Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
1.1 Tình hình thế giới
1.2 Khái quát về quan hệ Mỹ - Việt Nam trước năm 1995
1.3 Chính sách đối ngoại của hai nước
1.3.1 Chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh
1.3.2 Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Chương 2: Về thực tiễn quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan
hệ đến nay
2.1 Trong lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao
2.2 Trong lĩnh vực Kinh tế - Thương mại
2.3 Trong lĩnh vực khác
Chương 3: Triển vọng về quan hệ Mỹ - Việt Nam và một số kiến nghị
3.1 Một số nhận xét về quan hệ Mỹ - Việt Nam trong thời gian qua
(Từ tháng 7/1995 đến tháng 5/2008)
3.2 Triển vọng
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
1
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam chính thức được thiết lậpvào ngày
12/7/1995. Mười ba năm chưa phải là dài, nhưng trong quãng thời gian đó, quan hệ
hai nước ngày càng được cải thiện và có sự phát triển đáng khích lệ. Kết quả đạt
được từ sự nỗ lực phấn đấu của hai bên trong thời gian qua có thể chưa đáp ứng
được sự trông đợi của nhân dân hai nước, song nếu nhìn lại chặng đường đã đi thì
13 năm qua quả thật là một bước tiến dài có ý nghĩa trong quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, trong quan hệ Mỹ - Việt Nam vẫn có một số khó khăn cần được
tháo gỡ và giải quyết. Bởi vậy, nhằm đề xuất một số giải pháp để thoá gỡ, phát huy
và gìn giữ những gì tốt đẹp nhất giữa hai nước, tôi quyết định lựa chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn trên thế giới nói chung,
quan hệ với Mỹ nói riêng. Đây là mối quan hệ thu hút được rất nhiều sự quan tâm
của các nhà lãnh đạo, các học giả, các doanh nghiệp, và nhân dân Mỹ cũng như
Việt Nam nên có khá nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này: “Đẩy mạnh quan
hệ với khu vực Châu Mỹ”, trong tập kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 60 năm thành lập
ngành Ngoại giao; “Ngoại giao Việt Nam (1945 – 2000)” của Bộ Ngoại giao; “Sự
phát triển quan hệ Việt Nam - Mỹ 10 năm nhìn lại” của Lê Công Phụng; “Xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ - thực trạng và triển vọng” của
Nguyễn Văn Bình.
Trên cơ sở thừa kế kết quả đã được công bố và góc độ nghiên cứu bộ môn
quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, tiểu luận “Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam
từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay” (tháng 7/1995 – tháng 5/2008) xin đóng
góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu một số vấn đề nổi bật giữa Mỹ và Việt
Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ
đến nay, nhằm tìm hiểu sâu về mối quan hệ này trên một số lĩnh vực nổi bật như:
kinh tế, chính trị, văn hoá, Để từ đó có một số đề xuất nhằm cải thiện, và phát
huy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành tiểu luận này, cần làm sáng tỏ ba nội dung chính:
- Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
2
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
- Thực tiễn mối quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quqn hệ đến
nay
- Nêu dự đoán về triển vọng quan hệ Mỹ - Việt Nam trong tương lai và đưa ra
một số kiến nghị
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá
quan hệ đến nay.
Nhìn chung, mối quan hệ này bao gồm nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau
nhưng tiểu luận chỉ xin nghiên cứu một số lĩnh vực nổi bật trong mối quan hệ này.
Để từ đó nêu ra một số kiến nghị cũng như biện pháp giúp cải thiện mối quan hệ
giữa hai nước.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời
kỳ mới, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào
trong các luận điểm nghiên cứu , phân tích và chứng minh các khía cạnh khác nhau
của đề tài.
- Đề tài vận dụng các nghị quyết và văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam qua các thời kỳ.
Thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cùng với cơ sở lý luận trên, tiểu luận còn dùng hai phương pháp chủ yếu là:
phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử. Thêm vào đó, tiểu luận còn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như: tìm hiểu, tham khảo sách báo về thực tiễn
quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam; chọn lọc, xử lý, phân loại thông tin đã tập hợp được
kết hợp với các phương pháp so sánh, đố chiếu, quy nạp, diễn giải,
5. Đóng góp của đề tài
- Tổng hợp những tài liệu có liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ.
- Hệ thống hoá về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong chính sách
của mỗi nước.
6. Ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
3
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Việc nghiên cứu này góp phần tạo luận cứ hoạch định chính sách của Việt
Nam và Mỹ dành cho nhau; bổ sung tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học
tập chuyên ngành Thông tin đối ngoại của sinh viên khoa Quan hệ quốc tế.
7. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
- Chương 2: Về thực tiễn quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá
quan hệ đến nay )
- Chương 3: Triển vọng về quan hệ Mỹ - Việt Nam và một số kiến nghị
Cùng với phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Tiểu luận này được thực thực hiện trong tháng 5 năm 2008.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
4
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MỸ - VIỆT NAM
1.1 Tình hình thế giới
Tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh ở trong trạng thái vận hành rất phức
tạp. Có thể nói, thế giới đang ở trong một buổi giao thời đầy biến động, đầy bắt
trắc và khó xác định. Song có thể khái quát tình hình đó dưới 6 đặc điểm và 5 xu
thế như sau:
6 đặc điểm:
Đặc điểm thứ nhất: Chủ nghĩa xã hội hiện thực, Phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào, nhưng những mâu thuẫn cơ bản trên
thế giới vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức mới.
Đặc điểm thứ hai: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có bước
phát triển nhảy vọt, đạt được những thành tựu to lớn. Các nước lớn và các nước
nhỏ đều đứng trước nguy cơ thách thức, do đó đều phải điều chỉnh chiến lược
vàquốc sách của mình.
Đặc điểm thứ ba: Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước đang phát triển và
các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có
mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
Đặc điểm thứ tư: Nguy cơ chiến tranh huỷ diệt bị đẩy lùi, song chiến tranh
cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang vẫn xảy ra ở nhiều
nơi làm tình hình ở một số khu vực trở nên rất căng thẳng.
Đặc điểm thứ năm: Quan hệ giữa các nước lớn – nhân tố ảnh hưởng to lớn
đến quan hệ thế giới.
Đặc điểm thứ sáu: Nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức
bức xúc (ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, nạn ma tuý, nạn khủng bố quốc tế,
nạn đói và nạn bệnh tật, nhất là bệnh AIDS ) đòi hỏi phải có sự hợp tác chung của
cộng đồng quốc tế để từng bước giải quyết.
Cùng với những đặc điểm chủ yếu trên, thế giới vận động theo nhiều xu
thế đan xen phức tạp, trong đó nổi lên các xu thế cơ bảntrong quan hệ quốc tế
sau:
Xu thế thứ nhất: Hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn,
phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên thế giới.
Xu thế thứ hai: Các quốc gia lớn, nhỏ ngày càng tham gia nhiều vào quá
trình hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị, thương mại và nhiều
lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt, quyết
liệt.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
5
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Xu thế thứ ba: Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự cường, đấu
tranh chống can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá
dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế.
