Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu và tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ khi mở cửa thị trường cho đến nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 25 trang )

- 1- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Bài tập nhóm
Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
và tổng quan về hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam từ khi mở cửa
thị trường cho đến nay
- 2- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ KHI
MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG CHO ĐẾN NAY.
I.Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu:
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu:
a. Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu là sự
trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa
các nước thông qua hành vi
mua bán.Sự trao đổi đó là một
hình thức của mối quan hệ xã
hội và phản ánh sự phụ thuộc
- 3- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các
quốc gia khác nhau trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn
trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia nói chung và công nghiệp
nói riêng. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương
tiện thúc đẩy phát triển nền kinh tế.Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các
ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu.
b. Đặc điểm
- Xuất khẩu hàng hoá thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các khoa học
quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các
yếu tố khác của từng quốc gia như yếu tố luật pháp, kinh tế văn hoá. Hơn nữa,


hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng nước, khai
thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tăng
tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập, quốc tế hoá. Lợi thế so
sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài nguyên và sở hữu phát
minh sáng chế.
- Trong điều kiện hiện nay, xuất khẩu hàng hoá ở nước ta đang là một trong
những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại lợi ích vô cùng
to lớn cho sự phát triển nước nhà, tạo cho nhiều quốc gia có cơ hội thuận lợi trong
việc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội.
- Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia khác
nhau, ở trong các môi trường và bối cảnh khác nhau. Điều này đòi hỏi chúng ta
phải có một trình độ hiểu biết và kinh nghiệm để giao lưu và học hỏi khi xuất khẩu
ra nước ngoài. Vì vậy, chúng ta không thể
lấy kinh nghiệm trao đổi hàng hoá thông
thường trong một quốc gia để áp đặt hoàn
toàn cho hoạt động trao đổi hàng hoá với
nước ngoài.
- 4- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
- Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân hoặc nhà nước. Đối
với doanh nghiệp nhà nước thì chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như chính
trị, ngoại giao, văn hoá Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước,
chính phủ có thể hiện hoặc không hoàn toàn hướng về lợi nhuận. Còn đối với
doanh nghiệp tư nhân thì mục đích của họ là tối đa hoá lợi nhuận, đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho đất nước.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là công cụ, phương
tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế.Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau:
- Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại

hoá.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trong mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-
2005 có nói: “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”.Như vậy, để
làm được điều đó tât yếu phải cần một lượng vốn lớn để thực hiện. Cho nên vốn là
một nhân tố không thể thiếu được, là vấn đề sống còn với tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.Bởi vì khi có một lượng vốn lớn chúng ta có thể xây
dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện
đại phục vụ cho phát triển kinh tế.
Để có được một lượng
vốn cho nhập khẩu có thể
được hình thành từ nhiều
nguồn như: liên doanh đầu
tư nước ngoài với nước ta;
vay nợ, viện trợ, tài trợ;
- 5- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
hoạt động du lịch, dịch vụ; xuất khẩu hàng hoá,lao động Nhưng vẫn quan trọng
hơn cả là xuất khẩu hàng hoá.Bởi vì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ,
viện trợ tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hoặc cách khác.
Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với
nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu
lao động không ổn định đang có xu hướng giảm dần.Do vậy, nguồn ngoại tệ quan
trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu.
- Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển:
Việc coi thị trường và đặc biệt là thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản
xuất.Điều này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển.Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn,
khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành

sản xuất nguyên liệu như bông hoặc thuốc nhuộm.Mặt khác sẽ kéo theo sự phát
triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ từ
các nước phát triển và Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra
một năng lực sản xuất mới.
- 6- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng.Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được
với mọi thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân:
Việc xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần một
lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động xuất khẩu thu về một lượng ngoại tệ
đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân. Những mặt hàng trong nước chưa
sản xuất được hoặc sản xuất còn kém như: ô tô,xe máy do đòi hỏi trình độ và kỹ
thuật cao cho nên việc đáp ứng nhu cầu đều qua con đường nhập khẩu đến với
người tiêu dùng.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta:
Quan hệ kinh tế đối ngoại bao các hoạt đông giao lưu giữa các nước với
nhau.Trong đó xuất khẩu là một hình thức của hoạt động kinh tế đối ngoại.Điều

này làm cho hoạt động xuất khẩu cùng với các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác
làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân
công lao động quốc tế. Chính nhờ thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại
khác nhau mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 140
nước trên thế giới, ký các hiệp định thương mại với hơn 70 nước là thành viên của
tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực.
- 7- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
II.Tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ khi mở cửa thị trường
cho đến nay:
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của
nước ta đã gia tăng nhanh chóng trong
những năm qua.
Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa
Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình
thường,Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các
nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã
tăng nhanh.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên
trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỷ USD
năm 2005, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5 tỷ USD
trong năm 2007.
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng tăng nhanh từ 30,8% năm 1990
lên 46,5% năm 2000, lên 61,3% năm 2005, lên 65% năm 2006 và 67% năm 2007 -
thuộc loại cao so với các nước (đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 ở
châu á và thứ 8 trên thế giới).
Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người cũng tăng từ 36,4 USD năm 1990,
lên 75 USD năm
1995, lên 186,8 USD
năm 2000, lên 391
USD năm 2005, lên

