ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
ĐỒNG THỊ THU HUYỀN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THỊ TRẤN SA PA
GIAI ĐOẠN 1991-2011
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Việt Nam Học
Hà Nội -2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
ĐỒNG THỊ THU HUYỀN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THỊ TRẤN SA PA
GIAI ĐOẠN 1991-2011
Luận văn Thạc sĩ Ngành: Việt Nam học
Mã số:60 22 01 13
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trƣơng Quang Hải
Hà Nội -2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
GS.TS. Trương Quang Hải, người đã dành nhiều thời gian quý báu tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Viện Việt Nam học và
khoa học phát triển – Đại học Quốc gia Hà Nội đã góp ý tạo điều kiện và giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời
cảm ơn chân thành đến Sở Văn hóa – Thể Thao – Du lịch tỉnh Lào Cai, phòng
Văn hóa – Thông tin Du lịch huyện Sa Pa, phòng Quản lý Đô thị huyện Sa Pa
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp
đỡ, động viên của bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên
Đồng Thị Thu Huyền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Phát triển kinh tế - xã hội thị trấn Sa Pa giai
đoạn 1991 – 2011” và toàn bộ nội dung luận văn không phải là sự sao chép
bất cứ một công trình khoa học hay luận văn nào đã được công bố trong và
ngoài nước. Các tài liệu sử dụng tham khảo đã được trích dẫn nguồn đầy đủ
và chính xác.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đồng Thị Thu Huyền
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. ĐTH
: Đô thị hóa
2. KT – XH
: Kinh tế - Xã hội
3. TT
: Thị trấn
4. GDP
: Tổng sản phẩm quốc dân
5. UBND
: Ủy ban nhân dân
6. CNH
: Công nghiệp hóa
7. HĐH
: Hiện đại hóa
8. VH - TT
: Văn hóa – Thông tin
9. HĐND
: Hội đồng nhân dân
10. CN - XD
: Công nghiệp – xây dựng
11. NN
: Nông nghiệp
12. CN
: Công nghiệp
13. DV
: Dịch vụ
14. TNDL
: Tài nguyên du lịch
15. TTTM
: Trung tâm thương mại
16. VQG
: Vườn quốc gia
17. NLN
: Nông lâm nghiệp
18. TNBQ
: Thu nhập bình quân
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1.Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 9
6. Bố cục luận văn 12
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
VÀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRẤN SA PA 14
1.1. Một số vấn đề lý luận về phát triển đô thị 14
1.1.1. Đô thị 14
1.1.2. Đô thị hóa 19
1.2. Khái quát về thị trấn Sa Pa 26
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 26
1.2.2. Lịch sử hình thành và đặc điểm dân cư của đô thị Sa Pa 32
1.2.3. Hệ thống chính sách phát triển, quy hoạch và quản lý đô thị 36
Tiểu kết chƣơng 37
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI THỊ TRẤNSA PA
GIAI ĐOẠN 1991 – 2011 38
2.1. Thực trạng phát triển kinh tế thị trấn Sa Pa 38
2.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 38
2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đô thị Sa Pa 42
2.1.3. Hiện trạng phát triển ngành dịch vụ - du lịch 43
2.2. Sự chuyển biến về xã hội thị trấn Sa Pa 50
2.2.1. Đặc điểm dân cư, lao động 50
2.2.2. Mức sống dân cư 59
2.2.3. Hệ thống nhà ở đô thị 61
2.2.4. Đặc điểm văn hóa 63
2
2.2.5. Hệ thống giáo dục 65
2.2.6. Đặc điểm y tế và sức khỏe cộng đồng 67
Tiểu kết chƣơng 72
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THỊ
TRẤN SA PA ĐẾN NĂM 2020. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT 73
3.1. Định hƣớng phát triển KT - XH thị trấn Sa Pa đến năm 2020 73
3.1.1. Những căn cứ định hướng phát triển kinh tế - xã hội TT Sa Pa 73
3.1.2. Định hướng phát triển KT – XH thị trấn Sa Pa đến năm 2020 73
3.2. Một số giải pháp và đề xuất thực hiện định hƣớng phát triển đô thị
Sa Pa đến năm 2020. 86
3.2.1. Một số giải pháp thực hiện định hướng phát triển đô thị Sa Pa 86
3.2.2. Một số đề xuất về đô thị hóa ở Sa Pa 91
Tiểu kết chƣơng 94
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đô thị hóa (ĐTH) đang là một xu thế phát
triển mang tính toàn cầu, một xu thế tất yếu của thời đại. Nó diễn ra ở tất cả
các nước trên thế giới và Châu Á đang là khu vực có tốc độ đô thị hóa diễn ra
nhanh và mạnh mẽ nhất. Quá trình này đã tạo ra mối quan hệ tích cực giữa đô
thị hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Mối quan hệ đó được thể hiện bởi các
yếu tố như công nghiệp hóa, thương mại hóa, tăng năng suất, tạo nhiều việc
làm và cải thiện sự tiếp cận đối với những yếu tố khác nhau về sản xuất, thị
trường, những cơ sở hạ tầng và các tiện nghi khác. Như vậy, đô thị hóa dẫn
đến tăng thu nhập, thay đổi cách sống, đem lại chất lượng cao về dịch vụ và
cũng phù hợp với dân số ngày càng tăng lên tại các đô thị.
