Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

LÝ THUYẾT THÔNG TIN bất cân XỨNG (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.99 KB, 17 trang )

I. Lý thuyết về thông tin bất cân xứng
1. Giới thiệu. Đặt vấn đề
- Trong một tiến trình giao dịch vốn, đối với nhà đầu tư (người cần vốn) bao
giờ cũng nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư mà
anh ta đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn.
 Vấn đề này được gọi là thông tin bất cân xứng.
Và điều trên thể hiện rõ rằng: thông tin rất quan trọng đối với thị trường tài
chính. Trong thực tế, có rất nhiều vấn đề do việc thông tin bất cân xứng tạo nên
như:
- Tại sao lãi suất thường có ở mức quá cao trên thị trường tín dụng địa phương
ở các nước thuộc thế giới thứ 3?
- Tại sao khi mua những chiếc xe hơi đã sử dụng, mọi người lại tìm đến các
đại lý chứ không tìm đến người bán trực tiếp?
-
Cho đến năm 1970, lần đầu tiên xuất hiện lý thuyết thông tin bất cân xứng, nhờ
công lao của 3 nhà kinh tế nổi tiếng:George Akerlof, Michael Spence, Joseph
stiglitz – Những người được nhận giải Nobel kinh tế năm 2001 nhờ “những phân
tích về các thị trường với thông tin cân xứng”. Những nhà kinh tế trên đã đưa ra
một cách giải thích mang tính tổng quát và mở rộng hơn nhằm lý giải về sự tồn tại
trên thực tế thông tin bất cân xứng.
2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng
• Tìm hiểu thêm về thông tin không hoàn hảo (imperfect information)
Thông tin không hoàn hảo là tình trạng một hay nhiều người tham gia thị
trường không có những thông tin họ cần để ra quyết định. Bao gồm:
- Thông tin không đầy đủ;
- Thông tin không chính xác;
- Thông tin không thể thu thập được;
- Thông tin bị che giấu.
• Một số khái niệm về thông tin bất cân xứng:
- Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn
một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn người mua hoặc


ngược lại.
- “Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn
bên khác thì không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó.” (Nguyễn Trọng
Hoài, 2006)
- Thông tin không đối xứng, hay còn gọi là thông tin bất cân xứng là việc các
bên tham gia giao dịch cố tình che đậy thông tin. Khi đó, giá cả không phải là giá
cân bằng của thị trường mà có thể là cao hơn hoặc thấp hơn.
3. Hệ quả của thông tin bất cân xứng
a. Sự lựa chọn đối nghịch (Adverse selection)
Một số khái niệm:
- Lựa chọn đối nghịch là hậu quả của thông tin bất cân xứng trước khi giao
dịch xảy ra
- Lựa chọn đối nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình
trạng thông tin bất cân xứng, người lựa chọn thứ tốt nhất lại chọn phải thứ không
tốt.
- “Lựa chọn đối nghịch là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi
thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng” (Nguyễn Trọng
Hoài, 2006)
Khái quát: Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm
thông tin ngang nhau và đầy đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm
được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều
kiện thông tin bất cân xứng, nghĩ là một bên trong giao dịch có nhiều thông tin về
đối tượng giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp
những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế
thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và
nhận được thứ không như mình mong muốn.
Ví dụ: Trong giao dịch bất động sản: Bên bán là bên có ưu thế thông tin về một
lô đất hay ngôi nhà (những thông tin như trật tự an ninh xã hội, tình trạng quy
hoạch giải tỏa,…) còn bên mua có nhu cầu mua đất nhưng không đủ khả năng tìm
hiểu về các thông tin liên quan, kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi nếu mua phải

đất hay nhà không tốt.
b. Rủi ro đạo đức
- Khái niệm: Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng sau khi giao
dịch đã xảy ra.
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ
một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, nghĩa là họ
thực hiện những hành vi che đậy.
Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại là tình trạng cá nhân hay tổ chức không còn
động cơ để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao dịch xảy ra.
- Khái quát: Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được
tình thế thông tin bất cân xứng giữa các bên giao dịch và tự niên hành động theo
hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế
về thông tin. Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được
bên kém ưu thế thông tin cho là sai trái, là một thứ nguy hiểm, gây ra rủi ro cho
mình.
Một dạng đặc biệt của hiện tượng rủi ro đạo đức là vấn đề đại lý. Bên úy thác là
bên kém ưu thế về thông tin, còn bên được ủy thác (đại lý) là bên có ưu thế thông
tin. Bên ủy thác không giám sát được đầy đủ hành vi của bên nhận ủy thác, và bên
nhận ủy thác hiểu được điều này. Tình trạng này khiến cho bên được ủy thác tự
nhiên nảy sinh động cơ hành động theo hướng mà bên ủy thác cho là không phù
hợp.
Ví dụ: Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của Chính phủ có thể dẫn
tới các rủi ro đạo đức ở chủ thể kinh tế được Chính phủ ủy thác thực hiện các
nhiệm vụ chi ngân sách, đó là việc các chủ thể này sử dụng lãng phí nguồn ngân
sách.
4. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng
a. Giải pháp lý thuyết:
Trong nhiều lĩnh vực tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng thì các giải pháp
chung thường được sử dụng để hạn chế tình trạng này là: Cơ chế phát tín hiệu, cơ
chế sàng lọc, cơ chế giám sát.