Xu thế thứ tư: Các nước Xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân,
các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên quyết dấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Xu thế thứ năm: Các nước có thể chếchính trị khác nhau vừa hợp tác vừa
đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
Những đặc điểm và xu thế trên đã quy định tính đa phương, đa dạng hoá
quan hệ quốc tế trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, trong đó có Mỹ và Việt
Nam.
Đặc điểm quan trọng là tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế
giới ngày một gia tăng, trước hết là kinh tế, khi bất cứ nước nào hay nhóm nước
nào cũng không thể tự giải quyết được những vấn đề chung của thế giới, đồng thời
mối quan hệ qua lại giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực hoạt động trở thành xu thế
tất yếu.
Những đặc điểm trên chi phối và tác động tới quan hệ Mỹ - Việt Nam ở
chỗ:
Một là: Cả việt Nam và Hoa Kỳ đều phải chú ý đến bối cảnh và đặc điểm
tình hình thế giới hiện thời để đưa ra chiến lược, chính sách đối nội và đối ngoại
thích hợp.
Hai là: Quan hệ song phương Mỹ - Việt có liên quan chặt chẽ với mối quan
hệ đa phương của cả hai bên với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa hai bên tăng tiến theo chiều hướng nào cũng tuỳ
thuộc rất nhiều vào quan hệ quốc tế nói chung và chính sách của mỗi nước nói
riêng.
Ba là: Trong lịch sử, hai nước Việt Nam và Mỹ đã từng xảy ra đối đầu kịch
liệt về quân sự. Thực tế cho thấy dư luận quốc tế có tác động, ảnh hưởng vô cùng
quan trọng đối với iễn biến của cuộc chiến tranh này. Nay, cả hai nước đều cố gắng
rút kinh nghiệm thực tế và phải tự điều chỉnh để xây dựng quan hệ với nhau trong
thời kỳ lịch sử mới.
1.2 Khái quát về quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam trước khi bình thường hoá
(trước năm 1995)
Trước hết, quan hệ Mỹ - Việt là mối quan hệ bỏ lỡ nhiều cơ hội lịch sử
Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam có nguồn gốc xa xưa và đã trải qua các bước
thăng trầm lịch sử, điều mà có thể nhiều người trong số chúng ta, kể cả người Mỹ
và người Việt ít biết đến. Mối quan hệ giữa hai nước Hoa Kỳ và việt Nam đã được
mở đầu cách đây hơn hai thế kỷ, ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ tiếng
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
6
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, Vua Tự Đức phái Sứ thần Bùi Viện mang Quốc
thư tới trình Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Ulysses Grant để yêu cầu sự giúp đỡ của
Hoa Kỳ ngăn chặn Pháp xâm lược Việt Nam.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, năm 1941, thực hiện chủ trương hợp tác
với Đồng minh chống phát xít Nhật, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ
với Mỹ và phía Mỹ tỏ ra rất quan tâm. Đến những ngày Tổng khởi nghĩa tháng
Tám, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì mối quan hệ giữa Việt minh với Đồng minh
thông qua nhóm sĩ quan Mỹ hoạt động tại căn cứ Việt Bắc. Thực hiện sự thoả
thuận giữa hai bên, phía Mỹ đã giúp Việt minh một số thuốc men, vũ khí và huấn
luyện quân sự, điện đài. Việt minh giúp Đồng minh cứu các phi công bị Nhật bắn
rơi và thông báo tình hình hoạt động quân sự của Nhật ở Đông Dương. Mặt khác,
Hồ Chí Minh thông qua Mỹ để đặt vấn đề thương lượng với Pháp về việc hợp tác
chống Nhật, khi Pháp đã bị Nhật hất cẳng khỏi Đông Dương.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập (2/9/1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều
lần gửi công hàm, điện, tới Tổng thống H. Truman, Chính phủ và Bộ ngoại giao
Mỹ, đề nghị Mỹ công nhận nền độc của Việt Nam không được Chính phủ Mỹ phúc
đáp, ngược lại, chính quyền Truman đã ủng hộ thực dân Pháp trở lại Đông Dương.
Cơ hội quan hệ Mỹ - Việt một lần nữa bị bở lỡ.
Sau ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Bộ trưởng Phạm Ngọc
Thạch thay mặt Chính phủ Việt Nam sang Thái Lan gặp đại diện Chính phủ Mỹ để
chuyển những đề nghị có tính thực tiễn của Chính phủ Việt Nam, nhưng Chính phủ
Mỹ không tiếp ứng mà còn ủng hộ, giúp đỡ quân Pháp tiến hành chiến tranh ở Việt
Nam. Cơ hội quan hệ Mỹ - Việt Nam không những tiếp tục bị bỏ qua, mà hố ngăn
cách giữa hai nước ngày càng bị chính quyền Mỹ làm trầm trọng hơn.
Chiến thắng năm 1975 đánh dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ ở Việt Nam, nhiều cơ hội mới được mở ra cho quan hệ Mỹ - Việt Nam
song những cơ hội đó đều bị bỏ lỡ, chủ yếu là do phía Mỹ không vượt qua được
cơn “Hội chứng Việt Nam”.
Sau nhiều cơ hội để thiết lập và phát triển quan hệ hai nước bị bỏ lỡ, chỉ đến
đầu những năm 90 của thế kỷ 20, quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam-
Hoa Kỳ mới được đẩy mạnh để năm 1995, hai nước chính thức lập quan hệ ngoại
giao. Đây cũng là một quá trình khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và nỗ lực rất cao
của Chính phủ và nhân dân hai nước.
Quan hệ Mỹ - Việt Nam là mối quan hệ giữa hai quốc gia đã từng đối đầu
trực tiếp với nhau trong chiến tranh có tầm cỡ thời đại
Cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và Mỹ là sự phản ánh cao nhất của
các mâu thuẫn dân tộc và đế quốc: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, cách
mạng và phản cách mạng, văn minh và bạo tàn,
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
7
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Mặc dù bản chất khác nhau, mục đích khác nhau, nhưng cái giá mà Mỹ và
Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh là rất lớn. Đối với Mỹ, đó là cái giá của
một “sai lầm khủng khiếp” (R.Mắc Namara). Đối với Việt Nam, dó là cái giá cuộc
chiến đấu bảo vệ những giá trị cao nhất của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội. Chiến tranh để lại quá nhiều vấn đề cần tháo gỡ, giải quyết cho cả
hai phía Mỹ và Việt Nam, trong đó POW – MIA chỉ là phần nổi cho tảng băng trôi.
Quan hệ Mỹ - Việt vẫn chứa đựng đối kháng về ý thức hệ và về mục tiêu
chiến lược. Đó là mối quan hệ của quốc gia xã hội chủ nghĩa với nhà dứng đầu
phe Tư bản Chủ nghĩa
Sự kết thúc chiến tranh (4/1975), sự xoá bỏ lệnh cấm vận (2/1994) và sự
bình thường hoá quan hệ (7/1995) hoàn toàn không nghĩa là đã kết thúc sự đối
kháng về ý thứ hệ và về mục tiêu chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Sự đối
kháng này không những tiếp tục tồn tại mà có lúc còn mang tính chất gay gắt và
quyết liệt hơn trước.
