, nghệ thuật là yếu tố thứ hai, sau nội dung, đóng vai trò là cái vỏ,là
phương tiện để diễn tả nội dung, nội dung phụ thuộc vào lịch sử, vào xã hội thì
đương nhiên cũng kéo theo sự biến đổi của nghệ thuật. Tuy nhiên văn học cũng có
những quy luật riêng, đặc điểm riêng đặc thù của một ngành nghệ thuật. Nó vẫn có
những biến đổi riêng không phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Có những thể koại,
những biện pháp nghệ thuật tồn tại suốt trong lịch sử văn học bất chấp những biến
cố của xã hội.
Nguyên tắc lịch sử xem xét cả hai mặt này, nghĩa là xem xét cả những biến
đổi về nghệ thuật do tác động của lịch sử xã hội, vừa xem xét những biến đổi nghệ

thuật từ sự phát triển của văn học.
Lí luận văn học đã khẳng định “ Nội dung tác phẩm chính là sự chuyển hoá
của hình thức và ngược lại hình thức tác phẩm chính là sự chuyển hoá của nội
dung”. Mặt khác chúng ta cũng thừa nhận văn học mỗi một giai đoạn, một thời kì
tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của tư
tương mĩ học của giai đoạn , thời kì đó. Văn học trung đại Việt Nam tồn tại và phát
triển trong hình thái trọn vẹn của xã hội phong kiến, tư tưởng mĩ học phong kiến
đã qui định những đặc điểm về nội dung , hình thức tác phẩm. Bởi thế khi vận
dụng nguyên tắc lịch sử vào tìm hiểu nghệ thuật tác phẩm cần lưu ý mấy vấn đề
sau:
1. Một số giá trị nghệ thuật - thành quả của sự tác động từ hoàn cảnh lịch sử:
Sự ra đời của dòng văn học viết dân tộc: Về thời điểm, hiện chưa có một
mốc thời gian cụ thể cho sự ra đời của dòng văn học Việt Nam ( như đã nói ở trên).
Nhưng tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Thời điểm đó phải được đánh giá
bằng sự kiện đất nước ta giành lại nền độc lập sau gần một thế kỉ bị nô lệ, bắt đầu
từ thế kỉ thứ X, mà vẫn chứng hùng hồn của nó là các tác phẩm của các học giả, tri
thức, nhà sư thời Ngô-Đinh -Tiền - Lê, đặc biệt là vào thời Lý. Bước tiến nghệ
thuật này cũng đi đôi với việc văn học giai đoạn đầu luôn đề cao, khẳng định chủ
quyền, độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước.
Sự xuất hiện của các thể loại văn học dân tộc trong bối cảnh nền độc lập dài
lâu và ý thức dân tộc ngày càng phát triển theo chiều sâu:
Ngay từ Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV, khi bước đầu sử dụng chữ Nôm vào sáng
tác thơ văn, đưa vào tác phẩm những sáng tạo mang tính dân tộc. Đó là việc ra đời
và phát triển của những câu thơ 6 chữ ( xen lẫn trong bài thơ thất ngôn Đường
luật ). Đây có thể coi là yếu tố ban đầu của ý thức dân tộc hoá trong thể loại sáng
tác thơ văn.
Càng về sau, ý thức này ngày càng được nâng cao khi hàng loạt các thể thơ
dân tộc được đưa vào sáng tác như: thể thơ lục bát truyền thống, thể nhất ngôn bát
cú, thể hát nói. Hơn thế còn xuất hiện các thể loại mới do sự kết hợp các thể loại
văn học dân tộc mà tiêu biểu là Truyên Nôm. Có thể kể ra đây các sáng tác tiêu