Đối với Việt Nam, bắt đầu từ đại hội Đảng VI với chủ trương mở cửa
tiến hành đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trườngđã tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của quá trình ĐTH. ĐTH góp phần
vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tỉ lệ dân thành thị tăng cao, cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư xây dựng hiện đại, các khu công
nghiệp, khu chế xuất được xây dựng góp phần tạo ra việc làm cho hàng triệu
dân lao động ở thành thị và nông thôn. ĐTH cũng thúc đẩy quá trình hội nhập
các nền văn hóa lớn, đồng thời góp phần làm cải thiện đời sống của người
dân, đưa đất nước phát triển hòa chung với nền kinh tế thế giới.
Hòa chung với xu thế phát triển đó, thị trấn Sa Pa cũng không phải là
trường hợp ngoại lệ. Sa Pa là một trong số ít đô thị của tỉnh Lào Cai có lịch sử
hình thành và phát triển gắn liền với sự khai phá của thực dân Pháp. Trong
khi các đô thị khác Phố Lu, Phố Ràng, Khánh Yên, Mường Khương đều chỉ
phát triển đơn thuần là đô thị - trung tâm trao đổi hàng hóa của một huyện, thì
Sa Pavới những lợi thế về vị trí, cảnh quan, dân tộc đã phát triển thành đô thị
4
du lịch rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi đây cũng chính là đại
diện cho kiểu đô thị du lịch miền núi điển hình có nguồn gốc gắn liền với hoạt
động du lịch.Với bề dày hơn 100 năm (1903 - 2014) là trung tâm hành chính,
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịchcủa huyện lỵ Sa Pa, đô thị du lịch Sa
Pa như một điểm nhấn trong bức tranh kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên, cho đến giai đoạn hiện nay mặc dù đã có lịch sử phát triển
khá lâu đời nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về không gian
đô thị Sa Pa một cách hệ thống, đầy đủ. Đặc biệt là trong giai đoạn từ năm
1991 - 2011 khi mà diệm mạo thị trấn Sa Pa đã có những bước phát triển vượt
bậc về các mặt kinh tế, xã hội thì việc nghiên cứu bức tranh đô thị Sa Pa trong
giai đoạn này là vô cùng cấp thiết. Hơn nữa, theo lộ trình phát triển đến năm
2015 thị trấn du lịch Sa Pa sẽ phát triển thành thị xã du lịch Sa Pa. Chính vì
vậy, nên rất cần thiết phải đánh giá lại quá trình phát triển trong giai đoạn từ
năm 1991 – 2011 để có cái nhìn khái quát và nhận ra điểm mạnh, điểm yếu để
làm bài học cho sự phát triển sau này. Do đó, tôi lựa chọn đề tài luận văn thạc
sỹ: “Phát triển kinh tế - xã hội thị trấn Sa Pa giai đoạn 1991 - 2011”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu các đặc điểm và sự chuyển biến về kinh tế - xã
hội của thị trấn Sa Pa trong giai đoạn 1991 – 2011, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm phát triển bền vững TT Sa Pa.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu bối cảnh hình thành, các giai đoạn phát triển TT SaPa;
- Nghiên cứu thực trạng và chuyển biến về kinh tế, xã hội giai đoạn
1991 - 2011
- Đánh giá tốc độ ĐTH của TT Sa Pa về các chỉ tiêu KT - XH
5
- Định hướng và giải pháp phát triển đô thị du lịch Sa Pa đến năm 2020
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Quá trình ĐTH xảy ra cách đây khoảng hơn 5000 năm, nhưng mãi đến
đầu thế kỷ XX, con người mới nhận thức được tầm quan trọng và bắt đầu tập
trung nghiên cứu ĐTH. Thuật ngữ “đô thị hóa” đã ra đời từ năm 1867, trong
tác phẩm “Lý luận chung về đô thị hóa ” của tác giả CERDA (Tây Ban Nha).
Nhưng tác phẩm này bị quên lãng đến năm 1967 được phát hiện lại. Vào
những năm 20 của thế kỷ XX, cụm từ “đô thị hóa” xuất hiện ở các tạp chí
chuyên ngành về địa lý kinh tế, dần phổ biến sang các lĩnh vực khác. Và ngày
càng có nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, kiến
trúc…quan tâm đến vấn đề ĐTH [2].
Liên Xô (cũ) là đất nước có nhiều chuyên gia đô thị nổi tiếng như:
Baranxki, N.I.Yu.G.Xauskin, V.G.Đaviđôvits, G.M.Lappo, V.M.Gokhman
Các nghiên cứu về đô thị và ĐTH được quan tâm chủ yếu về các lĩnh vực: cấu
trúc lãnh thổ nội tại các thành phố, các chùm đô thị, sự phát triển của thành
phố vệ tinh, quy hoạch các thành phố và các vùng đô thị, điều khiển quá trình
ĐTH [20].