Trên thực tế, đối kháng trong quan hệ Mỹ - Việt được thể hiện tập trung nhất
bởi ‘diễn biến hoà bình” và “chống diễn hoà bình” với tính cách là cuộc đấu tranh
giai cấp trong bối cảnh mới. Rõ ràng, đối kháng về ý thức hệ và về mục tiêu chiến
lược là một đặc thù của quan hệ Mỹ - Việt Nam hiện nay làm cho nó khác biệt về
tính chất và tầm quan trọng so với những mối quan hệ quốc tế khác.
. Một số dấu mốc quan trọng trong quan hệ Mỹ - Việt Nam trước khi bình
thường hoá quan hệ:
- Ngày 29/9/1990: Ngoại trưởng Mỹ J. Baker và Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lần đầu tiên gặp nhau để bàn về quan hệ hai
nước tại New York.
- Ngày 9/4/1991: Mỹ đưa ra "Bản lộ trình" 4 bước về bình thường hoá quan
hệ với Việt Nam.
- Ngày 21/11/1991: Thứ trưởng ngoại giao Lê Mai và Trợ lý Ngoại trưởng
Mỹ về Đông Á-Thái Bình Dương R. Solomon đàm phán lần đầu tiên về bình
thường hoá quan hệ hai nước tại New York.
- Ngày 3/2/1994: Tổng thống Mỹ W. Clinton tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận
và lập Cơ quan liên lạc giữa hai nước.
- Ngày 26/5/1994: Việt Nam và Mỹ đạt thoả thuận mở cơ quan liên lạc ở thủ
đô hai nước.
1.3 Chính sách đối ngoại của hai nước
1.3.1 Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
8
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Khái quát đặc điểm tự nhiên, xã hội
Tên chính thức: Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (United States of America –
USA), tên ngắn gọn: Hoa Kỳ hoặc Mỹ.
Ngày quốc khánh: 4 tháng 7 (năm 1776)- Ngày độc lập
Thủ đô: Washington, DC
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam: 12 tháng 7 năm 1995
Diện tích: 9.631.418 km2, trong đó diện tích đất 9.161.923 km2, mặt nước
469.495 km2 (chỉ tính 50 bang và Quận Columbia)
Dân số: 295.734.134 người (năm 2005)
Tiền tệ: Đôla. Ký hiệu: US dollar (USD)
Tổng thu nhập quốc dân (GDP) theo sức mua: 11.750 tỷ USD (2004). Tính
theo đầu người 40.100 USD/người/năm (năm 2004)
Xuất khẩu: 795 tỷ USD (fob) (năm 2004)
Nhập khẩu: 1.476 tỷ USD (fob) (năm 2004)
So với toàn thế giới, Mỹ chiếm 7,2% về diện tích, 4,6% về dân số, 28,5% về
GDP, 9,5% về kim ngạch xuất khẩu, gần 20% về kim ngạch nhập khẩu (2004). Mỹ
đứng hàng đầu thế giới về khoa học - công nghệ, đứng thứ tư về diện tích (sau Liên
bang Nga, Canada và Trung Quốc), đứng thứ ba dân số (sau CHND Trung Hoa,
Ấn Độ), đứng thứ nhất về GDP, đứng thứ hai về xuất khẩu (sau Đức), đứng đầu về
nhập khẩu, nhiều gấp 2,5 lần nước đứng thứ hai (Đức).
Những nhân tố chi phối chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Vị thế siêu cường thế giới duy nhất
Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn duy trì được ưu thế
vượt trội ở hầu như tất cả các lĩnh vực làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Vế quân sự: Mỹ là siêu cường vượt xa tất cả các nước khác về tiềm lực, sức
mạnh quân sự - quốc phòng. Mỹ có đội quân thường trực 1,4 triệu người, được
triển khai ở 1.100 căn cứ quân sự trong nước và 270.000 quân trên 209 căn cứ
quân sự ở 35 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngân sách quốc phòng của Mỹ
chiếm trên 40% chi phí quốc phòng toàn cầu, lớn hơn chi phí quốc phòng của 11
nước đứng tiếp sau Mỹ cộng lại.
Về kinh tế: GDP của Mỹ chiếm 28,5% tổng GDP của toàn thế giới (2004).
Mỹ cũng là nước đóng vai trò chủ đạo trong các thiết chế kinh tế, tài chính, thương
mại chủ chốt của thế giới như IMF, WB, WTO
Về khoa học – công nghệ: Mỹ đi đầu trong 20/29 lĩnh vực khoa học – công
nghệ mũi nhọn của thếgiới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Bằng phát minh khoa
học của Mỹ chiếm 60% toàn bộ bằng phát minh khoa học của thế giới (từ năm
1901 đến năm 1995 trong tổng số 336 nhà khoa học được giải Nobel thì Mỹ có tới
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
9
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
179 người). Chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Mỹ chiếm 40,6%
tổng chi phí cho R&D của thế giới.
Về chính trị - xã hội: tình hình chính trị - xã hội của Mỹ nhìn chung ổn định
với sự thay nhau cầm quyền, điều hành đất nước của hai đảng tư sản lớn - Đảng
Dân chủ và Đảng Cộng hoà.
Tóm lại, vị thế siêu cường thế giới duy nhất chính là nhân tố đóng vai trò chi
phối chiến lược và chính sách đối ngoại sau Chiến tranh lạnh của Mỹ.
Những biến động của môi trường an ninh thế giới sau Chiến tranh lạnh
Với tư cách là siêu cường thế giới duy nhất, trước mắt, Mỹ không gặp phải
thách thức quân sự - an ninh từ bất cứ quốc gia nào. Nhưng Mỹ lại đang đứng
trước những đe doạ an ninh mới, được coi là “ phi truyền thống, không cân xứng”.
Đó là việc không ngăn được sự phổ biến của vũ khí giết người hàng loạt; sự gia
tăng chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức, xung đột lãnh thổ, sắc tộc
tôn giáo
Những xu hướng vận động khách quan của các mối quan hệ quốc tế hiện đại
Sau chiến tranh lạnh, các chủ thể quan hệ quốc tế cũng như hệ thống các
quan hệ quốc tế có những thay đổi, biến chuyển rất lớn. Ý thức độc lập tự chủ, tự
cường của các nước vừa và nhỏ, các nước đang phát triển trỗi dậy mạnh mẽ. Họ
liên kết với nhau trong các tổ chức khu vực như ASEAN, MERCOSUR, EU,
Phong trào không liên kết nhằm chống lại mưu toan chèn ép của các nước phát
triển trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, cùng với sự phát triển sâu rộng của xu thế
toàn cầu hoá là sự gia tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữ các quốc gia dân tộc trong
cộng đồng quốc tế. Lúc này, quan hệ quốc tế không còn là các quan hệ dựa trên
yếu tố ý thức hệ là chính, mà dựa trên lợ ích quốc gia là chính.
Tất cả các nhân tố trên đã tác động, ảnh hưởng hoặc chi phối việc hoạch
định, thực thi và điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ.
Mục tiêu và nội dung chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh
Mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là xác lập vai trò bá quyền thế
giới của Mỹ trong tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế - thương mại,
quân sự - an ninh. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn Tổng thống lại có sự điều chỉnh khác
nhau. Chính quyền của Đảng Cộng hoà mang đậm tính chất cứng rắn và đơn
phương hơn so với chính quyền của Đảng Dân chủ.