biểu, đánh dấu bước tiến quan trọng của nghệ thuật sáng tác trên con đường thoát li
dần ảnh hưởng của phương thức sáng tác vay mượn từ Trung Quốc:
- Về thơ lục bát: tiêu biểu nhất là tập Thiên Nam ngữ lục và thơ Nguyễn Du
- Thể thơ song thất lục bát: Chinh Phụ Ngâm ( Đoàn Thị Điểm ), Văn tế thập loại
chúng sinh ( Nguyễn Du).
- Thể hát nói: Tiêu biểu nhất là tác phẩm của Nguyễn Công Trứ.
- Thể truyện Nôm: Với nhiều tác phẩm như Thạch Sanh, Hoa tiên, Song linh bất
dạ (Khuyết danh), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu , đỉnh cao là Truyện
Kiều của Nguyễn Du.
2. Sự phát triển của nghệ thuật đặt trong xu thế phát triển của lịch sử văn
học dân tộc:
Có thể coi tất cả các thành tựu vừa kể trên đều thuộc những thành tựu của
nền văn học dân tộc trong tiến trình phát triển 10 thế kỉ của mình. Bên cạnh đó,
còn có thể kể ra đây một số tác phẩm, một số thành tựu được coi là bước tiến của
lịch sử văn học dân tộc xét trên góc độ nghệ thuật sáng tác .
Sự ra đời của thể loại truyện ngắn truyền kì với tác phẩm tiêu biểu “Truyền
kì mạn lục” của Nguyễn Dữ thế kỉ XVI. Đây là một tập truyện rất có giá trị không
chỉ về mặt nội dung mà về cả mặt nghệ thuật, nó đánh dấu bước tiến của văn học
dân tộc khi lần đầu tiên một nhà văn dùng thể văn xuôi chữ Hán sáng tác các
truyện ngắn truyền kì. Không chỉ coi đây chỉ là những ghi chép thuần tuý các câu
chuyện đã được lưu truyền mà ở đây, trong mỗi tác phẩm, sự sáng tác của tác giả
là rất lớn, rất quan trọng .
Sự xuất hiện của thể loại tiểu thuyết chương hồi với tác phẩm tiêu biểu
Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái đầu thế kỉ XIX .
Sự xuất hiện của các khúc ngâm, một thể loại độc đáo của văn học dân tộc,
với các tác phẩm tiểu biểu Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm.
Sự xuất hiện của các truyện thơ lục bát ( truyện nôm) với các tác phẩm
khuyết danh và có tác giả mà đỉnh cao là Truyện Kiều .
Chương III: VÍ DỤ MINH HỌA:
Áp dụng vào một số tác phẩm được dạy trong chương trình ta có thể thấy rất

rõ giá trị của tác phẩm khi dặt trong mối quan hệ với xu thế lịch sử của thời đại.
1. Ví dụ như ở "Chuyện Người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Vận dụng nguyên tắc lịch sử vào dạy tác phẩm ta có thể tiến hành dưới hình thức
những câu hỏi sau:
* Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào?
-Xã hội phong kiến Việt Nam đi vào thời kì thoái trào, tư tưởng phong
kiến không còn được tôn trọng, chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến xảy ra
liên miên, đời sống nhân dân cực khổ.
* Đề tài tác phẩm được xây dựng như thế nào? Nó có bám sát những sự kiện
lịch sử đương đại không ?
-Đề tài đựoc phản ánh dưới dạng gián tiếp: Mượn truyện nôm khuyết
danh để nói về hiện thực cuộc sống- thân phận của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến, một xã hội bất công gây nhiều đau khổ cho con người.
*Vấn đề mà tác phẩm đề cập có phải là vấn đề mang tính thời sự, nổi cộm
nhất của lịch sử đương đại không?
-Tác phẩm đã phản ánh kịp thời những vấn đề nổi cộm của xã hội lúc
đó:
+ Chiến tranh loạn lạc gây đau khổ cho con người
+ Lễ giáo phong kiến bất công, người đàn ông có nhiều quyền hành ruồng rẫy
người phụ nữ đẫn đến cái chết oan khuất.
*Cách giải quyết những vấn đề nêu trên của Nguyễn Dữ có phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại không?
- Nguyễn Dữ đã có cách giải quyết hợp lí, sáng tạo, tính nhân đạo: kết
thúc tác phẩm Vũ Nương trở về trong chiếc kiệu về giữa dòng sông lúc ân, lúc hiện
nhưng lại không để nàng quay trở về cuộc sống nơi trần gian, mặc dù trước đó, khi
Vũ Nương trò chuyện cùng Phan Lang, ông đã để cho Vũ Nương nói rõ quyết tâm
trở về để chăm sóc phần mộ cha mẹ chốn trần gian. Lối giải quyết này thể hiện rõ
cái nhìn vừa nhân đạo(chứng tỏ Vũ Nương còn sống- nỗi oan đã được giải), vừa
thể hiện rõ cái nhìn rất hiện thực, tố cáo sâu sắc hiện thực (lỗi lầm của Trương
Sinh, hậu quả của lễ giáo phong kiến hà khắc đã gây nên cái chết của Vũ Nương là