Tại phương Tây, các nghiên cứu thường chi tiết và có tính thực tiễn
cao. Ý nghĩa nhất là Walter Chiristaller và Liôsơ với lý thuyết “vị trí trung
tâm”, ảnh hưởng sâu rộng đến các phân tích không gian trong địa lý thành
phố và lĩnh vực xã hội đô thị học. Tại Pháp, đi sâu nghiên cứu về địa lý nhân
văn. Tại Tây Âu và Bắc Mỹ, từ những năm 1920 chuyên ngành “xã hội học
đô thị” được hình thành và phát triển nhanh chóng. Năm 1916, R.Park xuất
bản chuyên đề “Thành thị”.Năm 1938, L.Writh xuất bản cuốn “Đặc trưng đô
thị như là một lối sống”. Năm 1953, hội nghị quốc tế đô thị đầu tiên tổ chức
6
tại Mỹ với sự tham gia của các chuyên gia hang đầu về ĐTH từ các nước
Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Sau đó hình thành nên trường phái “Chicago”
phát triển mạnh đến năm 1970, cha đẻ của trường phái này là Robet Park.
Năm 1985. Harold Carter xuất bản cuốn “Nghiên cứu địa lý đô thị”. Gần đây,
một số học giả người Anh đã đề cập nhiều đến đặc điểm đa dạng phức tạp và
những xu hướng mới về ĐTH trong những giai đoạn lịch sử và địa lý khác
nhau của các khu vực và trên thế giới như: tác giả Brian J.L.Berry, 1976, cuốn
“Urbanization and Counter Urbanization”; tác giả David Drakakis – Smith,
2000 với cuốn “Third world Cities”; tác giả Michael Pacione, 2002 với
“Urban Geography” [20].
3.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ĐTH được nghiên cứu muộn hơn, chủ yếu từ những năm
1990, dưới nhiều góc độ khác nhau về cả lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, khái niệm đô thị hóa được tác giả Đàm Trung Phường,
1995, phân tích tập trung trong cuốn “Đô thị Việt Nam”; tác giả Mạc Đường,
2002 trong cuốn “Đô thị học và vấn đề đô thị hóa”; tác giả Trương Quang
Thao, 2003 trong cuốn “Đô thị học nhập môn” và “Đô thị học – Những khái
niệm mở đầu”. Về lịch sử phát triển đô thị có nghiên cứu của tác giả Đặng
Thái Hoàng, Nguyễn Quốc Thông [ ].Các vấn đề xã hội trong đô thị được
nhiều tác giả quan tâm nhất, trong đó có Đỗ Hậu và Trần Hùng (Đại học Kiến
trúc Hà Nội), Trần Cao Sơn, Trịnh Duy Luân (Viện khoa học xã hội).Dưới
góc độ quản lý đô thị có các nghiên cứu của Nguyễn Đình Hương (Đại học
kinh tế Quốc dân), Trần Văn Tấn (Đại học kiến trúc Hà Nội).Về quy hoạch
cải tạo, xây dựng và phát triển đô thị có tác giả Nguyễn Thế Bá (Hội quy
hoạch đô thị) [21] [23].
Về thực tiễn, chuyên gia đi đầu trong nghiên cứu ĐTH của nước ta là
tác giả Đàm Trung Phương, 2005 với cuốn “Đô thị Việt Nam”, tác giả đã đưa
7
ra một bức tranh ở tầm vĩ mô về thực trạng mạng lưới đô thị Việt Nam, cũng
như định hướng phát triển đô thị nước ta trong bối cảnh ĐTH đang diễn ra
trong khu vực và trên thế giới. Trong các nghiên cứu địa phương, lần đầu tiên
ĐTH được đề cập đến trong đề tài luận án “Phân tích dưới góc độ Địa lý kinh
tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội trong quá trình đô
thị hóa”, 1992, của tác giả Đỗ Thị Minh Đức. Luận án có ý nghĩa lớn về mặt
thực tiễn là tìm ra đặc điểm và xu hướng ĐTH của thủ đô Hà Nội trong quá
trình chuyển hóa vùng nông thôn thành đô thị. Đề tài luận án tiến sĩ: “Tác
động của những biến động kinh tế - xã hội đến sự phát triển đô thị ở thị xã
Lạng Sơn”, 2002, của tác giả Hoàng Phúc Lâm [21, 5].
Ngoài ra, ngày càng có nhiều cuộc hội thảo, diễn đàn đô thị, các bài
báo bàn về đô thị như: Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển đô thị và xã hội
bền vững – trách nhiệm của giáo dục, nghiên cứu và quản lý”, tại TP Hồ Chí
Minh, tháng 3/1999. Diễn đàn đô thị Việt Nam được thành lập vào ngày
22/10/2003 nhằm đúc kết, truyền đạt những kinh nghiệm trong công tác xây
dựng và phát triển đô thị ở Việt Nam.