473,2 USD năm 2006
và khả năng năm
2007 đạt 557 USD.
- 8- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Sự tăng tốc của xuất khẩu của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân quan trọng là do mở rộng thị trường xuất khẩu.Vậy từ thị trường xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay có thể rút ra một số nhận xét
đáng lưu ý.
Thứ nhất, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ nước ta đã tăng
nhanh trong hơn mười năm qua. Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ
buôn bán với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè
có cảm tình với Việt Nam. Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng
như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng. Nhưng do Việt
Nam còn là nền kinh tế thiếu hụt, lại vẫn còn bị bao vây cấm vận, nên số nước và
vùng lãnh thổ đầu tư này vẫn còn rất ít và quy mô xuất khẩu của Việt Nam cũng
còn rất nhỏ bé.
Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan
hệ bình thường, Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và
vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh.
Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000
và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ
Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh
chóng.
Thứ hai,trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam,
số đạt trên 100 triệu USD có 28, số đạt trên 500 triệu USD có 16, số đạt trên 1 tỷ
USD có 7, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa, Australia,
Singapore, Đức, Malaysia, Anh.
- 9- Nhóm 2- kinh tế quốc tế

Như vậy, bên cạnh việc mở rộng thị trường, theo phương châm đa dạng hoá,
đa phương hoá, việc xác định các thị trường trọng điểm là hết sức cần thiết để
giảm chi phí vận chuyển, tiếp thị quảng cáo
Tuy nhiên, việc "bỏ trứng vào một giỏ"cũng là điều nên tránh và việc mở
rộng thị trường để tăng lượng tiêu thụ, phòng tránh những rủi ro khi xảy ra ở một
thị trường nào đó (chẳng hạn như việc kiện bán phá giá).
Thứ ba, trong các thị trường trên có một số thị trường truyền thống, thị
trường tiềm năng, thị trường mới, thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam còn thấp,
như Indonesia, Mông Cổ, các nước Trung Nam Á, (kể cả Ấn Độ), các nước xã hội
chủ nghĩa cũ, các nước Mỹ La tinh, các nước châu Phi, các nước Châu Đại Dương
(trừ Australia là thị trường lớn).
Thứ tư,trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt
Nam, thì: Việt Nam đã có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ,
trong đó xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ,
Việt Nam còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng
Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ,
Kuwait,
Theo đó, thì nhập siêu của
Việt Nam chủ yếu là ở các thị
trường gần, chưa phải là nơi
có công nghệ nguồn; còn xuất
siêu của Việt Nam lại chủ yếu
là ở các thị trường xa, thị
trường có công nghệ nguồn.
- 10- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG, CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH
XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM.
I: Thực trạng ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam:

Việt Nam được đánh giá là nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu
dệt may. Cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu đang biến động trên thế giới thì dệt
may Việt Nam cũng chịu nhiều tác động từ phía các bạn hàng khó tính. Hãy cùng
nhìn vào thực trạng dệt may Việt Nam:
Từ tháng 3 năm 2007 Việt Nam bắt đầu thực hiện các cam kết với WTO.Một
vấn đề đặt ra là khi cắt giảm thuế nhập khẩu và bỏ hạn ngạch, dệt may Việt Nam
liệu có bất lợi trong cạnh tranh?. Theo Nghị định thư gia nhập WTO của Việt
Nam, trong toàn bộ biểu thuế gồm 10.689 dòng thuế, Việt Nam sẽ cắt giảm
khoảng 3.800 dòng, chiếm 34,5% số dòng thuế của biểu thuế. Với nhóm hàng dệt -
may: nhóm hàng xơ, sợi, thuế suất giảm từ 20% xuống 5%; nhóm hàng vải, thuế
suất từ 40% xuống 12%; nhóm quần áo và đồ may sẵn giảm từ 50% xuống 20%


Việc cắt giảm thuế nhập khẩu như trên cùng với “tự do hóa hạn ngạch”, đã làm
cho dệt may Việt Nam gặp khó khi cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc tràn vào. Hàng dệt may Việt Nam từ
đầu năm 2007 tuy có được lợi thế trên thị trường Hoa Kỳ và EU, nhưng lại bất lợi
trên thị trường khu vực và ngay trên sân nhà. Theo báo cáo của Hiệp hội dệt may
Việt Nam, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,834 tỷ USD, trong đó vào thị
- 11- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
trường Hoa Kỳ đạt 3,044 tỷ USD (chiếm 52%), EU - 1,243 tỷ USD (chiếm 21%),
Nhật Bản - 628 triệu USD (chiếm 11%), ASEAN - 107 triệu USD (chiếm 1,8%)
trong khi đó tại thị trường nội địa hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm 7% tổng mức
bán lẻ (1,8 tỷ USD). Như vậy trên thị trường khu vực ASEAN, đặc biệt là thị
trường nội địa, hàng dệt may Việt Nam đã lâm vào tình thế “bỏ trống sân nhà”.
Cũng theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, năm 2006 xuất khẩu của dệt may đạt 5,834
tỷ USD, thì nhập khẩu vải, sợi, bông, phụ liệu đã ở mức 5 tỷ USD. Chênh lệch
chỉ là 0,8 tỷ USD. Mức chênh lệch này chỉ là lấy công làm lãi, vì ngành dệt may
Việt Nam có tới 2 triệu lao động (chiếm 24% số lao động công nghiệp) trong 2000
doanh nghiệp dệt may và chưa hạch toán chi tiết chi phí khấu hao máy, thiết bị,