- Cơ chế phát tín hiệu: Bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những
bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy
Vậy, làm thế nào mà các cá nhân có được thông tin tốt hơn về một thị trường
nào đó có thể truyền, phát tín hiệu những thông tin này một cách đáng tin cậy cho
những cá nhân được thông tin kém hơm, nhằm tránh những vấn đề liên quan đến sự
lựa chọn ngược? Việc phát tín hiệu này đòi hỏi các tác nhân kinh tế phải có những
công cụ có thể quan sát được và tốn kém nhằm làm cho các tác nhân khác tin vào
khả năng của họ, hoặc một cách tổng quát hơn là về giá trị hoặc chất lượng sản
phẩm của họ. Như vậy , với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất
lượng cao phải sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán
hàng hóa chất lượng thấp.
- Cơ chế sàng lọc:
Những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình trạng của mình
thông qua cơ chế sàng lọc.
Bên có ít thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra
các điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau. Ví dụ điển hình là các công ty bảo
hiểm thường cung cấp các loại hợp đồng bảo hiểm vớ các mức phí bảo hiểm khác
nhau, tương ứng với những mức bồi thường khác nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa
chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do đó tự phân hóa thành các loại
khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thường thích loại hợp
đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp
đồng có phí bảo hiểm cao.
- Cơ chế giám sát:
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế
bao gồm giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
+ Giám sát trực tiếp: bên ít thông tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được sự
kiểm soát thông tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và nhân lực, khả năng
giám sát đối phương cũng bị hạn chế.
+ Giám sát gián tiếp: như giám sát thị trường,…
b.Giải pháp thực tế

- Đối với mỗi thị trường có những biện pháp khác nhau để hạn chế tình trạng
thông tin bất cân xứng:
+ Thị trường lao động: Người xin việc phát tín hiệu như trưng bằng cấp, đề
nghị mức lương cao; nhà tuyển dụng phỏng vấn và đề ra thời gian thử việc.
+ Thị trường bảo hiểm: Công ty bảo hiểm yêu cầu khách hàng khám sức khỏe
trước khi ký hợp đồng bảo hiểm, chỉ định phòng khám sức khỏe nếu đó là một hợp
đồng bảo hiểm lớn
- Giải pháp của Chính phủ:
+ Cấp giấy phép chứng nhận (trước hoạt động): Chứng nhận tư cách pháp
nhân, Chứng nhận chất lượng sản phẩm.
+ Kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình hoat động): kiểm tra an toàn vệ sinh
thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông; kiểm tra, đối chiếu thực tế
và tiêu chuẩn đăng ký.
+ Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
+ Cung cấp thông tin: về quy hoạch, về dịch bệnh, về nhà đầu tư, dự báo về
cung cầu thị trường trong nước và quốc tế.
+ Thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử phạt
II. Vận dụng thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính
1. Bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng của NHTM
a) Thực trạng của thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính:
Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc
bất ngờ như khủng hoảng kinh tế, thiên tai,…nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu
nhiếu nhất là do ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình
mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định.
Như vậy, thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh
hưởng đến rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Việc
nghiên cứu tác động của thông tin bất cân xứng sẽ được làm rõ thông qua nghiên
cứu về hai biểu hiện của nó là lựa chọn sai lệch và rủi ro đạo đức.
Lựa chọn sai lệch trong hoạt động tín dụng của NHTM
Lựa chọn sai lệch xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu

một số thông tin dẫn đến việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không
hiệu quả. Khách hàng có độ rủi ro cao thường là những khách hàng tích cực nhất
trong việc xin vay. Hậu quả của lựa chọn sai lệch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng
cho khách hàng có độ rủi ro cao nên trong trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ
cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường còn rất nhiều
khách hàng tốt.
Cụ thể, trong hoạt động tài chính ngân hàng, lựa chọn sai lệch sẽ xuất hiện khi
nguồn vốn khan hiếm và lãi suất cho vay bị đẩy lên cao.
Theo nguyên tắc “rủi ro cao – lợi nhuận cao“ và nguyên tắc loại trừ, khi nguồn
cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất cho vay thấp thì cả dự án có suất sinh lợi thấp,
đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và những dự án có suất sinh lợi cao,
rủi ro cao với đảm bảo khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để
thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị
đẩy lên cao. Để ngân hàng có lợi nhuận, các dự án an toàn sẽ dễ bị bỏ qua bởi suất
sinh lợi thấp và các dự án có độ rủi ro cao với suất sinh lợi cao sẽ được cấp vốn để
thực hiện. Đây chính là vấn đề lựa chọn sai lệch trong hoạt động tài chính ngân
hàng. Khi mà chỉ các dự án có độ rủi ro cao được thực hiện thì nguy cơ vỡ nợ của
các tổ chức tín dụng là rất cao.
Có 2 kiểu sai lệch thông tin chính:
- Khách hàng chỉ cung cấp thông tin tốt và che giấu những thông tin xấu
- Khách hàng cố tình cung cấp thông tin sai, cố ý lừa đảo ngân hàng
Nhưng cho dù việc sai lệch thông tin có xảy ra ở dạng nào thì cũng thường có
một điểm chung đó chỉ xảy ra ở những khách hàng có năng lực quản lý kém cũng
như không có khả năng kinh doanh.
Rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng của NHTM
Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tín dụng xảy ra sau khi cấp tín dụng, những
người được cấp tín dụng luôn có xu hướng muốn thực hiện đầu tư rủi ro hơn những
người cho vay mong đợi, vì chủ đầu tư sẽ có những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự
án thành công, trong khi những người cấp tín dụng chỉ nhận được một khoản lợi ích
cố định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì bên cho vay sẽ bị mất một phần hoặc toàn