3.3. Những nghiên cứu về thị trấn Sa Pa
Đô thị Sa Pa được ra đời từ cuối thế kỷ XX, gắn liền với sự khai phá và
phát triển của thực dân Pháp. Đây là vùng đất có nhiều giá trị về văn hóa tộc
người đại diện của vùng núi Tây Bắc nên được rất nhiều các nhà văn hóa và
dân tộc học quan tâm nghiên cứu. Sớm nhất là các tác phẩm từ cuối thế kỷ
XX đó là: Sa Pa (1994) Nguyễn Trọng Khang chủ biên, Nxb Văn hóa dân
tộc, nội dung nghiên cứu chủ yếu của cuốn sách đề cập đến đời sống văn hóa
của các tộc người sinh sống tại Sa Pa. Tiếp đó là tác phẩm: Lễ hội cổ truyền
Lào Cai (1999), Trần Hữu Sơn, NXB Văn hóa dân tộc. Cuốn sách ghi lại các
lễ hội của các dân tộc sinh sống tại vùng đất Lào Cai, trong đó chủ yếu là các
dân tộc sinh sống trên vùng đất Sa Pa. Sau này, đến đầu thế kỷ XXI, là những
8
tác phẩm, ấn phẩm ảnh giới thiệu về du lịch Sa Pa, trong đó nổi tiếng là cuốn:
Có một Sa Pa ở Việt Nam(2008), Đặng Đình Chấn, Trần Miêu, Trần Anh
Tuấn, NXB Văn hóa thông tin.
Vấn đề phát triển đô thị và ĐTH ở Sa Pa bắt đầu được đề cập vào năm
1991 trong các văn kiện Đại hội Đảng bộ của huyện và tỉnh Lào Cai. Vào thời
điểm đó, tỉnh Lào Cai được tái lập tách khỏi tỉnh Hoàng Liên Sơn và mới bắt
đầu đầu tư phát triển thị trấn Sa Pa thành đô thị du lịch như hiện nay. Đến
năm 2003, nhân sự kiện “100 năm Sa Pa”, ủy ban nhân dân huyện Sa Pa phối
hợp với vùng Aquitaine của Cộng hòa Pháp tiến hành nghiên cứu, quy hoạch
đô thị Sa Pa và cho ra đời 4 tập “Quy chế đô thị Sa Pa” nhằm xây dựng thị
trấn Sa Pa thành đô thị du lịch điển hình của miền Bắc Việt Nam.
Như vậy, qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên cho thấy, số
lượng nghiên cứu về ĐTH ngày càng nhiều và nội dung rất đa dạng về nhiều
lĩnh vực khác nhau của quá trình ĐTH. Các tác giả không chỉ là học giả về
kiến trúc, địa lý, xây dựng, quy hoạch mà còn có cả các nhà sử học, xã hội
học. Tuy nhiên, đối với đô thị Sa Pa mặc dù đã có những bước phát triển vượt
bậc với nhiều thành tựu trong giai đoạn 1991 – 2011 nhưng lại chưa có những
nghiên cứu đánh giá để có những định hướng phát triển trong giai đoạn tiếp
theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: kinh tế và xã hội, văn hóa TT Sa Pa
- Phạm vi nội dung: Thực trạng phát triển kinh tế xã hội TT Sa Pa
- Phạm vi thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2011 (trong 20 năm tính từ khi
tỉnh Lào Cai tái lập)
- Không gian: thị trấn Sa Pa
9
5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Tổng hợp nghiên cứu lý thuyết
Thông qua các tài liệu nghiên cứu về đô thị, đô thị hóa để có thêm kiến
thức rộng và sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu, làm rõ hơn đề tài nghiên cứu
của mình.Đồng thời nắm được phương pháp của các nghiên cứu đã thực hiện
trước đây.Qua đó có phương pháp luận hay luận cứ chặt chẽ hơn để nghiên
cứu hoàn thành đề tài.
Các nguồn tài liệu nghiên cứu bao gồm:
- Sách, giáo trình
- Báo, tạp chí chuyên ngành và các báo và tạp chí có nội dung liên quan
- Các công trình khoa học như báo cáo, luận văn
- Báo cáo của chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý nhà nước
về đô thị hóa
- Các thông tin, bài báo trên internet
5.2. Quan điểm nghiên cứu
5.2.1. Quan điểm khu vực học
Đứng trước xu thế phát triển của thời đại, phương pháp nghiên cứu khu
vực học đang là một xu thế phát triển tất yếu áp dụng đối với nhiều ngành
khoa học, nhất là đối với ngành Việt Nam học.
Thông qua phạm vi nghiên cứu về một giới hạn lãnh thổ cụ thể là TT
Sa Pa dưới góc độ nghiên cứu chính là: kinh tế, xã hội để làm nổi bật nên đặc
điểm phát triển của TT trong giai đoạn 1991-2011.
10
5.2.2. Quan điểm nghiên cứu liên ngành
Vận dụng kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: địa lý, lịch sử,
kinh tế, du lịch, văn hóa, giáo dục từ đó đánh giá quá trình phát triển của TT
Sa Pa.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.3.1. Điều tra xã hội học
Phương pháp điều tra xã hội học được thực hiện thông qua một số hình
thức: phương pháp quan sát, phương pháp bảng hỏi.
* Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được thực hiện thông qua các đợt khảo sát thực
địa. Phương pháp quan sát bao gồm hai hình thức là quan sát tham dự và quan
sát không tham dự.
Quan sát tham dự là người quan sát trực tiếp tham gia vào các hoạt
động sinh hoạt văn hóa, xã hội với người dân ở thị trấn Sa Pa. Sau đó đưa ra
những nhận xét chung về đối tượng nghiên cứu
Quan sát không tham dự là người quan sát không trực tiếp tham gia vào
đối tượng nghiên cứu, chỉ quan sát hiện trạng, biểu hiện của đối tượng nghiên
cứu để từ đó đưa ra những nhận xét định tính.
* Phương pháp bảng hỏi
Phương pháp bảng hỏi nhằm thu thập số liệu sơ cấp.
Bảng hỏi được thiết kế thành 3 loại:
- Bảng hỏi dành cho hộ gia đình tại thị trấn Sa Pa có độ tuổi từ 25 – 35
tuổi gồm 220 phiếu nhằm điều tra: Đời sống của người dân trong khoảng từ
năm 1991 đến nay và mong muốn của họ trước sự phát triển của thị trấn. Chia
thành 03 nhóm hộ điều tra:
11
Nhóm hộ 1: Thuộc tổ dân cư 7A, 7B, 7C với tổng số hộ dân là 268 hộ,
đây là vùng dân cư thuộc trung tâm của thị trấn Sa Pa (phần lõi). Tiến hành
điều tra 105 hộ với số phiếu điều tra phát ra 105. Tổng số phiếu thu về là 105
phiếu, trong đó có 03 phiếu không hợp lệ; số phiếu hợp lệ là 102.
Nhóm hộ 2: Thuộc tổ dân cư 4A, 4B với tổng số hộ dân là 141 hộ, đây
là vùng dân cư thuộc phần đệm của thị trấn Sa Pa, là nơi có hộ dân cư đến
sớm nhất. Tiến hành điều tra 60 hộ dân cư với số phiếu phát ra là 60 hộ. Tổng
số phiếu thu về là 60 phiếu, trong đó có 05 phiếu không hợp lệ; số phiếu hợp
lệ là 55.
Nhóm hộ 3: Thuộc tổ dân cư 1 với tổng số hộ dân là 125 hộ, đây là
vùng dân cư thuộc phần ngoại vi của thị trấn Sa Pa, là nơi có đời sống chủ
yếu dựa vào nông nghiệp. Tiến hành điều tra 55 hộ dân cư với số phiếu phát
ra là 55 hộ. Tổng số phiếu thu về là 55 phiếu, trong đó có 02 phiếu không hợp
lệ; số phiếu hợp lệ là 53.
- Bảng hỏi phỏng vấn sâu dành cho gia đình kinh doanh dịch vụ du lịch
tại thị trấn Sa Panhằm điều tra: thời gian bắt đầu kinh doanh dịch vụ du lịch;
thu nhập từ nghề; những thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh;
mong muốn, kiến nghị của các hộ gia đình đối với sự phát triển kinh tế theo
hướng kinh doanh dịch vụ du lịch.
Bảng hỏi được sử dụng điều tra 10 hộ gia đình tại tổ dân cư số 7A, tổ
4A.
- Bảng hỏi phỏng vấn sâu dành cho cán bộ lãnh đạo ủy ban nhân dân
thị trấn Sa Pa nhằm điều tra: quá trình phát triển của thị trấn Sa Pa trong giai
đoạn từ năm 1991 – 2011; chủ trương và các chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế - xã hội của nhà nước đối với người dân; mối quan hệ giữa chính quyền với
dân cư địa phương.
12
Để hoàn thành số lượng và có kết quả của các bảng hỏi người viết thực
hiện phương pháp phỏng vẫn từng hộ gia đình, phỏng vấn sâu lãnh đạo thị
trấn. Kết quả điều tra dùng làm căn cứ cho việc nghiên cứu tại chương 1 và
chương 2.
5.3.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích và tổng hợp là việc lựa chọn và sắp xếp các dữ
liệu, thông tin từ các nguồn thứ cấp và sơ cấp nhằm định lượng chính xác và
đầy đủ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.Từ đó, tổng hợp thành các nhận
định, báo cáo hoàn chỉnh nhằm đưa ra một cái nhìn tổng thể về đối tượng
nghiên cứu.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm ba chương với nội dung chính như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về đô thị hóa và khái quát chung về
thị trấn Sa Pa
Chương này đề cập đến những cơ sở lý luận chung về đô thị và đô thị
hóa;phát triển đô thị bền vững. Đồng thời, nêu những nét khái quát về vị trí
địa lý, đặc điểm dân cư, cấu trúc không gian gian của thị trấn Sa Pa; Khái
quát sự phát triển của thị trấn Sa Pa từ khi hình thành cho đến nay. Qua đó có
cái nhìn khái quát về sự phát triển của thị trấn Sa Pa trong những giai đoạn
trước để lấy đó làm cơ sở so sánh với giai đoạn phát triển sau này.