không thể tha thứ).
Tương tự như vậy khi vận dụng nguyên tắc lịch sử vào đánh giá nghệ thuật
tác phẩm học sinh có thể chỉ ra những nét độc đáo về nghệ thuật:
- Thể loại truyền kì- đánh dấu bước tiến của nền văn học dân tộc khi lần
đầu tiên nhà văn dùng thể văn xuôi chữ hán sáng tác truyện ngắn truyền kì.
-Nghệ thuật kể truyện sinh động, sáng tạo tình huống,kết hợp yếu tố
hiện thực và yếu tố hoang đường
2. Trong " Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh"- Phạm Đình Hổ.
*Tính lịch sử thể hiện trong đề tài tác phẩm là gì?
Tác giả đã phản ánh lối sống xa xỉ vô độ và hành vi nhũng nhiễu bạo ngược của
chúa Trịnh cùng các quan trong phủ.
* Đây có phải là vấn đề mang tính thời sự nổi cộm không?
- Cụ thể bức tranh đời sống được phản ánh qua những chi tiết nói về
việc xây đắp đền đài liên tục khắp nơi vô cùng tốn kém, các cuộc vui chơi cầu kì
với qui mô rầm rộ diễn ra thường xuyên, thói quen mặc sức thu nạp của quí hiếm
trong nhân gian của chúa và các hoạn quan. Ở đây vận dụng nguyên tắc lịch sử để
khai thác ta sẽ thấy nét chân thực về bức tranh đời sống được phản ánh qua những
chi tiết được ghi chép bằng những số liệu cụ thể, có mục đích rõ ràng theo thời
gian, không gian xác định, tên con người, địa danh xác thực. Các sự kiện được kể
tường tận, tỉ mỉ như mắt thấy tai nghe một cách trọn vẹn, có giá trị là những tư liệu
lịch sử quí giá.
3. "Hồi thứ 14- Hoàng Lê Nhất thống chí"- Ngô Gia văn phái.
* Bức tranh hiện thực cuộc sống được phản ánh qua đoạn trích này là gì ?
- Tác giả kể về cuộc hành quân ra Bắc lần thứ ba của Nguyễn Huệ đánh
đuổi hai mươi chín vạn quân Thanh. Vấn đề đặt ra trong đoạn trích là việc vua Lê
Chiêu Thống đưa quân Thanh vào nước ta, âm mưu đánh đuổi Tây Sơn.
* Cách giải quyết vấn đề của tác giả có phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử không?
-Với vấn đề này, các sử gia và nhà nho phong kiến bị đặt trước một tình
huống khó xử: theo ai và ủng hộ ai? Theo Lê Chiêu Thống và tán thành hành động

của ông ta? Hay theo Nguyễn Huệ, ủng hộ việc ông lên ngôi đánh giặc? Sự lựa
chọn này biểu hiện cho cuộc dấu tranh giữa hai quan niệm: quan niệm trung quân
mù quáng và quan niệm sáng suốt đặt quyền lợi dân tộc và nhân dân lên trên hết.
Trong trường hợp này, các tác giả của truyện đã chọn thái độ: ca ngợi Nguyễn Huệ
(về tài năng, tính cách, khí phách anh hùng), ban đầu là thông qua lời người cung
nhân, về sau, thái độ này bộc lộ trong cách miêu tả các hành động của ông. Họ (các
tác giả) vốn là những bề tôi thân thiết (hoặc có quan hệ gắn bó) với chế độ vua Lê-
chúa Trịnh, thế nhưng trong đoạn trích này, họ đã không hề có thái độ phản đối
hành động lên ngôi của Nguyễn Huệ (một hành động mà theo lễ giáo truyền thống
được coi là phản nghịch, tiếm quyền). Điều này thể hiện rất rõ trong cách xưng hô
khi tác giả của truyện gọi Nguyễn Huệ là vua Quang Trung suốt từ sau việc ông
lên ngôi vua, không hề có lối gọi tên tục thông thường, nó thể hiện rất rõ sự tôn
trọng của các nhà văn đối với ông. Đặt trong hoàn cảnh lịch sử khi đó, có thể đánh
giá cách giải quyết của các nhà văn với sự việc Nguyễn Huệ lên ngôi là rất sáng
suốt, rất tiến bộ, thuận theo quy luật phát triển của lịch sử.
* Bước tiến mới về nghệ thuật của tác phẩm ở đây là gì?
-Sự xuất hiện của tiểu thuyết chương hồi( thể chí), mặc dù có nguồn gốc
từ Trung Quốc và họ đã đạt được những thành công qua (Tam quốc chí,Thuỷ hử,
….) nhưng ở Việt Nam đến “ Hoàng Lê nhất thống chí” thể loại này mới xuất hiện
, đánh dấu bước phát triển của văn chương nước nhà.
4. Tương tự như trên, với Truyện Kiều của Nguyễn Du.
* Vấn đề được phản ánh trong tác phẩm là gì?
- Tác phẩm đã phản ánh cuộc đời đau khổ của Kiều. Kiều thuỷ chung,
hiếu thảo, tài đức vẹn toàn nhưng phải chịu sự chà đạp thô bạo,bị xúc phạm ghê
gớm, bị vùi dập thảm thương ….
* Vấn đề đó có mang tính thời sự không?
-Vấn đề về bi kịch của con người, ước mơ về tình yêu, hạnh phúc; ước
mơ về tự do công lí…Tất cả được đặt ra một cách ghê gớm, nói như Xuân Diệu
“vấn đề mà Nguyễn Du đặt ra trong tác phẩm như lửa châm nhà cháy ,như chuông
treo trên đầu sợi chỉ mảnh sắp đứt, như thòng lọng xiết vào cổ người.”