Ba mục tiêu trụ cột và ba nhóm lợi ích quốc gia
Để thực hiện mục tiêu chiến lược bao trùm trên, hính quyền Mỹ tập trung
vào các mục tiêu được coi là trụ cột, là căn cứ, là cơ sở trong tổng thể chiến lược
đối nội và đối ngoại của Mỹ như sau:
Một là: Củng cố và tăng cường an ninh cho Mỹ và đồng minh của Mỹ.
Hai là: Bảo đảm sự thịnh vượng kinh tế cho nước Mỹ.
Ba là: Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
10
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Chính quyền Mỹ có ba lợi ích quốc gia ở ba mức độ khác nhau như sau:
Thứ nhất: Các lợi ích quốc gia quan trọng sống còn.
Thứ hai: Các lợi ích quốc gia quan trọng.
Thứ ba: Các lợi ích ngoại vi hay các lợi ích nhân đạo và các lợi ích khác.
Một số điều chỉnh chiến lược đối ngoại qua ba đời Tổng thống sau Chiến
tranh lạnh
Thời Tổng thổng G. Busơ (cha) (1989-1992)
G. Busơ (cha) lên làm Tổng thống Mỹ từ đầu năm 1989 trong bối cảnh thế
giới đang có nhiều thay đổi nhanh chóng, nhất là khu vực Trung Đông Âu và Liên
Xô. Nắm bắt được thời cơ thuận lợi, G. Busơ (cha) đã điều chỉnh chiến lược đối
ngoại Mỹ từ “Ngăn chặn” (Containment Strategy) sang “Vượt trên ngăn chặn”
(Beyond Containment). Thực chất của chiến lược mới này là lợi dụng các cuộc
khủng hoảng trầm trọng ở Trung Đông Âu và Liên Xô để đẩy nhanh hơn nữa chiến
lược “Diễn biến hoà bình” ở khu vực này, lái các nước này đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản, vào vòng kiểm soát của Mỹ.
Sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Trung Đông Âu bị lật
đổ, Tổng thống G. Busơ (cha) càng ra sức phô trương thanh thế và chuyển mục
tiêu sang xây dựng “một trật tự thế giới mới” với quyền thống soái của Mỹ.
Thời Tổng thống B. Clintơn (1993-2000)
Với mục tiêu chiến lược bao trùm là “lãnh đạo thế giới”, Tổng thống B.
Clintơn đã từng bước điều chỉnh từ chiến lược “Vượt trên ngăn chặn” sang “Chiến
lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” (A National Sercurity Strategy of
Engagement and Enlargement). Nếu như mục tiêu chiến lược không thay đổi, thì
chính quyền B. Clintơn có sự điều chỉnh rõ rệt trong cách thức triển khai chiến
lược toàn cầu của Mỹ.
Chính quyền Clintơn “Cam kết” về vai trò “lãnh đạo thế thới”, về tiếp tục
can dự vào các công việc và thể chế quốc tế, về tiếp tục dẫn dắt nền kinh tế thế giới
theo hướng tự do hoá và toàn cầu hoá. Còn “Mở rộng” được hiểu là Mỹ sẽ
khuyếch trương mở rộng các cộng đồng tự do, các nền dân chủ, thực chất là
khuyếch trương, mở rộng dân chủ Mỹ, giá trị Mỹ, mô hình Mỹ ra toàn thế giới. Có
thể thấy nước Mỹ dưới thời Clintơn đã chuyển từ vai trò “sen đầm quốc tế” sang
“lãnh đạo thế giới”. Nhưng thực chất của chiến lược Cam kết và Mở rộng là xác
lập hệ tư tưởng tư sản, các giá trị phương Tây, chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa,
mô hình kinh tế - xã hội tự do mới và sức mạnh áp đảo của Mỹ trên phạm vi toàn
cầu nhằm giành chiến thắng hoàn toàn đối với chủ nghĩa cộng sản.
Thời Tổng thống G. Busơ (con) (2001-2009)
Ngay sau khi lên làm cầm quyền, Tổng thống G. Busơ (con) đã thực thi một
chính sách đối ngoại khá cứng rắn chẳng những với các “nhà nước cứng đầu” như
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
11
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Irắc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, mà cả với những “đối tác chiến lược
lớn” như Nga và Trung Quốc. Nhưng sự kiện 11/9/2001 đã cho thấy các nguy cơ,
thách thức đối với an ninh Mỹ trở nên hết sức phức tạp và khó lường.
Từ thực tế đó, Chính quyền Busơ (con) đã có một số điều chỉnh về chiến
lược như sau: Chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược, an ninh quân sự trở
thành trụ cột hàng đầu; hành động đơn phương theo đuổi mục đích; Châu Á – Thái
Bình Dương trở thành trọng điểm số 1.
Ngày 20/9/2002, Chính quyền G. Busơ (con) đã đưa ra “Chiến lược an ninh
quốc gia - thời kỳ mới” để cụ thể hoá chiến lược đối ngoại trong tình hình mới
nhằm duy trì, củng cố, mở rộng vị thế của Hoa Kỳ như một siêu cường. Trong đó,
nội dung khởi xướng của “Chiến lược an ninh quốc gia - một thời mới” gồm những
điểm sau:
Một là: Chống chủ nghĩa khủng bố được dặt nên hàng đầu trong chiến lược
an ninh.
Hai là: Đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu thông qua thị trường tự do
và thương mại tự do.
Ba là: Thúc đẩy các giá trị dân chủ, nhân quyền, đấu tranh cho những khát
vọng về nhân phẩm.
Bốn là: Xây dựng chương trình nghị sự cho hoạt động hợp tác với các trung
tâm quyền lực thế giới chính.
Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Việt Nam
Có thể thấy rằng, chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một bộ
phận nằm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí của Việt
Nam ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó gồm cả Đông Nam Á.
Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam gồm những trọng điểm sau:
Thứ nhất: Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội
xoá bỏ những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết những hậu quả chiến
tranh, tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo điều kiện cho Mỹ thoát
khỏi “hội chứng Việt Nam”, đồng thời mở đường cho các nhà kinh doanh Mỹ thâm
nhập vào thị trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại lợi nhuận, việc làm và
lợi thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại toàn cầu hiện nay.
Thú hai: Thông qua vị trí và vai trò của Việt Nam, Mỹ kiềm chế các đối tác
lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Nga, Nhật Bản, Trung Quốc )
Việt Nam có mối quan hệ với tất cả các nước lớn, nên Mỹ muốn tác động tới
Việt Nam để giành lợi thế hơn so với các nước khác. Còn với Trung Quốc, Việt
Nam là nước ở ngay cạnh Trung Quốc nên Mỹ tính toán triệt để lợi dụng Việt Nam
trong quan hệ Mỹ - Trung, không để Việt Nam và Trung Quốc liên kết với nhau
với vai rò hai nước chủ nghĩa xã hội.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
12
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Thứ ba: Mỹ theo đuổi chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hoà bình” để
chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và bản chất xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam.