nhà xưởng, đất đai do đó hiệu quả của dệt may Việt Nam cần được đánh giá
khách quan và chính xác.
Mặc dù hiện nay Việt Nam đang được xếp hạng ở mức 16/153 nước xuất khẩu
dệt may của thế giới; Kim ngạch xuất khẩu được đánh giá là lớn, nhưng lợi nhuận
ròng đem lại là rất thấp.Thực tế cho thấy Việt Nam chưa chú trọng đầu tư vùng
nguyên liệu cho công nghiệp dệt, mặc dù Việt Nam có điều kiện để phát triển
bông xơ, dâu tằm, đay gai Mặt khác, Việt Nam cũng chưa đầu tư phát triển
ngành cơ khí với mục tiêu nội địa hóa những thiết bị cho công nghiệp dệt may;
màu nhuộm và hóa chất khác dệt may phải sử dụng thường xuyên với khối
lượng lớn, nhưng chưa được đầu tư đúng mức để nghiên cứu sản xuất. Do đó
nguyên liệu, phụ kiện, hóa chất và hầu hết máy thiết bị cho dệt may của Việt
Nam đều gần như phải trông chờ vào nguồn nhập ngoại. Một vài số liệu cụ thể cho
thấy: bông xơ sản xuất trong nước mới đảm bảo 5% nhu cầu, sơ sợi tổng hợp -
30%; vải cho công nghiệp may phải nhập 52%, nguyên phụ liệu nhập 34% hơn
thế nữa ngay cả nhiều mẫu mã thiết kế cũng phải nhập ngoại! Vì vậy mà Việt Nam
đang trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các nước cung cấp nguyên liệu, thiết
bị và dịch vụ dệt may trong khu vực và thế giới. Đồng thời, các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam đang là những đơn vị gia công lớn cho các công ty nước ngoài.
Một thực tế hiện nay, phần lớn các
sản phẩm dệt may xuất khẩu làm theo
đơn đặt hàng, hoặc mua lại mẫu mã
thiết kế của nước ngoài, gia công cho
các đối tác. Chưa chủ động trong
nghiên cứu thị trường và thiết kế các
mẫu mã thời trang theo thị hiếu của
người tiêu dùng, hàng bán nội địa phần
lớn vẫn sản xuất theo mẫu “truyền
thống”. Do đó, hàng dệt may Việt Nam
không những không hướng dẫn được
tiêu dùng, mà thị phần nội địa bị co hẹp

dần bởi hàng dệt may nhập khẩu. Thực
trạng này không phải hoàn toàn là lỗi
- 12- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
của ngành Mỹ thuật công nghiệp, mà chủ yếu ở định hướng chiến lược đầu
tư.Hiệp hội dệt may Việt Nam, đúng hơn là ngành dệt may Việt Nam và Bộ công
nghiệp đang thiếu (hay chưa coi trọng) chiến lược này.
Bên cạnh đó, các chính sách và biện pháp trợ giúp quy hoạch vùng nguyên
liệu, tạo giống mới về bông, đay,gai…tạo khả năng kháng bệnh tốt, cho năng suất
cao, phù hợp với điều kiện vùng miền Việt Nam, chưa đặt ra cụ thể.Cơ sở hạ tầng
cho các vùng nguyên liệu cũng trong điều kiện tương tự. Việc hỗ trợ kỹ thuật về
chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho dệt may, đáng lẽ phải được
thực hiện mạnh hơn nhưng cho đến nay Bộ Khoa học và Công nghệ mới đang
triển khai xây dựng Chương trình hỗ trợ cụ thể cho từng lĩnh vực. Động thái này
ảnh hưởng không nhỏ đối với ngành dệt may.
Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trong WTO, ngành dệt
may Việt Nam phải chịu sức ép của những điều kiện cạnh tranh này. Tuy nhiên, do
hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường Hoa Kỳ và EU với khối lượng lớn,
nên cơ chế giám sát của họ đối với dệt may Việt Nam, sẽ chặt chẽ hơn.
Để giảm thiểu sự bất lợi này, Ngành dệt may nên đề xuất những chính sách và
biện pháp trợ giúp cho các doanh nghiệp của mình để trình Chính phủ. Có như vậy
thì ngành dệt may Việt Nam nói chung và Tập đoàn dệt may mới có đủ những
điều kiện để phát triển vững chắc. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, nếu
không có sự cải cách triệt để, Tập đoàn dệt may Việt Nam trong tương lai gần vẫn
chỉ là “số cộng” của các doanh nghiệp. Hiện nay, toàn ngành dệt may có khoảng
2.000 doanh nghiệp, trong đó có 27 doanh nghiệp Nhà nước, 1400 công ty cổ phần
và tư nhân, khoảng 450 doanh nghiệp FDI. Theo Quyết định 314/2005/QĐ-TTg,
ngày 02/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án thí điểm thành
lập Tập đoàn dệt may, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại Tổng công ty dệt may và các
đơn vị thành viên, nhằm tạo ra một tập đoàn kinh tế mạnh. Về nguyên tắc dệt may
Việt Nam đã xây dựng tập đoàn (mặc dù đang thí điểm) thì tất cả các doanh