* Cách giải quyết vấn đề của tác giả có phù hợp với xu thế lịch sử không?
- Với việc lý giải cuộc đời đầy đau khổ của Thuý Kiều bên cạnh những
điểm tiến bộ thì Nguyễn Du không tránh khỏi những hạn chế đó là việc ông lí giải
nguyên nhân dẫn đến những đau khổ của Kiều là tại trời, tại số phận-“ Mới hay
muôn việc tại trời”. Hạn chế đó của ông có thể đánh giá là sự hạn chế về mặt tư
tưởng, hạn chế của thời đại.
Trên đây là một số vấn đề khi áp dụng nguyên tắc lịch sử vào việc đánh giá
cách lựa chọn vấn đề và giải quyết vấn đề của các tác giả văn học.
Chương IV: GIẢI PHÁP MỚI :
1- Văn học Trung đại ra đời cách đây nhiều thế kỷ các yếu tố về lịch sử, văn
hóa, quan niệm thẩm mỹ thời xưa và nay có nhiều sự khác biệt vì vậy khi tiếp cận
, đánh giá phân tích tác phẩm phải luôn gắn với bối cảnh ra đời của tác phẩm.
Giáo viên phải là người nắm chắc những yếu tố liên quan đến giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm vận dụng khéo léo các phương pháp, phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm.
2- Khai thác tác phẩm cụ thể, sâu sắc cả về phương diện nội dung và nghệ
thuật. Để làm được điều đó đòi hỏi người giáo viên trong giờ dạy phải vận dụng
tối ưu những phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp với từng kiểu bài.
3 -Thiết lập mối quan hệ biện chứng giữa ba chủ thể nhà văn- nhà giáo- học
sinh. Trong đó giáo viên là người chủ đạo tổ chức thiết kế các hoạt động học tập
của học sinh. Học sinh chủ động tích cực chiếm lĩnh tác phẩm trên cơ sở hướng
dẫn của thầy.Tác phẩm văn học luôn là đề án mở, do đó quá trình chiếm lĩnh tác
phẩm là quá trình vận động bên trong của bản thân chủ thể tiếp nhận, điều đó có
nghĩa là khi phân tích tác phẩm cả giáo viên và học sinh phải thực sự sống cùng
tác phẩm, vui cái vui cùng nhân vật, đau nỗi đau của nhân vật, những ước muốn,
những khát khao…
4 - Phân loại đối tượng học sinh ( giỏi, khá, trung bình) để lựa chọn mức độ
kiến thức cho phù hợp nhưng trên cơ sở phải đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng.
5 - Vận dụng nguyên tắc lịch sử trong phân tích, tìm hiểu tác phẩm cũng đồng
nghĩa với việc vân dụng nguyên tắc này khi kiểm tra đánh giá học sinh theo tinh