1.3.2 Chính sách đối ngoại của việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Khái quát đặc điểm tự nhiên xã hội
Tên chính thức: Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày quốc khánh: 02 tháng 09 (năm1945) – Ngày độc lập
Thủ đô: Hà Nội
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ ngày: 12 tháng 7năm 1995
Diện tích: 334.960 km2, trong đó diện tích đất là 331.700 km2, diện tích mặt
nước là 3.260 km2.
Dân số: 83,1199 triệu người (năm 2005)
Tổng thu nhập quốc dân (GDP): 44,5 tỷ USD (năm 2004)
Quá trình hình thành tư duy đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt
Nam
Trong Đại hội của Đảng lần VII, Đảng Cộng sản việt Nam xác định rõ:
đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm khai thác
tốt nhất các nhân tố quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển của đất nước, đồng thời
mở rộng và phát huy vị thế của dân tộc Việt Nam, đóng góp với cộng đồng quốc tế
trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển.
Từ nhận thức đúng đắn của đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã dần dần hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Đại hội mở đầu thời kỳ
đổi mới, Đảng Cộng sản chủ trương cần phải thực hiện sách lược thêm bạn bớt thù,
phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Chủ trương về đối ngoại là mở cửa và hội nhập
quốc tế, quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Trong những năm tiếp theo, khi thực hiện và duy trì đường lối đối ngoại của
mình, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động
hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển"
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ
hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ,
trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực,
với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương
Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
13
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp
tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết
như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên
giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung
Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xia Các mối quan hệ
song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng
cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung
quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra
rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh
thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực
như ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn
đàn á - Âu (ASEM) và phát huy tích cực các yếu tố thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động
của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam
ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và sẽ tiếp tục làm tốt vai
trò, nhiệm vụ của mình ở vị trí thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an
Liên Hợp Quốc.
Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những
vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt
Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để
cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, Đặc biệt
từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các
nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa phương
nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định của các
quốc gia.
Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình
đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển.
Nhiệm vụ, phương châm, phương hướng hoạt động đối ngoại hiện nay
Nhiệm vụ hoạt động đối ngoại
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
14
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là sự kế tục tư tưởng
đối ngoại của Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam, là sự tiếp tục
đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Hoạt động đối ngoại nhằm khai thác tốt nhất nhân tố quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính
sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới, trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa, các Đảng Cọng sản và công nhân, các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đồng thời, tăng cường hợp tác với
các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước trong khu vực, cùng đó
là phát triển quan hệ với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị trên
thế giới.
Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập
thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, cùng đó phải rất sáng tạo, năng động, linh
hoạt trong xử lý các tình huống phù hợp vị trí, điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam,
với diễn biến của tình hình thế giới và các đối tác quan hệ.
Mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ
các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổchức khu vực và quốc tế theo các
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực; bình
đẳng và cùng có lợi; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
Phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, tại Đại hội VII, Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ ba – khoá VII (6/1992) đã đề ra bốn phương châm xử lý
trong quan hệ đối ngoại mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo.
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Công tác đối ngoại vừa phục vụ lợi ích chân
chính của dân tộc vừa góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Khi thực hiện nghĩa vụ
dân tộc, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn luôn luôn chú ý mối quan hệ quốc tế,
đoàn kết và hợp tác với các nước, các tổ chức, các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Nhân tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam đó là việc xác định cách mạng
việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, sức mạnh dân tộc kết hợp chặt
chẽ với sức mạnh thời đại.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương hoá,
đa dạng hoá mối quan hệ đối ngoại. Tuy nhiên, vẫn luôn giữ vững nguyên tắc tôn
trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hai bên cùng có lợi, bảo đảm an ninh
quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, để hoà nhập nhưng không
hoà tan.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
15
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Tránh
thiên hướng chỉ nhấn mạnh hợp tác, hoặc chỉ nhấn mạnh đấu tranh. Lợi ích trùng
thì hợp tác, lợi ích không trùng thì đấu tranh. Vì thế, trong hợp tác phải có đấu
tranh nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, thiết lập quan hệ bình đẳng,
cùng có lợi, cung tồn tại hoà bình. Thực hiện tốt hai mặt hợp tác và đấu tranh còn
nhằm tranh thủ tập hợp lực lượng, tránh khuynh hướng của các lực lượng thù địch,
không thân thiện, lợi dụng hợp tác để phân hoá, cô lập ta trên trường quốc tế.
Bốn là: Tham gia hợp tác khu vục, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước. Trong hoạt động đối ngoại, chúng ta vừa coi trọng mở rộng quan hệ với các
nước, các tổ chức quốc tế, các đảng phái chính trị, vừa chú trọng hợp tác khu vực,
nhất là đối với các nước láng giềng, tranh thủ thế mạnh của các nước, tạo lợi thế
cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Đó là chính sách nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
Phương hướng hoạt động đối ngoại
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của
các nước, chúng ta chủ trương:
- Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các
nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các
nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh, các nước
trong phong trào không liên kết – thúc đẩy phát triển đa dạng với các nước phát
triển và các tổ chức quốc tế.
- Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản
và công nhân, với các đảng cánh tả , các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc,
với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
- Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
- Chủ động hội nhập, quốc tế, mỏ rộng hoạt động đối ngoại nhân dân. Tăng
cường quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước,
nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
Việt Nam tăng cường quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào, củng cố tình hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt giữa
hai đảng và nhân dân hai nuớc.
Việt Nam kiên trì chính sách ủng hộ một nước Campuchia hoà bình độc lập,
không liên kết, có quan hệ hữu nghị với tất cả các nước.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã mở ra một giai
đoạn mới trong quan hệ giữa các nước Đông Nam Á, phù hợp với xu thế hoà bình,
ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực. Việc ra nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) không những tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy quan hệ kinh tế -
thương mại, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ và tận dụng những ưu đãi
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
16
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
về thương mại với các nền kinh tế mạnh trên trường quốc tế mà còn góp phần nâng
cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và thế giới.
Việt Nam xây dựng mối quan hệ ổn định, lâu dài, hữu nghị, láng giềng thân
thiện với Trung Quốc trên cơ sở 16 chữ vàng“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” ; chủ trương giải quyết vấn đề biên giới
đường bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ bằng đàm phán thương lượng.
Củng cố tình đoàn kết với Cuba, kiên quyết củng cố cuộc đấu tranh đòi Mỹ
xoá bỏ cẩm vận đối với Cuba. Thúc đẩy quan hệ với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước Triều Tiên. Việt Nam
tăng cường hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ và mở rộng hợp
tác với các nước ở khu vực Nam Á.
Xác lập quan hệ với các nước, các khu vực có tiềm năng kinh tế như xuất
khẩu dầu mỏ, các nước có nhu cầu thị trường lao động, lương thực ở Trung Đông
và Châu Phi, mở ra một thị trường hành hoá và lao động có ý nghĩa cho Việt Nam.