Chƣơng 2: Thực trạngkinh tế - xã hội thị trấn Sa Pa giai đoạn 1991-2011
Chương này đi nghiên cứu về đặc điểm và sự chuyển biến về mặt kinh j
tế - xã hội của thị trấn Sa Pa trong giai đoạn 1991 - 2011. Đây là giai đoạn Sa
Pa có quá trình ĐTH diễn ra mạnh nhất và có sự chuyển biến rõ nét nhất. Kết
13
quả nghiên cứu của chương này sẽ là cơ sở để đánh giá sự tác động của quá
trình ĐTH tới kinh tế - xã hội của thị trấn ra sao, có ảnh hưởng như thế nào?
Chƣơng 3: Định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội thị trấn Sa Pa đến năm
2020. Một số giải pháp và đề xuất
Trên cơ sở phân tích về những chuyển biến KT-XH sẽ đưa ra những
định hướng phát triển TT Sa Pa đến năm 2020, từ đó đưa ra những giải pháp
và đề xuất phát triển.
14
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
VÀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRẤN SA PA
1.1. Một số vấn đề lý luận về phát triển đô thị
1.1.1. Đô thị
1.1.1.1. Định nghĩa
Đô thị: Ngôn ngữ Latin dùng từ “urbs” để chỉ đô thị, tiếng Anh là
“urban”. Trong tiếng Việt hiện đại có các từ chỉ đô thị: thị tứ, thị trấn, thị xã,
thành phố, thành thị. Các từ song lập nói trên gồm: “thành, đô, trấn” và “thị,
phố, phường” nhấn mạnh về ý nghĩa hành chính, quân sự (đô) và kinh tế - xã
hội (thị). Hai nhóm yếu tố tạo nên thị trên có mối quan hệ đặc biệt, tương tác,
hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong sự tồn tại và phát triển của đô thị. Sự cộng
sinh (đô + thị) chưa thể trở thành đô thị, mà cần những yếu tố bổ sung khác
mới đưa đến sự hình thành đô thị theo đúng nghĩa [2].
Thực tế trên thế giới, mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau về
đô thị. Ví dụ như ở Brazil, chỉ có thủ đô mới là đô thị; ở Thụy Sỹ, chỉ những
khu vực hoặc là có 10.000 dân hoặc đã được trao thể chế thành phốthời trung
cổ mới được gọi là thành phố; ở Hoa Kỳ, thành phố là thuật ngữ để chỉ một
khu định cư có mức độ tự quản cao hơn là có ý nghĩa chỉ một khu vực định cư
rộng lớn, các khu định cư sẽ trở thành thành phố hay thị trấn sau khi cư dân
của khu định cư này bỏ phiếu để tổ chức khu tự quản cho riêng mình, quy mô
dân số tối thiểu của một thành phố là 50.000 người [2] [20].
Ở Việt Nam, khái niệm đô thị có sự thay đổi theo thời gian. Thông tư
liên tịch số 02/2002-TTLT-BXD-TCCBCP hướng dẫn về phân loại đô thị và
cấp quản lý đô thị nêu rõ: “Đô thị là một khu dân cư tập trung có đủ hai điều
kiện: về cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định thành lập; về trình độ phát triển, đô thị là
15
trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển KT –
XH của một vùng lãnh thổ, tỷ lệ lao động của khu vực nội thành, nội thị xã,
thị trấn tối thiểu đạt 65% tổng số lao động, cở sở hạ tầng tối thiểu đạt 70%
mức quy chuẩn xây dựng, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân
số tối thiểu 2000 người/km
2
”. Thông tư số 34/2009 TT-BXD quy định chi tiết
một số nội dung của Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ về Phân loại
đô thị đã định nghĩa: “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ
cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm
chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy
sự phát triển KT – XH của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương,
bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị
trấn” [21].
Đô thị vệ tinh là đô thị có hệ thống quản lý riêng, độc lập về hành
chính, nhưng nằm trong cơ cấu của một thành phố lớn, chịu sự định hướng
chiến lược , điều tiết của trung tâm đô thị [1]. Khu đô thị mới là những đô thị
được xây dựng trên những khu đất trước đó chưa có đô thị nào và phương
pháp xây dựng, quy hoạch cũng như ý niệm đô thị học của chúng đều mới [2].
Đô thị sinh thái là đô thị phát triển hài hòa với tự nhiên, dựa vào tự nhiên và
được tự nhiên chấp nhận như là một thành phần hữu cơ của tổng thể, nghĩa là
đạt được sự cân bằng động của hệ sinh thái đô thị [21]. Mạng lưới đô thị là
một hệ thống đô thị liên kết với nhau thông qua cơ sở hạ tầng. Mạng lưới đô
thị được coi là một hệ thống bởi chúng bao gồm nhiều các cấp khác nhau,
giữa các cấp trong một mạng lưới đô thị có quan hệ đặc biệt với nhau. Đô thị
bền vững là đô thị đảm bảo cân bằng được mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa
kinh tế đô thị; văn hóa xã hội đô thị, môi trường sinh thái đô thị; cơ sở hạ tầng
đô thị và quản lý đô thị. Một đô thị bền vững phải bảo đảm được các tiêu chí:
quản lý tốt, tài chính lành mạnh, cạnh tranh tốt và điều kiện sống tốt [23].