bộ vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
Với các hợp đồng vay ngân hàng hay bảo hiểm thỉ rủi ro đạo đức phát sinh
từ phía người đi vay hay đi mua bảo hiểm. Họ sử dụng tiền vay không đúng mục
đích hay do đã được bảo hiểm nên họ sẽ bất cần hơn so với trước khi mua bảo
hiểm. Ở thị trường chứng khoán, rủi ro đạo đức phát sinh nếu như người đại diện
điều hành Công ty không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính
chất của đầu tư trên thị trường là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn
đầu tư của các nhà đầu tư sẽ phải thông qua một số người đại diện để điều hành
công ty. Rủi ro đạo đức sẽ gia tăng nếu như tỷ lệ sở hữu cổ phần của người đại diện
thấp. Vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả thì trách nhiệm của họ
không cao và sự thiệt hại trên phần vốn góp là thấp. Chính vì thế, hiện nay tiêu chí
đầu tiên để có những cổ đông muốn tham gia Hội đồng quản trị thì họ phải có một
tỷ lệ vốn góp nhất định nào đó.
Như đã trình bày ở trên, để tồn tại rủi ro đạo đức cần có ba điều kiện, trong
đó điều kiện thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các
điều kiện trong thỏa thuận có được tuân thủ và thực hiện đúng hay không. Trong
hoạt động tín dụng, giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng của ngân hàng
thường vấp phải nhiều khó khan đến từ cả phía ngân hàng và người đi vay. Bản
thân các ngân hàng có thể gặp phải các rủi ro do rủi ro đạo đức của người đi vay
khi ngân hàng không giám sát được hoạt động của người đi vay, kích thích người
này dùng khoản vay một cách mạo hiểm quá mức.
Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục
đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân hàng,… Những khách hàng này
thường là những chủ của những doanh nghiệp có tỉ lệ vốn tự có thấp hay chủ của
khoản vay được cấp mà không phải thế chấp tài sản. Xung đột về lợi ích giữa người
vay và ngân hàng từ vấn đề rủi ro đạo đức dẫn đến tình trạng một số ngân hàng
giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Ngoài ra, còn có rủi ro đạo đức của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay.
Đó là thiếu sót trong quá trình kiểm tra sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay
không.

b) Hậu quả của bất cân xứng trong hoạt động tín dụng:
Thông tin bất cân xứng và hậu quả của nó được hình thành bởi sự không đồng
nhất trong thông tin giữa các bên tham gia một thỏa thuận tài chính. Vấn đề chính
thường xảy ra ở đây là người đi vay hay khách hàng có thể nhận thức được nhiều
hơn so với ngân hàng về rủi ro liên quan đến dự án mà họ đang xin vay.
Thông tin bất cân xứng gây ra ba hậu quả là lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức,
vấn đề người ủy quyền – người thừa hành.
2. Thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán TP.HCM
a. Thực trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường tài chính Việt Nam
- Công bố thông tin không đầy đủ, sai lệch, chậm trễ:
+ Ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh
nghiệp không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời đã tác động bất lợi cho
NĐT. NĐT hầu như mù mờ về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính
và các khoản nợ vay của công ty. Các thông tin mà NĐT tìm chủ yếu qua nguồn tin
riêng trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin đồn …. không có cơ sở, không được
kiểm soát. Nhiều bản cáo bạch còn sơ sài, thông tin vừa nghèo nàn vừa không
chuẩn mực. Hơn nữa, nhiều công ty thoái thác cung cấp bản cáo bạch cho NĐT,
chậm nộp báo cáo tài chính, báo cáo tài chính thiếu chính xác hoặc lợi dụng sự linh
hoạt, kẽ hở của pháp luật để lập những báo cáo tài chính thiếu chính xác. Để che
giấu thông tin, nhiều công ty đã lách luật bằng cách đăng thông báo lên những tờ
báo rất ít người theo dõi
+ Ngoài ra, những thông tin những bản cáo bạch, báo cáo tài chính trước
khi được công bố ra thì vẫn chưa được kiểm tra kĩ lưỡng, còn nhiều sai lệch không
rõ ràng
- Có hiện tượng rò rỉ thông tin hay giao dịch nội gián:
Theo quy định của luật chứng khoán: giao dịch nội gián là hành vi của NĐT
cá nhân hay NĐT tổ chức có được thông tin nội bộ có giá trị và sử dụng thông tin
đó trước khi thông tin được công bố công khai nhằm mua- bán cho chính mình
hoặc cung cấp cho bên thứ ba để hưởng lợi