nghiệp dệt may và các tổ chức sản xuất - kinh doanh liên quan đến dệt may, như
sản xuất nguyên liệu, chế tạo, sản xuất phụ kiện đều phụ thuộc và bị chi phối bởi
Tập đoàn Dệt may về sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và cơ chế chính sách
tài chính.
Tuy nhiên, kể từ khi
Quyết định được ban hành
đến nay, Tập đoàn Dệt may
Việt Nam và rộng hơn là
Ngành dệt may Việt Nam
chuyển động quá chậm, độ
liên kết trong ngành và đặc
biệt giữa các đơn vị trong
Tập đoàn còn thiếu chặt chẽ.
Chỉ còn 3 năm nữa (đến
- 13- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
2010) Ngành Dệt may phải thực hiện xong 8 chương trình trọng điểm quốc gia,
trong đó có chương trình sản xuất nguyên liệu bông xơ. Nhưng cho đến nay dự án
chưa triển khai được bao nhiêu và nhập khẩu nguyên liệu vẫn tiếp tục gia tăng.
Đặc biệt trong Tập đoàn Dệt may gồm tuyệt đại bộ phận là các công ty dệt và may,
hầu như không có đơn vị sản xuất nguyên liệu. Hơn nữa các loại may và phụ kiện
cho dệt may cũng không có chương trình phát triển cụ thể. Nếu hai chương trình
này (chương trình sản xuất nguyên liệu và chương trình sản xuất máy và phụ kiện)
và những chương trình khác mà chính phủ đã duyệt, không được đầu tư, phát triển
và thực hiện hiệu quả thì Tập đoàn Dệt may Việt Nam trong tương lai gần chỉ là
đơn vị “thu mua tổng hợp” các sản phẩm dệt may được gia công bởi các doanh
nghiệp trong ngành để xuất khẩu.
Mục tiêu hướng tới
Mục tiêu đặt ra của ngành dệt may Việt Nam đến 2010 doanh thu đạt từ 13 -
15 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt từ 10 - 12 tỷ USD. Để đạt được kế hoạch này,
Ngành dệt may dự kiến sẽ phá thế gia công hiện nay, thực hiện một chu trình khép

kín: “Thời trang – Công nghệ - Thương hiệu”, với 8 chương trình trọng điểm quốc
gia. Riêng Tập đoàn Dệt may sẽ thực hiện 15 dự án lớn với tổng vốn đầu tư
khoảng 16.000 tỷ đổng (tương đương với 1 tỷ USD). Đồng thời về mặt tổ chức bộ
máy, năm 2007 Tập đoàn dệt may sẽ cổ phần hoá tất cả các đơn vị thành viên. Đây
là những mục tiêu chiến lược, nếu thực hiện thành công sẽ tạo ra sự đột phá cho
ngành dệt may Việt Nam.Tuy nhiên những mục tiêu này cần phải có những giải
pháp khả thi. Vì vậy những vấn đề đặt ra đổi với Ngành dệt nay Việt Nam mà chủ
yếu là đối với Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) trong tương lai gần sẽ là:
Thứ nhất, đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu bông xơ tập trung lớn, đồng thời
có chính sách tài chính thích hợp khuyến khích phát triển các vùng trồng bông,
đay, gai, không tập trung, để từ năm 2015 đảm bảo 60 - 65% nguyên liệu cho dệt
và tiến đến xuất khẩu bông xơ. Đặc biệt cần xây dựng các chính sách và biện pháp
trợ giúp “ngoài vùng cấm của WTO” đối với các vùng nguyên liệu, tạo điều kiện
để các vùng nguyên liệu phục vụ dệt may Việt Nam phát triển vững chắc.
Thứ hai, xây dựng trung tâm công nghiệp có khả năng chế tạo máy, thiết bị và
sản xuất các phụ kiện cho Ngành dệt may, để đến 2015 nội địa hoá 50% và sau đó
100% các phụ kiện cho dệt may.
Thứ ba, xây dựng trung tâm nghiên cứu thời trang để trước hết giảm chi phí
mua thiết kế mẫu mã của nước ngoài.Sau đó, với thị trường nội địa hướng dẫn
được tiêu dùng, để nâng thị phần bán lẻ sản phẩm dệt may trên sân nhà lên ít nhất
85% vào năm 2015 (hiện nay mới chỉ chiếm 7% - 1,8 tỷ USD).
Thứ tư đào tạo và bồi dường nguồn nhân lực mang thương hiệu dệt may Việt
Nam. Trước hết là đầu tư vào các trường dạy nghề, để công nhân và cán bộ quản
lý dệt may được đào tạo nghề chu đáo. Sau đó, là đảm bảo mức thu nhập hợp lý
cho công nhân so với mặt bằng giá cả hiện nay (lương công nhân dệt may của Việt
- 14- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Nam vào loại thấp, kể cả doanh nghiệp FDI so với các ngành công nghiệp tương
đồng) đồng thời chú trọng đến đời sống, phúc lợi cho họ, như nhà ở, phương tiện
đi lại, văn hoá thể thao, tạo sự gắn bó lâu dài bền vững của công nhân với doanh
nghiệp.