16
1.1.1.2. Lãnh thổ đô thị
Nghị định 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 về phân loại đô thị của
Chính phủ quy định: “đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập” và nêu rõ: Thành phố được
chia thành nội thành phố và ngoại thành phố. Thị xã được chia thành nội thị
xã và ngoại thị xã. Đối với thành phố trực thuộc Trung ương, khu vực nội
thành được chia thành quận và quận chia thành phường; khu vực ngoại thành
được chia thành thị xã và huyện, huyện được chia thành xã, thị trấn. Thị trấn
không có vùng ngoại thị trấn [21].
Ngoài ra, nước ta còn có “thị tứ”. Thị tứ chưa phải là điểm dân cư đô
thị, nhưng là trung tâm của xã hoặc liên xã, tập trung nhiều công trình mang
tính đô thị, là mầm mống của các điểm dân cư đô thị theo hướng ĐTH nông
thôn [21] [23].
1.1.1.3. Cấu trúc của đô thị
Đô thị được coi như là một hệ điều khiển mở, luôn biến đổi theo thời
gian và không gian, do vậy không thể có một mô hình cấu trúc đô thị chuẩn.
Tuy nhiên, có thể phân biệt ba bộ phận cấu trúc nên một thể thống nhất của đô
thị là:
- Phần cấu trúc cứng: Luôn đi với mạng lưới hạ tầng kỹ thuật cứng chủ
đạo và các bộ phận thiên nhiên phải bảo tồn.
- Phần cấu trúc mềm: Đi với mạng lười hạ tầng xã hội cơ động, có khả
năng chuyển thể theo mức sống, nếp sống của xã hội và tâm lý con người
cùng với các bộ phận của thiên nhiên được phép tác động tôn tạo.
- Phần cấu trúc điều hòa: Đi với các dạng tổ chức hoạt động phát triển
của cộng đồng gắn kết hai phần “cấu trúc cứng” và “cấu trúc mềm” trong
17
từng thời gian và không gian cụ thể, trong đó bao gồm cả chính sách quản lý,
những ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật [5].
1.1.1.4. Phân loại đô thị
Trên thế giới có rất nhiều cách phân loại đô thị khác nhau: Theo qui mô
dân số, có đô thị nhỏ, đô thị trung bình, đô thị lớn, siêu đô thị. Theo chức
năng, có đô thị công nghiệp, đô thị hành chính, đô thị cảng v.v… Mỗi quốc
gia có quy định riêng về tiêu chuẩn, tiêu chí trong một cách phân loại đô thị.
Chẳng hạn về quy mô dân số, nhiều quốc gia quy định: đô thị nhỏ có quy mô
dân số từ 5.000 – 10.000 người; đô thị trung bình là 11.000 – 20 vạn người;
đô thị lớn là 21 vạn – 50 vạ người; đô thị cực lớn là 51 vạn – 10 triệu người
và siêu đô thị trên 10 vạn người. Ở Việt Nam, quy định quy mô dân sô của đô
thị nhỏ là 4.000 – 3 vạn người; đô thị trung bình 3 vạn – 35 vạn người, đô thị
lớn từ 35 vạn – 1 triệu người và đô thị rất lớn có trên 1 triệu người [20] [19].
Nhìn chung mỗi cách phân loại đô thị đều có nhưng ưu nhược điểm
riêng. Hầu hết các quốc gia đều đưa ra các hệ thống phân bậc đô thị một cách
tổng hợp. Theo đó, trọng Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày 07/05/2009 của
Chính phủ chia hệ thống đô thị nước ta thành 6 loại:
- Đô thị loại đặc biệt, có chức năng đô thị là Thủ đô hoặc đô thị có chức
năng là trung tâm kinh tế, tài chính, hành chính, khoa học – kỹ thuật, giáo dục
– đào tạo, du lịch, y tế, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển KT – XH của cả nước.
- Đô thị loại I, là đô thị thuộc Trung ương có chức năng là trung tâm
kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, hành chính, giáo dục – đào tạo, du lịch,
dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc cả nước.
18
- Đô thị loại II, có chức năng là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học –
kỹ thuật, hành chính, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông,
giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của một tỉnh hoặc một vùng lãnh thổ liên tỉnh.
Trường hợp đô thị loại II là thành phố trực thuộc Trung ương thì phải
có chức năng là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, hành chính,
giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước
và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh
thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước.
- Đô thị loại III, có chức năng là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học –
kỹ thuật, hành chính, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông,
giao lưu trong tỉnh hoặc vùng liên tỉnh. Có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của một vùng trong tỉnh, một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với
vùng liên tỉnh.
- Đô thị loại IV, có chức năng là trung tâm kinh tế, văn hóa, hành
chính, khoa học – kỹ thuật, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao
thông, giao lưu của một vùng trong tỉnh hoặc một tỉnh. Có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của một vùng trong tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối
với một tỉnh.