VD: 2012, báo chí từng đặt câu hỏi khi quan sát sự việc nhóm NĐT, trong đó
có Eximbank, đã mua gom cổ phiếu STB của Sacombank để đạt đến tỷ lệ sở hữu
lớn
- Doanh ngiệp công bố thông tin không công bằng đối với NĐT: Doanh
nghiệp ưu tiên cung cấp thông tin cho các NĐT chiến lược, các NĐT tổ chức mà
không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy trong các cuộc
đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là NĐT tổ chức. Loại trừ khả năng
các nhà đầ tư có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích thì người ta cũng nghi ngờ các
NĐT tổ chức nhận được nhiều thông tin chất lượng hơn so với nhà đầu tư cá thể
- Hiện tượng tung tin đồn: hiện tượng này xảy ra khá phổ biến, gây ảnh hưởng
không nhỏ tới thị trường
- Hiện tượng các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch không đầy
đủ: các cơ quan truyền thông là kênh cung cấp thông tin quan trọng giữa các doanh
nghiệp và các NĐT, sự phản ánh thông tin của các cơ quan này có ảnh hưởng rất
lớn đến NĐT. Tuy nhiên, hiện nay vì lợi ích của mình mà các doanh nghiệp và các
cơ quan truyền thông thường cấu kết với nhau để đưa ra những thông tin thiếu chân
thực, nhằm đánh bóng công ty để thu hút các nhà đầu tư và trục lợi. các NĐT thiếu
sự theo dõi, tìm hiểu rất dễ nghe theo các thông tin được công bố này.
b. Những tác động của thông tin bất cân xứng lên thị trường chứng
khoán:
- Tác động đến các nhà đầu tư
+ Các nhà đầu tư nắm được thông tin sẽ tu lại lợi nhuận cá biệt cao hơn
lợi nhuận thị trường.
+ Một số nhà đầu tư nắm ít thông tin phải bỏ ra chi phí cá biệt cao hơn
chi phí thị trường
 NĐT có ít thông tin sẽ dần rời bỏ thị trường, điều này sẽ tác động ại
các NĐT có nhiều thông tin và những người này sẽ chuyển hướng đầu tư sang lĩnh
vực khác hấp dẫn hơn.
- Tác động đến các doanh nghiệp: NĐT không còn niềm tin động lực tham gia
thị trường chứng khoán, làm cho việc huy động vốn của doanh nghiệp trở nên khó

khăn, họ chuyển sang hình thức huy động vốn khác là: vay vốn ngân hàng …. tăng
chi phí huy động vốn và họ không có động lực tham gia TTCK.
VD: Gần đây, trên thị trường có 2 công ty niêm yết rơi vào tình huống công bố
thông tin khá nhạy cảm là CTCP Đầu tư Thương mại SMC (SMC) ký hợp đồng cung cấp
thép cho dự án Formosa (Hà Tĩnh) và CTCP Kỹ thuật nền móng và Công trình ngầm
Fecon (FCN) cung cấp và thi công cọc dự án Nhà máy Samsung Thái Nguyên.
Cả 2 tình huống này đều có điểm chung là giá trị hợp đồng có quy mô lớn, được thị
trường quan tâm, nhưng lại không chốt cụ thể về sản lượng hay giá trị. Với SMC, công ty
vẫn phải đàm phán với đối tác Formosa trong từng giai đoạn, hàng tháng vẫn phải chào
giá thép tốt nhất cho đối tác. Còn theo như công bố của FCN, công ty chỉ thỏa thuận về
nguyên tắc và không có giá trị cụ thể cho toàn bộ hợp đồng.
Nếu căn cứ vào con số, rõ ràng SMC và FCN đều có lý do riêng để không công bố thông
tin. Nhưng nếu làm như vậy, doanh nghiệp đương nhiên sẽ phải chịu điều tiếng thiếu cởi
mở, thậm chí bị nghi kỵ thiếu minh bạch. Vậy nên việc công bố thông tin là điều nên làm
trong bối cảnh yêu cầu của cơ quan quản lý cũng như NĐT về minh bạch ngày càng cao
hơn.
Thực ra, nếu nhìn vào hoạt động kinh doanh của các công ty này, việc thông tin được thị
trường nắm bắt là điều hiển nhiên, muốn “giấu” cũng không được. Cứ dựa vào những
điều này để tìm hiểu tất nhiên không sớm thì muộn cũng lần ra thông tin. Nếu công ty để
xảy ra tình huống thông tin cứ xuất hiện cứ “râm ran” chạy trên thị trường, nhưng lại
không làm rõ, tất yếu sẽ xảy ra sự bất cân xứng thông tin.
Thị trường có nhiều thành phần NĐT và không phải NĐT nào cũng có thể tiếp cận toàn
bộ thông tin. Bất cân xứng thông tin dễ dẫn đến sự bất cân xứng về quyền lợi của NĐT và
cổ đông.
Cùng một thông tin, nhưng có thể có nhiều cách công bố. Nếu công bố chiếu lệ, không
đến nơi đến chốn cũng chẳng khác gì không công bố. Hiện nay, mức độ minh bạch của
TTCK được đẩy lên một mức độ mới, minh bạch không chỉ là câu chuyện có hay không
có công bố thông tin, mà còn là cách thức công bố như thế nào.
Nếu làm tốt, các công ty sẽ được thị trường đánh giá cao về mức độ minh bạch, sự tận
tâm với cổ đông, nếu làm chưa đạt, rõ ràng, dù cho không vi phạm, cách nhìn của thị