Thứ năm, tạo nguồn tài chính đủ lớn, ổn định vững chắc đầu tư có hiệu quả để
phát triển Ngành Dệt may Việt Nam. Nếu không có vốn đầu tư, thì các dự án cũng
chỉ dừng ở kế hoạch triển vọng. Do đó tài chính là mấu chốt quyết định tính khả
thi của những kế hoạch đã được vạch ra. Từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp
theo,nhu cầu vốn đầu tư cho dệt may Việt Nam là rất lớn.Nguồn vốn này được huy
động từ đâu?
Một là, nếu các doanh nghiệp thuộc Vinatex đã hoàn thành cổ phần hoá, thì có
thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam,
hoặc một số thị trường chứng khoán quốc tế.
Hai là, xin phép Chính phủ phát hành trái phiếu ngắn hạn và trung hạn với lãi
suất cao hơn lãi suất tiết kiệm của Ngân hàng thương mại Nhà nước, kèm theo một
số ưu đãi khuyến khích của Virlatex.
Ba là, lập một số dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài về các lĩnh vực đòi
hỏi vốn lớn hoặc công nghệ hiện đại, như: sản xuất máy nguyên liệu, phụ kiện ,
cho dệt may.
Bốn là, lập đề án trình Chính phủ để liên kết với các Ngân hàng thương mại
lớn, thành lập Tập đoàn Tài chính - Dệt may Việt Nam, để giải quyết nhu cầu vốn
cho tương lai phát triển lâu dài của dệt may Việt Nam. Với phương châm đa dạng
hoá nguồn vốn và với cơ chế tài chính phù hợp, chắc chắn Ngành dệt may Việt
Nam sẽ có đủ vốn để hoàn thành các mục tiêu nêu trên.
II: Cơ hội đối với ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam:
Là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu, hàng dệt may của nước ta đang dần chiếm
lĩnh các thị trường quốc tế. Sau mức suy giảm nhẹ (0,6% so với năm trước) của
năm 2009, xuất khẩu nhóm hàng dệt may đang bứt phá, hứa hẹn một năm tăng
trưởng tốt với trị giá đạt 3,86 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2010, tăng 18,6% so
với cùng kỳ năm 2009, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
cao hơn so với nhóm hàng xuất khẩu có
kim ngạch lớn thứ 2 (là dầu thô) tới gần
1,7 tỷ USD.
- 15- Nhóm 2- kinh tế quốc tế

Số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, chu kỳ xuất khẩu của hàng
dệt may thường bắt đầu tăng trưởng vào quý 2 và đạt mức cao nhất vào quý 3.
Trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu hàng dệt may đạt trung bình là 771 triệu
USD/tháng. Với mức tăng như hiện nay, cùng với tính chu kỳ xuất khẩu, chúng ta
có thể kỳ vọng hàng dệt may sẽ đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD/tháng trong một vài
tháng tới. Tuy nhiên để đạt được kế hoạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD trong năm 2010
thì trong 7 tháng còn lại của năm, trung bình mỗi tháng xuất khẩu dệt may phải đạt
gần 950 triệu USD/tháng.
Hoa kỳ, đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Số liệu thống kê hải quan trong nhiều năm qua cũng cho thấy, Hoa Kỳ luôn là
thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Xuất khẩu nhóm
hàng này sang Hoa kỳ luôn chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của cả nước và khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sang thị
trường này.

EU và Nhật Bản cũng là hai thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam
với tỷ trọng lần lượt là 18% và 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng
này của cả nước trong năm 2009. Tuy nhiên, Trong 3 thị trường dẫn đầu này, thì
Hoa Kỳ vẫn là thị trường mà xuất khẩu dệt may của Việt Nam có tốc độ tăng
trưởng cao nhất, trung bình là 19%/năm trong giai đoạn 2005-2009, thị trường EU
và Nhật Bản có tốc độ tăng bình quân lần lượt là 17% và 12%. Trong 5 tháng đầu
năm nay, xuất khẩu nhóm hàng này sang Hoa kỳ đạt 2,22 tỷ USD, tăng 23,8% so
với cùng kỳ 2009 (tăng 426 triệu USD về số tuyệt đối).
Xuất khẩu ngành hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng
Mặc dù là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam từ năm
2009, nhưng so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả thế giới thì chỉ
chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé (khoảng 1,6% năm 2009 theo www.trademap.org).
- 16- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Cũng theo thống kê của www.trademap.org , kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may
của Hoa Kỳ năm 2009 lên tới 86,7 tỷ USD và xuất khẩu hàng dệt may của Việt

Nam vào thị trường này cũng chỉ chiếm 5,8% trị giá nhập khẩu hàng dệt may của
Hoa Kỳ.
Số liệu thống kê trên đây cho thấy thị trường dệt may thế giới là rất lớn và cơ
hội cho hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên,
sự phát triển ngành dệt may của nước ta bên
cạ
nh những thuận lợi thì cũng gặp phải nhiều khó khăn khi nguồn nguyên phụ liệu
phục vụ ngành dệt may, da, giày phần lớn là phải nhập khẩu.
Số liệu thống kê hải quan mới nhất cho thấy, trong 5 tháng đầu năm 2010 tổng
trị giá nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày là 3,7
tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó, riêng vải các loại nhập
khẩu đã là 2 tỷ USD, tăng 23,5%. Thời gian gần đây nhiều doanh nghiệp dệt may
than phiền là càng xuất nhiều thì nguy cơ thua lỗ càng lớn cũng là ở nguyên nhân
thiếu sự chủ động với nguyên liệu đầu vào. Phần lớn các phụ kiện của công nghiệp
dệt may sản xuất trong nước chưa đáp ứng được đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng
cần thiết của sản phẩm xuất khẩu. Giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm xuất khẩu dệt
may của Việt Nam còn rất thấp.Việt Nam trong thời gian vừa qua đã phải đối mặt
với tình trạng rất vất vả để đàm phán mở rộng thị trường nhưng trong khi đó phải
nhập khẩu nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất. Công nghiệp thiết kế mẫu mã
vẫn còn lạc hậu, chủ yếu là gia công và làm thuê theo đơn đặt hàng của nước
ngoài. Vì vậy, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, việc phát triển
công nghiệp phụ trợ với hàng dệt may là vấn đề cấp bách nhất vì trong tương lai,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các thị trường chính đã đạt tới ngưỡng có
thể bị xem xét trong các vụ kiện trợ cấp, bán phá giá…Sự phát triển dựa trên giá
trị gia tăng trên mỗi sản phẩm thay vì chỉ chú trọng chạy theo phát triển kim ngạch
- 17- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
như trong thời gian vừa qua sẽ biến dệt may thành mặt hàng có sức cạnh tranh cao
trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, đem lại nguồn ngoại tệ quý giá cho đất
nước.