thần đổi mới về các mức độ chuẩn kiến thức ( nhận biết, thông hiểu, vận dụng
phân tích, đánh giá, sáng tạo), mức độ về kĩ năng( vận dụng được, vận dụng
thành thạo. sáng tạo).
6 - Xây dựng những chuyên đề về vấn đề văn học sử thời kì Trung đại đặc biệt
là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi để học sinh có điều kiện nắm chắc hơn
kiến thức về giai đoạn văn học này.
7- Khuyến khích học sinh sưu tầm và nghiên cứu tài liệu ,đặc biệt là kiến thức
phần văn học sử thuộc giai đoạn văn học Trung đại để các em chủ động nắm bắt
kiến thức mới.
8 Coi trọng kết quả kiểm tra đánh giá học sinh theo tinh thần đổi mới KTĐG
trên cơ sở bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng môn học, chú trọng kiến thức mở rộng
nâng cao đối với học sinh giỏi từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù
hợp và xây dựng kế hoạch cho nội dung phần kế tiếp.
9- Tích hợp với môn lịch sử trong quá trình giảng dạy ở mức độ phù hợp để học
sinh có điều kiện hiểu rộng,sâu về tác phẩm.
10- Sử dụng triệt để các phương tiện ,vận dụng linh hoạt các kĩ thuật day học
mới để tổ chức thiết kế các hoạt động học tập của học sinh phát huy tính chủ
động tích cực của người học.
11- Chú trọng rèn kĩ năng nghe- nói - đọc –viết cho học sinh.
12 - Tuy nhiên khi vận dụng nguyện tắc lịch sử trong việc khai thác tác phẩm
phải linh hoạt để không làm mất đi những nét đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn
chương, không biến tác phẩm thành một bài học lịch sử khô khan cứng nhắc. Phải
chú ý đến qui luật tiếp nhận văn chương, gọi ra được cái hồn vía của tác phẩm, tác
động sâu sắc đến nếp nghĩ,cách nhìn, tư tưởng tình cảm của người tiếp nhận… có
như vậy hiệu quả giáo dục mới đáp ứng được những yêu cầu đổi mới nội dung,
phương pháp, đổi mới kiểm tra đánh giá theo yêu cầu của ngành.
13- Qua nghiên cứu vận dụng nguyên tắc lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn
học Trung đại đúc rút cho tôi những bài học kinh nghiệm trong việc đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và văn học Trung đại
Việt Nam nói riêng. Giáo viên có thêm cách thức nghiên cứu tìm hiểu vấn đề văn

học từ đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân để không ngừng
nâng cao chất lượng dạy và học .
Khi khai thác chú ý vân dụng tối ưu phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
phù hợp đặc trưng bộ môn.
Xác lập mối quan hệ biện chứng giữa 3 chủ thể nhà văn- nhà giáo- học sinh.
Luôn coi tác phẩm văn học là một đề án mở để người dạy và người học cùng
chiếm lĩnh, khám phá tác phẩm.
Luôn có cái nhìn xuyên suốt toàn bộ tiến trình phát triển của văn học Trung đại
Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung để thấy được những điểm
chung, riêng, mối quan hệ kế thừa và phát triển của từng giai đoạn, từng thời kì để
có cái nhìn đầy đủ sâu sắc về diện mạo nền văn học nước nhà.

PHẦN III. KẾT LUẬN
Trên đây là một số vấn đề về việc áp dụng nguyên tắc lịch sử vào dạy các tác
phẩm văn học viết trung đại dạy trong chương trình THCS. Chuyên đề này không
đề cập đến những vấn đề thuộc vào phương pháp giảng dạy cụ thể, cũng không
phải là những vấn đề thuộc riêng về nội dung giảng dạy của chương trình văn học
trung đại THCS. Nguyên tắc lịch sử bản thân nó không phải là một phương pháp
dạy học văn cụ thể, giống như các phương pháp đọc sáng tạo, gợi mở, vấn đáp,
giảng bình hay nêu vấn đề. Nguyên tắc lịch sử đóng vai trò như một nguyên tắc
dạy học áp dụng trong việc nghiên cứu, phân tích hay dạy học văn nói chung. Có
nghĩa là, nó giống như một yêu cầu bắt buộc, một thước đo nhất thiết mỗi giáo
viên trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và giảng dạy văn học phải lấy đó làm cơ
sở đánh giá, xem xét tác phẩm, một tiêu chí bắt buộc với mỗi khi ta đánh giá tác
phẩm. Nói một cách ngắn gọn nó đúng là một “nguyên tắc” của việc dạy học văn
mà không thể không theo và không áp dụng.
Việc sử dụng nguyên tắc này rõ ràng không thể nói là cụ thể dùng khi nào,
bằng cách nào, thao tác ra sao. Bởi lẽ nó xuyên suốt quá trình giáo viên và học
sinh tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm từ bước chuẩn bị đến khâu lên lớp, giảng bài nó
thường trực trong suốt quá trình tiếp cận tác phẩm.Chỉ có thể nói nguyên tắc này

sẽ được thông qua sự phát huy, thông qua sự giảng bình của giáo viên, qua cách
nêu câu hỏi, đặt tình huống đối với học sinh.
Nguyên tắc này luôn đòi hỏi môi giáo viên phải nhớ đến nó như là một yêu
cầu, một tiêu chí trong phương pháp đánh giá tác phẩm văn học, vận dụng nó một
cách linh hoạt và hợp lí trong tiến trình bài giảng. Có như vậy mới hy vọng thu
hút được học sinh học văn và nâng cao được chất lượng chung.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tam Dương, ngày 28 tháng 2 năm 2014
Người viết

Nguyễn Thị Tú Nhật

×