trường về doanh nghiệp cũng sẽ dè dặt hơn.
III. Một số biện pháp khắc phục vấn đề thông tin cân xứng
a. Đối với Chính phủ:
- Xây dựng cơ sở pháp lý hoàn thiện:
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động ngân hàng nói chung
và hoạt động tín dụng nói riêng được quy định bởi văn bản cao nhất là “ Luật các tổ
chức tín dụng”. Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng. Các
quy định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ và
theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho bên cấp tín
dụng trên cơ sở bảo đảm những quy định về an toàn.
+ Quy định về điều kiện cấp tín dụng.
+ Quy định về điều kiện đảm bảo tiền vay.
+ Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và thẩm định thu hồi vốn
vay.
Với các quy định pháp lý nêu trên, tổ chức tín dụng được tự chủ và phải chịu
trách nhiệm về hoạt động tín dụng của mình, đồng thời đảm bảo điều kiện để ngân
hàng có thể tìm đúng khách hàng, đúng dự án để hoàn trả cho ngân hàng khoản tín
dụng được cấp.
- Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng:
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và
quá trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ
sở hết sức quan trọng giúp cho việc thẩm định, xếp loại, lựa chọn khách hàng trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến khả năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.
Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC)
là tổ chức duy nhất thực hiện công tác thu nhập thông tin của các khách hàng có
quan hệ tín dụng với tất cả tổ chức tín dụng. Cơ chế thu nhập thông tin của CIC
theo quy chế hoạt động thông tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Trong đó quy định các tổ chức tín dụng theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các

thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và tổ chức tín dụng được quyền khai
thác thông tin của CIC.
Chia sẻ thông tin về khách hàng vay thông qua các trung tâm tín dung
không chỉ mang lại lợi ích cho các ngân hàng mà còn tốt cho chính các khách hàng.
Dựa trên lý thuyết về thong tin không cân xứng, chia sẻ thông tin về người vay
thông qua các trung tâm tín dụng có 4 lợi ích sau đây:
Một là, các trung tâm thông tín dụng giúp các ngân hàng hiểu rõ hơn về
khách hàng và có thể dự đoán về khả năng trả nợ của khách hàng. Do vậy, ngân
hàng có thể quyết định cho vay hoặc không cho vay; định giá được khoản cho vay
chính xác hơn, từ đó làm giảm khả năng gây ra “sự lựa chọn đối nghịch”.
Hai là, trung tâm thông tin tín dụng giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Nếu ngân hàng nhận thông tin từ trung tâm thông tin ứng
dụng về một khách hàng, ngân hàng đó sẽ đánh giá đúng hơn về khách hàng và có
thể sẽ áp dụng một mức lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất của ngân hàng không
có thông tin. Lãi suất thấp hơn làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường. Lĩa suất thấp hơn cũng làm giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo động cơ
cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.
Ba là, các khách hàng biết rằng nếu họ có quan hệ không tốt với một ngân
hàng thì tiếng tăm của họ với các ngân hàng khác cũng sẽ không tốt, như vậy sẽ
không ngân hàng nào tiếp tục cho những khách hàng nào vay hoặc nếu cho vay thì
với lãi suất rất cao. Có thể nói sự toonf tại của các trung tâm thông tin tín dụng làm
tăng động cơ trả nợ của khách hàng và giảm rủi ro về đạo đức.
Bốn là, Trung tân thông tin tín dụng giúp các ngân hàng nhận biết được tình
trạng vay nợ của khách hàng đồng thời tại nhiều ngân hàng, từ đó không tiếp tục
cho vay quá nhiều vào những khách hàng đó, từ đó giảm thiểu rủi ro của ngân
hàng.
b. Đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng TM
- Một là, hoàn thiện quy trình tín dụng
Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan của Nhà nước đến công tác
tín dụng ĐTPT đòi hỏi NHTM phải thường xuyên cập nhật, hệ thống hóa và hoàn

thiện các quy trình thẩm định, tín dụng cho phù hợp.
- Hai là, hoàn thiện bộ máy quản lý rủi ro
NHTM phải xây dựng và hoàn thiện bộ máy Quản Lý Rủi Ro phù hợp với
thông lệ quốc tế, trong đó quan trọng nhất là hình thành bộ phận Quản Lý Rủi Ro
ở hội sở chính và ở các chi nhánh. Mô hình Quản Lya Rủi Ro có thể bao gồm: Uỷ
ban Quản Lý Rủi Ro trực thuộc Hội đồng quản lý; Ban Quản Lý Rủi Ro thuộc cơ
quan điều hành ở Trung ương và phòng Quản Lý Rủi Ro tại các chi nhánh. Trong
đó, bộ phận Quản Lý Rủi Ro phải hoạt động theo nguyên tắc không tham gia vào
quá trình tạo ra rủi ro.
- Ba là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định năng lực chủ đầu tư, thẩm
định dự án vay vốn
Công tác thẩm định cần được thay đổi căn bản trên cơ sở việc quản lý tín dụng
theo khách hàng chứ không phải chỉ quản lý theo dự án. Để nâng cao chất lượng
thẩm định, cần bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trong công tác
thẩm định, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khóa học về thẩm định dự
án để cập nhật thông tin, cách thức thẩm định. Đồng thời khi thẩm định cần chú
trọng công tác thu nhập, xử lý thông tin về dự án, khoản vay; áp dụng các chỉ tiêu
thẩm định như NPV, IRR, phân tích độ nhạy,… và cần đặc biệt lưu ý việc thẩm
định năng lực, uy tín, khả năng tài chính của khách hàng/ chủ đầu tư….
- Bốn là, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm: Các cơ sở pháp lý
liên quan đến việc thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách hàng; Các chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, khả
năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết; Uy tín với các TCTD đã giao dich trước đây;
Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống trên cơ sở đó xếp
hạng cụ thể đối với khách hàng. Kết quả xếp hạng tín dụng thích hợp với khách
hàng; tiến hành phân loại nợ và trích lập DPRR theo quy định.
- Năm là, tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý nợ vay
- Việc tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý nợ vay là biện pháp quan trọng
nhằm hạn chế RRTD đối với ngân hàng, nhất là rủi ro đạo đức khi khách hàng sử