III: Thách thức đối với ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam:
Thời kì trước khi ra nhập WTO:
Dệt may được coi là
một trong những ngành
trọng điểm của nền công
nghiệp Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước,
ngành dệt may Việt Nam
hiện nay đang được xem là
ngành sản xuất mũi nhọn và
có tiềm lực phát triển khá
mạnh.
Với những lợi thế riêng
biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động
và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải
cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ,
Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc Hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết
liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực.
Với hơn 1000 nhà máy dệt may,thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22%
tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng
trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải
lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Tuy đã nhập bổ sung,
thay thế máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt, thì cũng chỉ đáp
ứng được rất ít công suất dệt.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất,đổi mới thiết bị và dây
chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may
quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là nhưng cũng chưa đáp ứng được

yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao,
nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho
sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài
Ngành dệt may Việt Nam tuy đã có nhiều yếu tố thuận lợi để tạo đà có tiến
trình hội nhập sắp tới như Quota thị trường Eu được tăng 30%, bước đầu mở được
- 18- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
thị trường Mỹ và thị trường vùng Trung Cận Đông, châu Phi; kinh tế Nhật Bản
đang hồi phục khiến cho thị trường này tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam tăng hơn
trước. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may cũng gặp không ít khó khăn do giá sản
phẩm giảm liên tục. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc biệt thị trường phi
quota, trong đó thị trường Đông Âu giảm mạnh từ giữa năm
Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào Eu, mới chỉ tập trung vào các
mặt hàng dễ làm như áo jacket,sơ mi còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật
cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doanh nghiệp có thể
sản xuất được. Do đó, trên thực tế, nhiều mặt hàng có hạn ngạch nhưng lại chưa có
doanh nghiệp xuất khẩu.
Vấn đề bức xúc hiện nay là hàng vải sợi,may mặc từ nước ngoài tràn vào từ
nhiều nguồn (hàng trốn lậu thuế, hàng cũ) giá rất rẻ đã làm cho sản xuất trong
nước bị ảnh hưởng. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc
trong nước chưa có tổ chức, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác
một số công ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa
tạo được các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước. Do vậy, để các nhà sản
xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa không có biện pháp
nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông,
bán buôn và bán lẻ.
Trong khi chờ
Chính phủ phê duyệt
Chiến lược tăng tốc
phát triển đến năm
2010, ngành Dệt May

Việt Nam đã đề ra 4
giải pháp lớn phải
đồng bộ thực hiện, đó
là: đổi mới công nghệ,
ổn định chất lượng sản
phẩm, giảm giá thành
sản xuất để tăng sức
cạnh tranh trên thị
trường nội địa và xuất
khẩu. Đầu tư mở rộng
quy mô sản xuất từ
khâu may đến khâu sản xuất vải và phụ liệu may, bông xơ sợi cho sản xuất vải;
trong đó, đầu tư cho các nhà máy may hiện đại may hàng Fob (xuất khẩu trực tiếp)
ở trung tâm hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; mở rộng mạng
lưới may gia công ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Cùng với việc quy tụ các
nhà máy mới vào 10 cụm công nghiệp dệt là phát triển mạnh vùng bông ở Tây
Nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ngành sẽ đẩy mạnh các hoạt động tiếp
thị, xây dựng mạng lưới bán buôn bán lẻ trong nước và các đại diện thương mại
- 19- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
quốc tế; áp dụng ngay phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử và
cuối cùng là đào tạo nguồn nhân lực.
Thời kỳ sau khi ra nhập WTO:
Dệt may đã chịu nhiều tác động sau sự kiện Việt Nam là thành viên của WTO.
Không những vậy,từ 1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho
các DN nước ngoài thì sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.
Thách thức cả trong lẫn ngoài:
Gia nhập WTO từ 11/1/2007, Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài.Nhưng đổi lại, Việt Nam phải cam
kết mở cửa thị trường, giảm thuế và các hàng rào bảo hộ khác, minh bạch hóa
chính sách. Và thực tế đó đã khiến cho các doanh nghiệp dệt may trong nước gặp

không ít khó khăn.
Tại hội thảo
“Phát triển ngành
dệt may Việt Nam
sau 2 năm gia
nhập WTO và
những giải pháp
để tăng tốc”, ông
Lê Quốc Ân, chủ
tịch hiệp hội dệt
may Việt Nam cho
biết: “Do phải
cạnh tranh với
hàng ngoại và
mức thuế nhập
khẩu dệt may đã giảm 2/3 xuống còn 5 - 20%, trong khi chúng ta chưa nhận thức
hết được những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu
chuẩn bị, thiếu phương án khi sản xuất kinh doanh khó khăn. Đặc biệt từ
1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN nước ngoài thì
sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn.”
Đầu tư nước ngoài tăng nhanh tại TPHCM và các khu công nghiệp dẫn đến
việc thiếu hụt nguồn lao động, nhất là lao động có kỹ năng tay nghề cao. Tình
trạng chảy máu chất xám, “săn đầu người” diễn ra khá phổ biến và các DN đang
rất lúng túng trong việc duy trì đội ngũ các quản lý, kỹ thuật giỏi của mình.
Các cuộc đình công trong ngành dệt may đặc biệt là tại các khu công nghiệp
tập trung và các thành phố lớn liên tục xảy ra, gây đảo lộn kế hoạch sản xuất giao
hàng của nhiều DN, tạo ra hình ảnh xuất đối với các nhà đầu tư kinh doanh thế
giới.
“Tình hình này nếu không được cải thiện thì dệt may khó có thể giữ được mức
tăng trưởng về sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới. Đây là nguy cơ lớn