- Đô thị loại V, cóchức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành
về kinh tế, hành chính, văn hóa, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ có vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện hoặc một cụm xã.
Ngoài ra, phân theo cấp quản lý, nước ta có: thành phố trực thuộc
Trung ương; thành phố trực thuộc tỉnh; thị xã thuộc tỉnh hoặc thuộc thành phố
trực thuộc Trung ương và thị trấn thuộc huyện [19].
19
1.1.2. Đô thị hóa
1.1.2.1. Định nghĩa
Đô thị hóa (ĐTH), tiếng Anh là Urbanzation, bắt nguồn từ cổ tự la tinh
“urbanus” có nghĩa là thuộc tính của đô thị. ĐTH được định nghĩa khác nhau
tùy theo các góc độ nghiên cứu của các nhà nhân khẩu học, xã hội học, các
nhà kiến trúc, các nhà kinh tế học và thay đổi theo bối cảnh KT – XH [2].
Theo E.B.Alae (Liên Xô cũ): “Đô thị hóa là một quá trình KT – XH
được gia tăng mạnh mẽ trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, biểu hiện
của nó là sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các điểm dân cư đô thị, sự
tập trung hóa về dân cư trong các thành phố, sự phổ biến trong lối sống đô thị.
Đô thị hóa là sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và
trong các hoạt động đời sống xã hội”. Các chuyên gia thuộc trung tâm định cư
của Liên hợp quốc cho rằng: “Đô thị hòa là quá trình mà nhờ nó, dân số các
quóc gia chuyển dịch từ các nghề nghiệp nông thôn sang các nghề nghiệp đô
thị, từ các điểm dân cư nông thôn sang các điểm dân cư đô thị. Đô thị hóa
được hiểu như là sự biểu hện của các mô hình phát triển các điểm dân cư” [2].
Ở Việt Nam, đô thị hóa cũng được định nghĩa với nhiều các khác nhau.
Xuất phát từ khái niệm đô thị, đô thị hóa được định nghĩa là quá trình
hình thành và phát triển các yếu tố cấu thành đô thị, là quá trình phát triển đô
thị của một quốc gia, bao gồm việc mở rộng các đô thị hiện có và hình thành
các đô thị mới. Một khu vực lãnh thổ nào được “hóa” thành đô thị khi nó hội
tụ đủ các tiêu chuẩn của đô thị. Tuy nhiên, trong thực tế phát triển đô thị chỉ
xét cho một đô thị riêng biệt, còn ĐTH thì xét cho cả một mạng lưới đô thị [7]
Dưới góc độ động lực phát triển: Đô thị hóa là sự di chuyển dân cư từ
nông thôn ra thành thị. Đô thị hóa là sự chuyể hóa nông thôn thành đô thị. Đô
thị hóa là quá trình chuyển đổi từ tam nông (nông nghiệp, nông thôn, nông
20
dân) sang phi tam nông, là sự chuyển đổi hình thức cư trú từ nông thôn lạc
hậu, nghèo nàn sang hình thức cư trú mới có đời sống văn minh hơn [1] [2]
[4] [20].
Dưới góc độ đời sống xã hội: Đô thị hóa là quá trình phát triển về dân
số đô thị, số lượng và quy mô các đô thị cũng như về điều kiện sống đô thị
hoặc theo kiểu đô thị, trong đó có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng
của các đô thị, kể cả đối với các điểm dân cư nông thôn [22].
Dưới gốc độ kinh tế: Đô thị hóa là quá trình biến đổi từ nền sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phân tán sang nền sản xuất công nghiệp,
cùng sự phát triển các dịch vụ trong những phạm vi diện tích nhất định [22].
Căn cứ vào xu hướng phát triển: Đô thị hóa thay thế là quá trình ĐTH
diễn ra ngay trong chính đô thị, cũng có thể là quá trình chỉnh trang, nâng cấp
đô thị để đáp ứng yêu cầu mới. Đô thị hóa quá mức là ĐTH mà ở đó sự tăng
trưởng nhanh chóng số lượng dân cư đô thị vào các trung tâm đô thị, dân cư
di chuyển từ nông thôn về thành thị nhưng không có sự phát triển kinh tế
tương xứng kèm theo, ĐTH mang tính tự phát cao, đô thị trở nên quá tải và
nhiều tiêu cực phát sinh. Đô thị hóa đảo ngược là khái niệm dùng để chỉ sự di
dân từ đô thị lớn sang đô thị nhỏ, hoặc từ đô thị trở về nông thôn [22], [23].
Căn cứ vào trình độ phát triển: Đô thị hóa theo chiều rộng là quá trình
tập trung chủ yêu để tăng số lượng đô thị trong hệ thống đô thị quốc gia, với
từng đô thị có xu hướng tăng quy mô diện tích và quy mô dân số; đô thị hóa
theo chiều sâu là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống và điều kiện sống
của dân cư đô thị [2].
Những định nghĩa ở trên cho thấy tính chất phức tạp, đa chiều, đa cấp
độ của ĐTH. Quan niệm về đô thị hóa như “một hiện tượng nhiều tầm cà đa
diện: kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường” lần đầu tiên được CERDA,