dụng vốn vay sai mục đích. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi tiền vay phải
được chuyển trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng. Việc giải ngân phải được thực hiện
qua hệ thống thanh toán của NHTM; định kì (quý) phải phân tích, đánh giá tình
hình tài chính cảu doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay,
tái sản đảm bảo tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng đặc biệt
khách hàng có nợ quá hạn và lãi treo.
- Sáu là, hoàn thiện và nâng cao công tác kiểm tra nội bộ
Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì
công việc này cần phải theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Ban kiểm
soát và Ban kiểm tra nội bộ tại hội sở chính.
- Bảy là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
Có thể triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm hạn chế RRTD thì NHTM
phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
thông qua việc tăng cường thu nhập thông tin về khách hàng, dự án, thông tin về
kinh tế-xã hội, ngành hàng, thị trường,… thông qua các kênh thông tin khác nhau;
đồng thời phải sang lọc, xử lý và lưu trữ thông tin cho khoa học, và phải tăng
cường đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, các phần mềm nghiệp vụ và
khẩn trương thực hiện tốt các thanh toán cho khách hàng.
- Tám là, thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro như đối
với các ngân hàng thương mại, đẩy nhanh công tác xử lý rủi ro.
- Chín là, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng về năng lực chuyên môn và đạo
đức nghề nghiệp.
Về phía khách hàng vay vốn
- Người đi vay phải phát n hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ
tốt. Vấn đề phát n hiệu trong trường hợp này là: Uy n của công ty, quy mô và
danh /ếng công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo,…
- Sử dụng hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính
Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan
trọng giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ

chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem
xét “sức khỏe” của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, Luật kế toán năm 2003 quy định đơn vị kế toán phải thu nhập,
phản ánh khách quan, đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán mà nghiệp vụ kinh
tế, tài chính phát sinh. Mặt khác, tại hầu hết các tổ chức tín dụng chưa yêu cầu
khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm toán.
Việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án các tổ chức
tín dụng chưa có đủ độ tin cậy như phát biểu của Phó tổng giám đốc Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam- ông Lê Đào Nguyên:” Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế;
báo cáo chính thức (báo cáo được pháp luật công nhận) thường thấp hơn tình trạng
thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng”.
Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ
thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả
kinh doanh thấp hơn thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo
thường hơn thực tế). Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy,
khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực.
- Phát triển thương hiệu
- Tham gia hoạt động bình chọn (hàng Việt Nam chất lượng cao, Sao vàng đất
Việt,…).
c. Về phía thị trường chứng khoán
- Hoàn thiện khung pháp lý
Thứ nhất , tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành luật chứng
khoán và các văn bản pháp luật có liên quan
- Cải cách hệ thống pháp luật về thuế, hệ thống pháp luật doanh nghiệp, luật
phá sản…theo hướng minh bạch hơn, nghiêm khắc hơn để ràng buộc trách nhiệm
của doanh nghiệp cá nhân trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Nhanh chóng hình thành các tổ chức định giá tài sản độc lập cũng như các cơ
quan hữu hiệu trong việc xử lý tài sản của doanh nghiệp.Từ đó giúp các tổ chức tín
dụng thuận lợi trong việc cầm cố thế chấp tài sản để đảm bảo an toàn vốn vay cũng

như nhanh chóng thu hồi nợ xấu từ tài sản cầm cố, thế chấp đồng thời cũng giúp
cho việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp tránh việc những cán bộ nội bộ công ty
lợi dụng trục lợi khi IPO,…
Thứ hai, tăng cường hoạt động giám sát hoạt động công bố thông tin về tình
hình tài chính trên TTCK đối với các đối tượng có nghĩa vụ công bố thông tin trên
TTCK
- Thành lập các tổ chức tín nhiệm:
Nhanh chóng thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm. Việc thành lập tổ
chức định mức tín nhiệm để đánh giá hiệu quả về mức độ sẵn sàng và khả năng
thanh toán gốc, lại đúng hạn của 1 khoản nợ; quan trọng hơn là đánh giá về tình
hình hoạt động, triển vọng của tổ chức phát hành, đồng thời xếp hạng rủi ro của các
tổ chức, cung cấp đánh giá về chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.
- Cải thiện hệ thống kế toán kiểm toán:
Cải cách hệ thống chuẩn mực kế toán kiểm toán,hướng dẫn chuẩn mực đầy đủ
hơn, dễ hiểu hơn để tránh cách hiểu không đồng nhất, tạo tính minh bạch trong các
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết chỉ lập báo cáo
tài chính đầy đủ và có ý kiến của tổ chức kiểm toán đối với các báo cáo tài chính 6
tháng và năm tài chính chứ không lập báo cáo tài chính tóm tắt, nhắm tránh tình
trạng hiểu nhầm hoặc không minh bạch trong báo cáo tài chính.
Việc hoàn thành hệ thống công bố thông tin là vấn đề quan trọng để tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư được tiếp cận với các thông tin nhanh chóng, chính xác và
công bằng. Để đảm bảo thông tin có độ tin cậy cao, trước hết ủy ban chứng khoán
nhà nước cần đậy mạnh và nâng cao chất lượng kiểm toán đối với các công ty niêm
yết
- Các công ty niêm yết:
Cần nhận thức đúng đắn việc cung cấp thông tin cho thị trường. Cần đảm bảo
đầy đủ các thông tin định kì, tức thời và theo yêu cầu. Tổ chức bộ phận chuyên
trách công bố thông tin. Cán bộ công nhân viên trong bộ phận này phải có một
trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt để đảm bảo cung cấp đầy đủ
thông tin tức thời, định kì, theo yêu cầu thậ nghiêm túc, đúng quy định, tình trạng