Thúc đẩy quan hệ với các nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Liên Bang Nga,
Anh, Pháp và các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô trước đây, những nước đã từng
là đối tác và thị trường truyền thống của Việt Nam, để tranh thủ xu thế mở rộng thị
trường của các nước.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
17
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
CHƯƠNG 2
VỀ THỰC TIỄN QUAN HỆ MỸ - VIỆT NAM TỪ KHI BÌNH THƯỜNG
HOÁ QUAN HỆ ĐẾN NAY (1995 ĐẾN NAY)
2.1 Trong lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao
Mười ba năm vừa qua, hai nước đã có những bước đi tích cực để phát triển quan hệ
song phương. Về mặt chính trị, hai nước đã tiến hành trao đổi các đoàn ở hầu hết các cấp,
các ngành. Các cuộc thăm viếng đó, nhất là ở cấp cao như cấp Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại
giao, Cố vấn An ninh Quốc gia… của Mỹ thăm Việt Nam và các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng
Ngoại giao,Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Thương mại… của Việt Nam thăm Mỹ, ngoài ra
hai nước còn có các cuộc tiếp xúc cấp cao tại các diễn đàn đa phương và việc trao đổi các
đoàn nghị sĩ, đoàn của các tổ chức nhân dân. Các cuộc đàm phán, tiếp xúc này đã từng
bước giúp xác định được một khuôn khổ cho mối quan hệ ổn định, lâu dài vì lợi ích của nhân
mỗi nước và vì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Cũng cần nhấn
mạnh rằng hơn 10 năm qua, hàng trăm đoàn đại biểu của các tổ chức nhân dân, tổ chức phi
chính phủ và hàng nghìn người đã cố gắng tìm các biện pháp đóng góp thiết thực cho phát
triển quan hệ giữa hai nước.
Về việc giải quyết những hậu quả do chiến tranh để lại, hai bên đã hợp tác trong
việc giải quyết vấn đề người mất tích MIA. Việt Nam đã cùng với phía Mỹ tổ chức 81 đợt
khai quật ở khắp các địa phương trong cả nước để tìm kiếm hài cốt lính Mỹ trả lại cho phía
Mỹ. Trong thời gian qua, phía Mỹ đã bắt đầu hợp tác trong việc cung cấp những thông tin
nhất định để hỗ trợ Việt Nam tìm kiếm người Việt Nam mất tích.
Đáng chú là trong những năm qua, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nhân
đạo và từ thiện của Mỹ, cùng với các tổ chức chính trị - Xã hội Việt Nam, đã đi đầu trong
việc khai thông quan hệ giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho lãnh đạo hai nước có
những quyết định chính trị để bình thường hóa và phát triển quan hệ. Gần 300 các tổ chức
phi chính phủ của Mỹ đã làm việc tại Việt Nam và trong những năm qua, đã thực hiện hàng
ngàn dự án về viện trợ khẩn cấp, khắc phục hậu quả thiên tai, hậu quả chiến tranh, giúp đỡ
người tàn tật, người già, trẻ em và xây dựng trường học, bệnh viện… Đặc biệt, trong lúc Mỹ
vẫn còn lẩn tránh những vấn đề liên quan đến hậu quả của chất độc Da Cam/dioxin, các tổ
chức phi chính phủ của Mỹ đã tiếp cận vấn đề này. Ở đây, cần nhấn mạnh vai trò của các tổ
chức cựu chiến binh Mỹ và cựu chiến binh Việt Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều cựu
binh Mỹ đã mong muốn làm những điều gì đó tốt cho Việt Nam hôm nay. Trong thực tế, họ
đã làm được nhiều việc, và cùng với các cựu chiến binh Việt Nam, họ đã góp phần tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.
Trong thời gian từ khi bình thường hoá quan hệ tới nay, Mỹ và Việt Nam đã
trao đổi nhiều đoàn cấp cao sang thăm lẫn nhau, và có ký kết một số hiệp định quan trọng
(Xem phần phụ lục)
Ngoài ra, lãnh đạo cấp cao hai nước đã có các cuộc gặp gỡ tại nhiều Diễn
đàn đa phương trên thế giới. Mục đích các chuyến thăm và gặp gỡ là sự tăng cường
hiểu biết giữa hai bên và thảo luận về những vấn đề trong quan hệ song phương và
những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm.
Những năm qua, còn có hàng trăm đoàn với hàng nghìn người Mỹ từ các
tầng lớp, ở nhiều bang khác nhau đã thăm Việt Nam. Đồng thời cũng có nhiều
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
18
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
đoàn Việt Nam thăm Mỹ. Người Mỹ đến Việt Nam được tiếp xúc với tình hình
thực tế đã xoá bỏ mặc cảm với sự hiểu biết mới về sự phát triển của đất nước và
thiện chí của nhân dân Việt Nam. Nhiều người trong số họ, sau chuyến đi, trở
thành những cầu nối quan trọng trong việc vận động, kiến nghị chính quyền, Quốc
hội Mỹ có biện pháp thúc đẩy quan hệ giữa hai nước.
Một điều nữa phải kể đến, đó là từ hoạt động ngoại giao nhân dân, hai bên
đã có dịp trao đổi thông tin, tìm hiểu luật pháp của Mỹ, thị trường Mỹ, vận động
thành lập các quỹ hỗ trợ nhân đạo, giáo dục tại Việt Nam.
Hiện nay, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn mới, quan hệ
đối ngoại nhân dân càng có điều kiện phát triển. Với tinh thần "gác lại quá khứ,
hướng tới tương lai", chắc chắn, hoạt động ngoại giao nhân dân sẽ góp phần đáng
kể giúp chuyển biến quan hệ giữa nhân dân hai nước từ tinh thần "hoà giải" đến
"quan hệ hợp tác hữu nghị" có lợi cho cả hai bên và cho hoà bình, ổn định của khu
vực và thế giới.
Trong các hiệp định đã ký, phải kể tơi hiệp định khung Thương mại và Đầu tư (TIFA) tại
Washington DC, Hoa Kỳ.
Theo Hiệp định TIFA hai bên sẽ thành lập một Hội đồng hợp tác song
phương mà đứng đầu hai bên đã được nâng lên lãnh đạo cấp Bộ trưởng để có
những thẩm quyền và trách nhiệm lớn hơn trong việc bàn những định hướng và
chính sách lớn, những sáng kiến hợp tác mới thúc đẩy quan hệ song phương cũng
như các biện pháp giải quyết vướng mắc trong quan hệ hợp tác kinh tế thương mại
hai bên bao gồm cả những khó khăn, kiến nghị hiện nay của doanh nghiệp hai
nước.
Hai nước đã bắt đầu thảo luận về TIFA kể từ đầu năm 2007, sau khi Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. TIFA tạo dựng một nền tảng để
hai nước có thể phát triển quan hệ thương mại đầu tư sâu rộng hơn qua WTO và
BTA, và giải quyết những tranh chấp thương mại song phương. TIFA sẽ trở thành
một diễn đàn để hai nước đánh giá việc thi hành quy chế WTO và BTA, đặc biệt
việc thực hiện những cam kết về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, mở rộng thị
trường dịch vụ, minh bạch về hành chính và luật pháp.
Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây của Tổng thống Mỹ George Bush vào
tháng 11/2006, hai bên đã ra tuyên bố chung trong đó khẳng định quyết tâm bảo
đảm cho quan hệ song phương ổn định, xây dựng, có nền tảng rộng lớn và được
tiến hành trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền và cùng có lợi.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
19
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
2.2 Trong lĩnh vực Kinh tế - Thương mại
Trong quan hệ hai nước, hợp tác kinh tế - thương mại luôn là lĩnh vực trọng
tâm và cũng là lĩnh vực đạt được nhiều kết quả tích cực nhất.
Trong lĩnh vực thương mại
Kể từ khi Việt nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao và sau 5 năm ký
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (năm 2000), quan hệ buôn
bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được những bước phát triển mới. Xuất khẩu
của Việt Nam vào Mỹ đã tăng mạnh (nếu năm 1995 mới đạt 169,7 triệu USD, năm
2000 mới đạt 732,8 triệu USD, thì năm 2006 đã đạt 8,6 tỉ USD). Năm 2006 đã gấp
nhiều lần năm 1995 và năm 2000 (gấp hơn 50 lần năm 1995 bình quân 1 năm tăng
42,9%, gấp 11,7 lần năm 2000 bình quân 1 năm tăng 50,7%), đều cao hơn nhiều
các chỉ số tương ứng của tổng kim ngạch xuất khẩu trong cùng thời gian của Việt
Nam (2,75 lần và 18,4%/năm). Tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vì thế đã tăng nhanh qua các năm (năm 1995 mới đạt
3,1%, năm 2000 mới đạt 5,1% thì đến năm 2006 đã đạt 21,6%) và Mỹ đã vượt qua
Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Bước sang năm
2007, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tiếp tục tăng cao hơn tốc độ chung (bốn
tháng đầu năm đạt 2,8 tỉ USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ, trong đó dệt may đạt 1,2
tỉ USD, tăng 32,9% và chiếm 45% tổng kim ngạch dệt may của Việt Nam; giày
dép đạt 290 triệu USD, tương ứng chiếm 24,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 267 triệu
USD, tương ứng chiếm 35,3%).
Đáng lưu ý, trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Việt Nam, Việt Nam có
vị thế xuất siêu. Mức xuất siêu đã tăng nhanh và hiện đạt quy mô khá lớn (năm
2000 mới đạt 0,4 tỉ USD, thì năm 2006 đạt 7,5 tỉ USD). Tuy nhiên, xuất khẩu vào
Mỹ đang gặp khó khăn, hiện đang bị chững lại do Mỹ thực hiện Chương trình giám
sát hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam - một chương trình phi lý về ba
mặt (Việt Nam không cạnh tranh với sản xuất dệt may trong nước của Mỹ vì Mỹ
không sản xuất hàng dệt may hàng loạt; kim ngạch dệt may của Việt Nam vào Mỹ
chỉ chiếm chưa đến 3% tổng kim ngạch dệt may nhập khẩu của Mỹ, Việt Nam
đứng thứ 8 trong các nước xuất khẩu vào Mỹ nhưng chỉ có Trung Quốc và Việt
Nam là 2 nước có nền kinh tế chuyển đổi lại bị giám sát, còn 6 nước đứng trên Việt
Nam lại không bị, chứng tỏ Mỹ đối xử không công bằng).
Hiện tại, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 43 của Hoa Kỳ với kim
ngạch thương mại hàng hóa năm 2006 đạt 9,7 tỉ đô la, trong đó Hoa Kỳ xuất khẩu
sang Việt Nam 1,1 tỉ đô la. So với năm 2001, kim ngạch thương mại hai chiều đã
tăng trưởng tới 500%.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
20
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Hiện Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 5 mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là: Dệt may, thủy sản, giày dép, đồ gỗ nội thất và
nông lâm sản. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá cao bởi sự
cạnh tranh về giá, mẫu mã và chất lượng. Hàng dệt may đứng vị trí thứ 5 trong
trong số khoảng 10 nước xuất khẩu mặt hàng này vàoHoa Kỳ. Mặt hàng gỗ cũng
khẳng định được vị thế của mình ở thị trường Hoa Kỳ với mẫu mã, chất liệu phong
phú và đa dạng, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 10 trong số các nhà xuất khẩu đồ gỗ
lớn nhất vào Hoa Kỳ. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào
Hoa Kỳ tăng trung bình 40-50%/năm và trở thành nước cung ứng giày dép lớn thứ
4 vào Hoa Kỳ, (sau Trung Quốc, Italia và Braxin).
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Hoa Kỳ
(Đơn vị tính: Triệu USD)
Năm
VN xuất sang
Hoa Kỳ
VN nhập từ Hoa
Kỳ
Tổng
kim
ngạch
2004 5275,8 1163,4 6439,2
2003 4554,9 1324,4 5879,3
2002 2394,8 580,0 2974,8
2001 1053,2 460,4 1513,6
2000 821,3 367,5 1188,8
1999 608,4 291,5 899,9
1998 554,1 273,9 828,0
1997 388,4 286,7 675,1
1996 331,8 616,6 948,4
1995 199,0 252,3 451,3
1994 50,5 172,9 223,4
5 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hoa Kỳ
(triệu USD)
Thứ tự Nhóm hàng 2002 2003 2004
1 Dệt may 971,34 251,10 2755,90
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
21
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
2 Thuỷ sản 617,03 730,50 565,58
3 Giày dép 224,20 324,80 473,40
4 Nông lâm sản 179,20 236,20 359,50
5 Đồ gỗ 81,80 189,60 388,60
Tổng kim
ngạch
2.390 4.470 5.200
Nhìn chung, quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ trong những năm qua
được đánh giá là tích cực thể hiện qua việc tăng trưởng liên tục với tốc độ cao tổng
kim ngạch buôn bán giữa hai nước. Tuy nhiên trong mối quan hệ này giữa hai
nước vẫn còn nhiều bất đồng, vướng mắc liên quan tới việc bảo hộ c ác mặt hàng
thuỷ sản (cá Bas sa, cá Tra, tôm), hàng dệt may, giầy dép của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ hay
viện dẫn đến chính sách giá cả (trợ cấp giá cá, bán phá giá, ), chất lượng sản
phẩm hoặc cơ chế của nền kinh tế (kinh tế thị trường) để gây sức ép lên các doanh
nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ với Hoa Kỳ. Ngoài ra, các biện pháp bảo hộ
sản xuất nội địa của Mỹ cũng đang tạo ra những rào cản cho hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là hai vụ kiện "bán phá giá" cá da trơn và tôm
đông lạnh.
Cùng với những thuận lợi khách quan, trong những năm qua các doanh
nghiệp Việt Nam cũng đã không ngừng đầu tư và phát triển sản xuất, đổi mới công
nghệ, nhờ đó khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế đã
được cải thiện, cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú hơn.
Trong bối cảnh chung của quan hệ giữa hai nước đang từng bước được cải
thiện, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận và hiểu biết hơn về thị
trường Mỹ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Thượng vụ Việt nam tại Mỹ, năng lực cung
cấp hàng hoá và khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung vẫn
hạn chế.
Một trong những điểm yếu đễ thấy của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường Mỹ là quy mô sản xuất nhỏ, nên không đủ khả năng đáp ứng những đơn
hàng lớn.