nhất ảnh hưởng đến khả năng phát triển của ngành” - ông Ân nói.
- 20- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Khó khăn lớn nhất đối với các DN xuất khẩu hàng dệt may hiện nay là cơ chế
của Hoa Kỳ giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi
kiện điều tra chống bán phá giá.
Đây là thị trường chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. “Dù đã hai lần công bố kết quả
là không tìm thấy Việt Nam chống bán phá giá vào Mỹ song có khả năng cơ chế
này tiếp tục được thực hiện thêm ít nhất 1 năm nữa gây lo ngại cho các nhà nhập
khẩu bán lẻ Hoa Kỳ cũng như các nhà sản xuất Việt Nam do rủi ro cao” - đại diện
Hiệp hội dệt may cho hay.
Bà Nguyễn Thị Hồng Tín, Trưởng ban nghiên cứu Xúc tiến thị trường, Tập
đoàn dệt may Việt Nam còn cảnh báo thêm: “Thị trường tài chính và kinh tế
Mỹ đang suy thoái, sức mua của người dân giảm trong đó tiêu dùng và
hàng dệt may giảm đáng kể. Hơn nữa, hàng dệt may vào Mỹ cũng sẽ khó
khăn hơn do Ủy ban quốc hội Mỹ vừa thông qua luật mới về an toàn sản
phẩm nhập khẩu vào Mỹ và có hiệu lực từ tháng 2/2009”.
Ngành dệt may Việt Nam sẽ được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư,
dỡ bỏ hạn ngạch nhưng phải đối diện với nguy cơ bị ép nếu Mỹ đặt chế độ giám
sát chống bán phá giá đặc biệt ngay khi Việt Nam chính thức bước vào cửa WTO.
Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tập
đoàn Dệt may Việt Nam đã đưa ra những nhận định thẳng thắn về khả năng hội
nhập của ngành dệt may Việt Nam khi vào WTO.
Có vẻ như ngành dệt may đang chịu nhiều sức ép hơn cả, khi cánh cửa WTO
mở với Việt Nam; bởi để chuẩn bị vào WTO, Chính phủ đã hủy quyết định 55 -
một quyết định hỗ trợ đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam tăng tốc?
Đây không phải là khó khăn lớn nhất.Vì chương trình hỗ trợ thực hiện trong 4
năm,nhưng đến thời điểm hủy chương trình cũng chỉ mới thực hiện được 20%.
Nguy cơ lớn nhất, trực diện nhất mà chúng tôi lo sẽ phải đối mặt, đó là phía Mỹ
đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt với hàng dệt may Việt Nam.

Theo các nhà nhập khẩu, để cản trở thương mại, có 3 giải pháp áp dụng: Chế
độ tự vệ, chế độ quota và chế độ chống bán phá giá. Mà chế độ sau cùng này là tệ
hại nhất, vì trong lịch sử, khi Mỹ thực hiện chế độ chống bán phá giá với mặt hàng
nào, lập tức mặt hàng đó mất tính cạnh tranh, không thể vào thị trường Mỹ được
(như thép của Nhật, Hàn Quốc ); thậm chí giết chết cả một ngành sản xuất chỉ
trong một thời gian ngắn (như mặt hàng áo len của Đài Loan ).
Nếu Mỹ áp dụng biện pháp này với hàng dệt may Việt Nam,kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ giảm hẳn một nửa, vì các thị trường khác chưa thể
bù vào ngay được.Trong điều kiện đối xử bình thường, ngành dệt may sẽ có 3 cái
lợi:
Thứ nhất,xuất khẩu không bị khống chế quota.
Thứ hai,một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập
khẩu từ Việt Nam xuống bình thường.
Thứ ba,được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư được cải thiện.
Nhưng cũng có 3 thách thức:
- 21- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
Thứ nhất, hàng rào bảo vệ thị trường nội địa bằng thuế nhập khẩu sẽ giảm
xuống tới mức tối đa (thuế nhập khẩu hiện hành 40% với vải và 50% với hàng
may mặc.Hàng rào này sẽ được giảm còn bình quân khoảng 15%).
Thứ hai, thách thức về lao động.
Thứ ba, các rào cản của nước ngoài sẽ được dựng lên, như các vấn đề về môi
trường, chống bán phá giá Đương nhiên, ta có lợi thế là một thành viên của WTO
để chống lại những áp đặt này, nhưng cũng khó chống lại luật chơi của kẻ mạnh.

Bộ Tài chính nâng
thuế suất thuế nhập
khẩu Polyester từ 0%
lên 5% Điều này đã góp
phần làm tăng chi phí
giá thành, giảm tính