công bố thông tin sai sót, thiếu chính xác, nhằm giúp cho NĐT đạt hiệu quả cao
trong hoạt động đầu tư của mình. Để nâng cao tính minh bạch của thông tin công
bố thì cần quan tâm thích đáng đến công tác kiểm soát nội bộ. Xây dựng hội đồng
kiểm toán độc lập và đầy đủ quyền hạn.
Thiết lập trang web cho công ty và xây dựng quan hệ với các cổ đông. Các
công ty niêm yết thiết lập trang web của công ty mình để thông báo thường xuyên
và rộng rãi ra công chúng đầu tư những thông tin liên quan đến công ty như: thông
tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính thay đổi nhân sự trong hội
đồng quản trị… các công ty niêm yết cần xây dung mối quan hệ với các nhà đầu tư.
Phải có sự tham gia của các thành viên độc lập trong hội đồng quản trị của những
doanh nghiệp, thành viên hội đồng quản trị độc lập sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra cơ
chế hài hòa lợi ích, hạn chế tối đa phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi giữa nhóm cổ
đông nắm giữ nhiều vốn và ít vốn. Khi đó quyền lợi của cổ đông nhỏ sẽ được đảm
bảo
- Các công ty chứng khoán:
Quán triệt đầy đủ các ngyên tắc về thông tin chứng khoán , phản ánh trung
thực các thông tin về chứng khoán, công ty niêm yết …
Xây dựng đội ngũ nhân viên có kiến thức, kinh nghiệm và tinh thần trách
nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp và tạo lòng tin với NĐT, ứng dụng kịp thời các tiến
bộ thông tin.
Đa dạng hóa kênh cung cấp thông tin cho khách hàng
Đầu tư và phát triển một hệ thống CNTT đảm bảo cho các hoạt động chứng
khoán, nhất thiết phải đầu tư 1 cách đồng bộ giữa hạ tầng thông tin và hệ thống bảo
mật một cách đầy đủ.
Phát triển nghiệp vụ tư vấn đầu tư. Việc này không chỉ làm tăng thêm dịch vụ
cho các CTCK mà còn tăng thêm 1 kênh cung cấp thông tin cho khách hàng rất
hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho công ty.
- Đối với các thị trường giao dịch chứng khoán , sở giao dịch chứng khoán.
Thiết lập bộ phận đánh giá chất lượng bản công bố thông tin, kênh thông tin
giữa sở giao dịch chứng khoán và các thành viên tham gia thị trường.

Tăng cường thanh tra giám sát các hoạt động liên quan đến công bố thông tin.
SGDCK cần phải theo dõi, tăng cường giám sát thường xuyên và chặt chẽ đối với
việc công bố thông tin. Giám sát có hiệu quả sẽ là việc rất quan trọng để gây dựng
lòng tin nơi các nhà đầu tư.
Phối hợp với các bộ, ngành để thực hiện vai trò quản lý các công ty cổ phần
phát hành chứng khoán ra công chúng, tạo bước đệm về quản lý để các tổ chức
niêm yết không bị thiếu sót, vi phạm khi thực hiện quy trình về công bố thông tin
và thực hiện đầy đủ các quyền của người sở hữu chứng khoán. Cần tăng cường trao
đổi thông tin với các nhà đầu tư qua các trang web UBCKNN và SGDCK.
SGDCK thực hiện việc công bố thông tin phải mang tính công bằng giữa các
nhà đầu tư, nghĩa là việc công bố thông tin phải cùng thời gian, tránh thực hiện rò rỉ
thông tin. Để thực hiện được giải pháp này, UBCKNN và SGDCK phải có thông
tin nhanh và phải đưa ra cho công chúng đầu tư trong thời gian ngắn nhất có thể,
nhằm làm cho việc công bố thông tin được công bằng, đảm bảo quyền lợi cho nhà
đầu tư.
Giải pháp về cơ sở hạ tầng thông tin:
- Hướng tới việc xây dựng và phát triển một hệ thống công bố thông tin số
hóa sử dụng XML.
- Nâng cao hệ thống phát triển công nghệ thông tin trong h65 thống giao dịch.
Để khắc phục tình trạng quá tải lệnh giao dịch của nhà đầu tư, đảm bảo sự
công bằng, minh bạch trong giao dịch, SGDCK cần phải đầu tư trang thiết bị công
nghệ hiện đại để cải tiến hệ thống kĩ thuật giao dịch. Phát triển đồng bộ hệ thống
giao dịch kết nối Sở với các CTCK, trước hết là giải quyết tình trạng quá tải tại sàn
giao dịch, thứ hai là với hệ thống giao dịch hoàn hảo sẽ tự động sàng lọc những
lệnh được chấp nhận để chuyển thẳng về SGDCK. Như vậy sẽ không còn các hiện
tượng “đua lệnh”, đảm bảo công bằng cho tất cả các nhà đầu tư tham gia đặt lệnh.
- Nâng cao chất lượng các bản tin thị trường chứng khoán, các website của
SGDCK, UBCKNN.
Trong khi chờ đợi một hệ thống cung cấp thông tin được thiết lập, thì bản tin
thị trường chứng khoán vẫn là phương tiện công bố chính thức của SGDCK. Vì vậy