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
22
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Trong lĩnh vực đầu tư
Tính 2004, Hoa Kỳ đã có 259 dự án đầu tư trực tiếp được cấp phép hoạt
động tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD; trong đó có 219 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD. Đầu tư của Hoa Kỳ tăng nhanh ở
Việt Nam với số lượng 278 hội viên Phòng thương mại đang hoạt động trong nhiều
ngành sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ. Hiện Hoa Kỳ là 1 trong 10 nước
và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với 800 doanh nghiệp đang hoạt
động tại 29 tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam tuy đứng sau nhiều nước nhưng hiện
đang đứng vị trí cao cả về hai nghĩa. Một mặt, lượng vốn tính đến hết tháng 3.2007
đã đạt 2.302 triệu USD, đứng thứ 8 trong hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào
Việt Nam. Mặt khác, đó là những dự án có kỹ thuật - công nghệ khá cao, phần
nhiều đều thuộc công nghệ nguồn. Hiện có hơn 1.000 doanh nghiệp Hoa Kỳ đang
hoạt động tại Việt Nam.
Các lĩnh vực mà các nhà đầu tư Hoa Kỳ tập trung đầu tư là: Công nghiệp,
xây dựng, dầu khí, nông, lâm, ngư nghiệp
Hình thức đầu tư: đầu tư 100% vốn nước ngoài là hình thức được các nhà đầu
tư Hoa Kỳ lựa chọn phổ biến khi đầu tư vào Việt Nam, chiếm 74,9% số dự án; đầu
tư theo hình thức liên doanh chiếm 18,7% số dự án. Số còn lại thuộc hình thức hợp
tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò và khai thác
dầu khí.
Hiện nay, trong tổng số 2,7 triệu Việt kiều trên toàn thế giới, cộng đồng
người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ chiếm khoảng 1,4 triệu người; trong đó hơn
200.000 người là trí thức (có văn bằng cử nhân trở lên).
Hiện Việt kiều tại Hoa Kỳ có khoảng 20 dự án đầu tư vào Việt Nam theo luật đầu
tư nước ngoài với tổng số vốn 85 triệu USD và 650 doanh nghiệp hoạt động theo
luật Khuyến khích đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 88 tỷ đồng (trên tổng số
74 dự án và 1200 doanh nghiệp có vốn đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài).
Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam
(Đơn vị tính: Đôla Mỹ)
Năm Số dự án Vốn đầu tư
2004 30 74.936.765
2003 27 84.415.000
2002 39 162.812.397
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
23
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
2001 28 139.564.000
2000 15 81.685.000
1999 19 135.634.112
1998 17 125.143.156
1997 14 273.960.626
1996 14 143.760.139
1995 25 534.816.775
1994 21 233.663.336
1993 1 200.000
1992 2 1.677.000
1991 3 18.939.106
1990 1 625.000
1989 2 1.660.000
1988 1 280.000
Tổng số 259 2.013.772.412
Viện trợ kinh tế của Mỹ dành cho Việt Nam cũng tăng nhanh trong thập kỷ
qua. Tổng giá trị các chương trình viện trợ do Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ
(USAID) giám sát và thực hiện ở Việt Nam đã tăng từ khoảng 2 triệu USD năm
1996 lên 12,5 triệu USD năm 2003. USAID có kế hoạch viện trợ cho Việt Nam 11
triệu USD trong tài khoá 2004 và 13 triệu USD trong tài khoá 2005.
Theo báo cáo của Cơ quan Nghiên cứu của Quốc hội Mỹ (CRS), tổng viện
trợ của Mỹ cho Việt Nam, kể cả các chương trình của USAID, trong tài khoá 2003
đã lên tới 40 triệu USD. Các chương trình viện trợ lớn của Mỹ cho Việt Nam gồm
phòng chống HIV/AIDS, chăm sóc trẻ em, trao đổi giáo dục, trợ giúp lương thực
thực phẩm và hỗ trợ cho việc thực hiện BTA.
2.3 Trong các lĩnh vực khác
An ninh- Quân sự
Hoa Kỳ và Việt nam đã và đang hợp tác trong một số lĩnh vực chốnh khủng
bố, trong đó Việt Nam yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ hợp tác ngăn chặn
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
24
Quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
Và nghiêm trị những tổ chức và cá nhân có hành động khủng bố chống Việt nam.
Việt Nam và Hoa Kỳ đã trao đổi Tuỳ viên quân sự vào năm 1995 và 1997.
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ tới nay, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn, kể cả
các đoàn cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng. Trong đó phải kể tới những
chuyến thăm quan trọng như:
- Ngày 13/3/2000: Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen thăm Việt Nam.
Đáp lại, vào Tháng 11/2003: Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà thăm
Hoa Kỳ. Tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã thăm Việt Nam. Tàu
hải quân Hoa Kỳ thăm hữu nghị cảng Việt Nam vào tháng 11/2003 và tháng
7/2004.
Khoa học-Công nghệ, Văn hóa, Du lịch, Giáo dục-đào tạo, Y tế và Lao
động
Du lịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam hàng năm tăng nhanh, tạo điều kiện tốt
hơn cho quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch giữa hai nước. Đến tháng
11/2004 đạt 247.221 lượt khách, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2003 và Hoa Kỳ
đã trở thành nước thứ 2 (sau Trung Quốc) về số lượng khách du lịch vào Việt
Nam. Đường bay thẳng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vừa được nối lại sau 30 năm
gián đoạn.
Lượng khách đến Việt Nam cũng đã tăng nhanh qua các năm, năm 2006 đạt
trên gần 386 nghìn lượt người, đứng thứ ba trong các nước và vùng lãnh thổ. Thời
gian lưu trú của Việt Nam dài, mức chi tiêu khá, nên tổng số tiền khách Mỹ chi
tiêu ở Việt Nam lớn nhất, lên đến trên nửa tỉ USD, chiếm 16% tổng số tiền chi tiêu
của khách quốc tế đến Việt Nam.
Hai nước đã ký kết nhiều văn bản: Bản Ghi nhớ (MOU) cấp Bộ như: Tuyên
bố chung về hợp tác y tế giữa hai Bộ Y tế (12-1997); Thỏa thuận hợp tác về thể
dục thể thao (tháng 3-1999);Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực Khí tượng Thủy
văn (1-2001); Biên bản Ghi nhớ giúp đào tạo nhân lực cho ngành Thủy sản Việt
Nam (11-3-2003); Bản ghi nhớ về hợp tác lao động Việt Nam-Hoa Kỳ (ký ngày
17/11/2000)
Viện Giáo dục quốc tế của Hoa Kỳ mở văn phòng đại diện ở Việt Nam từ
năm 1992, bắt đầu bằng các chương trình giới thiệu giáo dục và cấp học bổng Hoa
Kỳ cho sinh viên Việt Nam. Năm 2003, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết nguyên tắc
hợp tác trong việc thực hiện Đề án Quỹ giáo dục của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam
(VEF), VEF với ngân sách hàng năm 5 triệu USD kéo dài trong 10 năm đang góp
phần đáng kể vào việc đào tạo các chuyên gia thuộc nhiều ngành khoa học kỹ thuật
cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đang dành khoảng 4 triệu USD mỗi năm cho chương
Nguyễn Hoàng Việt Anh - TTĐN K25
25