cạnh tranh của sản
phẩm dệt may
Việt Nam trước thềm
hội nhập.
Xác định rõ nhu cầu
thị trường
Thực tế cho thấy,
để đủ sức cạnh tranh
trong thời kỳ hội nhập,
các doanh nghiệp dệt
may trong nước phải giải được bài toán lao động.
Theo ông Ân, cần phải tăng cường nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có
chất lượng cao về quản lý, kỹ thuật công nghệ, thiết kế thời trang… Mở rộng hợp
tác với nước ngoài, nâng cấp các trường dạy nghề, cải tiến phương pháp đào tạo
cho sát thực tế.
Bên cạnh đó, phải chăm lo cải thiện đời sống cho người lao động. Khuyến
khích các DN tiếp tục di dời các cơ sở sản xuất may mặc về các thị tứ, vùng nông
thôn nhằm giải quyết được bài toán về lao động. Tiết giảm chi phí nhằm duy trì
khả năng cạnh tranh, thu hút đơn hàng.
Trong đó,theo bà Nguyễn Thị Hồng Tín, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần
chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn nguyên phụ liệu trong nước.Việc này
không chỉ làm giảm giá thành mà còn góp phần vào công cuộc giảm tỷ lệ hàng gia
công.
Ông Phí Ngọc Trịnh, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần may Hồ Gươm
cho biết thêm: “Cần phải xây dựng thương hiệu mạnh để khẳng định vị thế của
mình trên thị trường nội địa và từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới.
Ngoài ra,nhà nước cần có chính sách ổn định về giá, về thời gian cung cấp
điện.Tình trạng cắt cúp điện như trong thời gian qua đã gây thiệt hại lớn cho
doanh nghiệp”.
- 22- Nhóm 2- kinh tế quốc tế

Để chống lại cơ chế giám sát nhập khẩu và chống bán phá giá của Mỹ, theo
Chủ tịch hiệp hội dệt may, cần có sự hợp tác chặt chẽ với các cơ quan nhà nước,
các DN cũng như hiệp hội các nhà nhập khẩu, bán lẻ, các đối tác từ phía Mỹ.
Xem ra, áp lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập sẽ buộc các doanh
nghiệp Việt Nam phải tự cứu lấy mình, khẳng định vị trí và trưởng thành
hơn, trong đó có lĩnh vực dệt may.
IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang phải đối đầu với những nước có khả
năng cạnh tranh cao, có nhiều thuận lợi và kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị
trường về các mặt như: vật tư, thiết bị, quản lý, tài chính, tiếp thị, nghiên cứu và
phát triển.
Sản phẩm của các nước rất đa
dạng, có thể thỏa mãn các nhu cầu từ cấp
thấp đến cấp cao của người tiêu dùng.Vì
vậy, để ngành dệt may đạt được mục tiêu
xuất khẩu năm 2010 là 10 tỷ USD các
chuyên gia cho rằng ngành dệt may cần
đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đồng
bộ mang tính chiến lược sau đây:
1. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh
vào các cụm Công nghiệp Dệt may theo
hướng tập trung vào lĩnh vực dệt -
nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ
liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu
cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ
lệ nội địa hóa trong sản phẩm may mặc
xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ
lệ hàng gia công; Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có tiềm
năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ các địa

phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ trợ các
doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm
năng khác.
2. Thực hiện chuyên môn hóa các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các
doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính,
công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng
- 23- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hóa
(sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu
thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay
đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng
dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm.
3. Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may cần cố gắng giảm
giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm
chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở
Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ
giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực
hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở
để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may
Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả
sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp
nhận.
4. Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt may
Việt Nam theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín dịch vụ, trách nhiệm
xã hội” thông qua việc: Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA
8000; Tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; Xác định cấp tiêu chuẩn sản
phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính.Qua đó, xác định cơ cấu mặt
hàng và định hướng cho các doanh nghiệp.

5. Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về
nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng.
Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch
nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với
người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường.
6. Thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên
viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hóa, tổ trưởng
- chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu.
7. Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường nội địa, Tổng
công ty dệt may (VINATEX) có thể là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp dệt may
trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng - siêu thị kinh doanh hàng thời
trang dệt may, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một vài năm tới hệ
thống cửa hàng siêu thị này sẽ có mặt hầu hết tại các tỉnh thành, thành phố lớn
trong cả nước.
- 24- Nhóm 2- kinh tế quốc tế
8. Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt
may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình thị trường
cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt
may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số
thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các
hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất các chế
độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong ngành.
Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng vừa ký Quyết định phê duyệt
chiến lược phát triển ngành công
nghiệp dệt may Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020
theo hướng chuyên môn hóa, hiện
đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt

về chất và lượng sản phẩm.
Quyết định nêu rõ trước mắt
ngành dệt may tập trung phát triển
và nâng cao năng lực về nguồn
nhân lực; nguồn nguyên, phụ liệu để có nguồn nhân lực chuyên môn cao, tạo nên
sản phẩm chất lượng cao gắn với thương hiệu uy tín; bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư
phát triển ngành dệt may phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Ngành phấn đấu đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 16-18%, xuất khẩu tăng
20%/năm (giai đoạn 2008-2010) và tăng sản lượng từ 12-14%, xuất khẩu tăng
15% trong giai đoạn 2011-2020.
Doanh thu toàn ngành đạt khoảng 14,8 tỷ USD vào năm 2010; 22,5 tỷ USD năm
2015 và 31 tỷ USD vào năm 2020.
Và Thứ trưởng Công nghiệp Bùi Xuân Khu cũng cho rằng, để trở thành
một trong những ngành chủ lực về xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội
nhập vững chắc với kinh tế khu vực và thế giới, ngành Dệt may cần chú trọng đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực cao cấp, xây dựng các trung
tâm thiết kế sản phẩm, đây hiện là khâu yếu của ngành, mở rộng và kêu gọi hợp
tác đầu tư quốc tế. Ngoài ra, cần tích cực triển khai các phương án tiến tới đa sở
hữu nguồn vốn, đa dạng hoá sản phẩm, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá.
-Hết-
- 25- Nhóm 2- kinh tế quốc tế

×