việc nâng cao chất lượng bản tin thị trường chứng khoán vẫn luôn là yêu cầu của
giới đầu tư tự đặt ra cho SGDCK và SGDCK cần quan tâm hơn nữa đến nội dung
bản tin thị trường chứng khoán.
Còn về website, hiện tại còn rất nhiều hạn chế cả về mặt kĩ thuật lẫn nội dung.
Trong đó nổi bật vấn đề thông tin rất nghèo nàn và không cập nhật. Công tác thống
kê của website từ các cơ quan đầu ngành này cũng rất thiếu và khó tập hợp. Trong
đó phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, việc tìm kiếm thông tin của các nhà
đầu tư từ các trang báo điện tử ngày càng phổ biến thì việc nâng cao chất lượng các
trang này là điều rất cấp bách, cần được thực hiện một các triệt để và nhanh chóng.
Ngoài các thông tin về chính sách và giao dịch, các web này cũng đưa thêm vào nội
dung các thông tin về tình hình tài chính quốc tế, tình hình vĩ mô trong nước… mới
nhất để cho các nhà đầu tư tham khảo và trở thành trang thông tin hàng đầu về
thông tin trong ngành.
- Nâng cao năng lực của giới truyền thông.
Cần cung cấp cho các nhà báo, nhân viên làm các chuyên mục trên các
phương tiện truyền thông về chứng khoán những nghiệp vụ sâu hơn để phân tích
chứng khoán. Nên các cơ quan quản lý phải mổ lớp đào tạo chứng khoán cho nhóm
đối tượng trên, và thực hiện giảng dạy thật nghiêm túc nhằm cung cấp cho họ kiến
thức chuyên môn, các nhận định đánh giá về thị trường chứng khoán một cách
chính xác, hợp lý. Từ đó chất lượng các bài viết sẽ đầy đủ thông tin cần thiết và có
cách tiếp nhận phù hợp để đưa ra quyết định đầu tư.
Giải pháp về tiếp nhận thông tin:
Trình độ và tính chuyên nghiệp của các NĐT cũng như các tổ chức trung gian
thị trường đã được cải thiện đang kể qua hơn 10 năm “cọ sát với thị trường” . Đồng
thời với sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư có tổ chức đã khiến cho diện mạo
thị trường thay đổi. Nếu trước đây giá cổ phiếu thường lên xuống theo trào lưu, thì
gần đây, chuyển động của giá cổ phiếu đã có sự không đồng biến và phản ánh thực
hơn kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo đó, các quyết định đầu tư
được đưa sát thực tế hơn với khả năng phát triển của doanh nghiệp và định hướng
đầu tư cũng dần thay đổi từ hình thức ngắn hạn sang trung và dài hạn. Mọi thông

tin từ các công ty niêm yết lúc này đầu là cơ sở để nhà đầu tư quyết định giao dịch
của mình.
 Nhà đầu tư phải chủ động tìm kiếm thông tin, đồng thời nâng cao khả
năng quan sát và tìm kiếm thông tin, thành thạo trong việc lựa chọn các thông in
hữu ích ảnh hưởng đến việc quyết định của mình.
Giải pháp hỗ trợ
- Phát triển nguồn nhân lực con người:
TTCK được tổ chức rất cao, đòi hỏi các nhà chuyên môn thật sự có năng lực
tổ chức và điều hành, ngoài ra đòi hỏi người thực hiện giao dịch mua bán môi
giới… phải am hiểu năng động để đáp ứng nhu cầu thị trường. Do đó, để giúp cho
có thật nhiều nhà chuyên môn cũng như những NĐT có kiến thức, am hiểu thị
trường thì có thể thực hiện thông qua các chính sách và giải pháp chủ yếu như:
cũng cố nâng cao chất lượng đội ngủ giảng dạy, ổn định và hiện đại hóa chương
trình đòa tạo,…
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với đội ngũ cán bộ:
Vì đội ngũ cán bộ của nhà nước là những con người vận hành thị trường, phải
là những người có tài có đức, có kiến thức, tầm nhìn chiến lược để giúp thị trường
phát triển ổn định và bền vững
- Góc độ quản lý giám sát của nhà nước:
Trao quyền nhiều hơn nữa cho UBCKNN, đặc biệt là chức năng điều tra xét
xử hơn là chức năng giám sát chưa có hiệu quả như hiện nay.
Xây dựng một danh mục “sổ đen” để lưu trữ các hệ thống trường hợp vi phạm
để tất cả mọi người đều có thể tiếp cận, tra cứu 1 cách dễ dàng.
Phát triển mạnh các kênh công cụ và chê tài giám sát, xử lý kịp thời hiệu quả
các biến cố rủi ro trong kinh doanh.
Nhà nước cần quy định việc công bố thông tin định kì trở thành điều kiện bắt
buộc với các doanh nghiệp.

×