Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

bài hoàn thiện sinh thái học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.25 KB, 16 trang )

Mục lục
1
Mở đầu
Giữa sinh vật và con người tồn tại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu chúng ta biết
vận dụng chúng theo quy luật phát triển bền vững và cân bằng sinh thái thì mới có khả
năng duy trì và phát triển mối quan hệ này đối với mục tiêu kinh tế của con người.
Trong bài này trình bày về các quá trình chọn lọc trong tự nhiên, các dạng sống và sự
hình thành ổ sinh thái, các kiểu quan hệ tương tác trong quần xã, và một số vấn đề
thuộc tổ chức bậc quần xã trong quần xã.
Nghiên cứu về các quá trình chọn lọc trong tự nhiên của sinh vật có ý nghĩa quan
trọng trong xây dựng các phương hướng phát triển nông lâm nghiệp, giúp cho chúng
ta có thể lựa chọn được những giống cây trồng phù hợp cho từng vùng, từng khu vực
cụ thể.
1. Quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân sinh
1.1. Chọn lọc tự nhiên
Quá trình chọn lọc tự nhiên xảy ra hai giai đoạn:
a. Giai đoạn tiên phong và giai đoạn chọn lọc sinh thái cảnh:
Chọn lọc sinh thái cảnh là sự chọn lọc chủ yếu đối với các cá thể tiên phong do
các yếu tố ban đầu quyết định. Lúc này các cá thể sinh vật hoàn toàn phụ thuộc vào sự
chọn lọc của các yếu tố sinh thái, tức là điều kiện vật lý và hóa học ở nơi đó.
Trong giai đoạn này các cá thể tiên phong (hầu hết là các loài ưa sáng và có tốc
độ phát triển nhanh) tạo thành các quần xã gần như cùng loài. Ví dụ: có hàng chục
loài xâm nhập vào một khu vực và trong cùng một điều kiện môi trường nhất định,
nhưng giai đoạn đầu chỉ có 1 – 2 loài tiên phong phát triển được. Dần dần qua quá
trình phát triển chúng cải thiện điều kiện vật lý, hóa học của môi trường dẫn đến có
nhiều tổ thành loài hình thành.
Giai đoạn chọn lọc vật lý, hóa học tiếp diễn cho đến khi các loài đủ mật độ và
khép tán, các hệ rễ giao tiếp với nhau và bắt đầu ảnh hưởng đến nhau và ảnh hưởng
đến nhau. Giai đoạn này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào các loài tiên phong. Có 3
dạng cây tiên phong chính:
- Tiên phong dạng cây hòa thảo (cây cỏ) phần lớn đạt từ 2 – 3 năm, sau đó chuyển sang


giai đoạn khác.
- Tiên phong dạng cây gỗ tạm thời: dạng này thường kéo dài 6 – 9 năm, sau đó nhường
cho loài khác.
2
- Dạng tiên phong cây gỗ định vị: kéo dài 10 – 15 năm, sau đó cùng tồn tại song song
với các loài khác.
b. Giai đoạn chọn lọc sinh thái cảnh (gồm sinh thái cảnh và tổ thành loài).
Khi các loài tiên phong phủ tán và hệ rễ phát triển trên toàn bộ không gian nền
đất tạo nên sự tiếp xúc với nhau của hệ rễ. Lúc này xảy ra 2 vấn đề chính:
- Có sự cạnh tranh giữa các cá thể và các loài về nơi sống và thức ăn.
- Có sự biến đổi của các yếu tố sinh thái ban đầu cả về mặt vật lý và hóa học.
Sự cạnh tranh giữa các loài trong quần xã về thức ăn và không gian sống là vấn
đề không thuận lợi. Song, hậu quả đó lại được điều hòa cân bằng nhờ chính quần thể
đã tạo điều kiện sống sót cho cả nhóm nói chung. So với cá thể sống đơn độc thì quần
thể có tỷ lệ chết thấp hơn khi gặp điều kiện môi trường không thuận lợi hay bị các loài
sinh vật khác tấn công.
Nhưng kết quả của việc cạnh tranh thường rất lớn và đã được thừa nhận như là
một trong những cơ chế của chọn lọc tự nhiên và thường dẫn đến sự hình thành các ổ
sinh thái riêng biệt bằng cách thay thế quần thể ưu thế của loài này bằng quần thể ưu
thế của loài khác. Chẳng hạn: khi có một lượng ánh sáng đến tán cây thì nó sẽ giảm đi
70 – 80% lượng ánh sáng đầy đủ khi xuống dưới tán. Đồng thời, với nhiệt độ giảm và
độ ẩm tăng đã xuất hiện mầm mống của các loài khác phát triển làm cho sự cạnh tranh
giữa các cá thể và các loài xảy ra gay gắt hơn. Cây thế hệ thứ hai có thể vượt lên trở
thành cây ưa sáng, còn cây thế hệ thứ nhất trở thành cây chịu bóng. Giai đoạn này
thường kéo dài tự 6 – 9 năm và các loài cây bị thay thế dần. Đây chính là quá trình
chọn lọc trên cơ sở cạnh tranh và thay đổi điều kiện sinh thái môi trường ban đầu.
Thông thường cây tiên phong định vị sẽ thay thế cho cây tiên phong tạm thời vừa
là cây tiên phong định vị.
1.2. Chọn lọc nhân sinh
Chọn lọc nhân sinh là sự chọn lọc do con người thực hiện nhằm điều chỉnh sinh

vật phát triển theo hướng phục vụ cho nhu cầu sống của mình.
Vấn đề thuần hóa là một việc “cần” nhưng chưa “đủ”. Mục đích cuối cùng là
chúng ta phải tạo ra một dạng hỗ sinh đặc biệt, thích nghi ở bậc hệ sinh thái. Nếu quá
trình chọn lọc nhân tạo, chúng ta chỉ đơn thuần là “buộc” thiên nhiên tuân theo mục
đích của mình thì rốt cuộc chúng ta sẽ bị thất bại. Vì vậy sự chọn lọc nhân tạo phải
3
được xác lập trên cơ sở chọn lọc tự nhiên một cách hợp lý và phải được điều khiển
trên quy mô hệ sinh thái.
Chẳng hạn, khi kết thúc giai đoạn chọn lọc sinh thái cảnh và chuyển sang giai
đoạn chọc lọc sinh thái cảnh, các quần thể tương đối ổn địnhvà có khả năng phát triển
lớn. Lúc này con người có thể chặt bỏ những cây kém giá trị, không có mục đích phát
triển kinh tế… để tạo điều kiện cho các cây khác phát triển. Sự tu bổ của con người từ
giai đoạn sơ khai, nhằm mục đích hướng đến phát triển cây gỗ có giá trị kinh tế bằng
cách chọn những ô trống trong rừng cây tiên phong để trồng dặm các cây có giá trị
kinh tế. Sau đó, theo sự biến đổi về nhu cầu sinh thái người ta có thể tỉa dần một số
cây tiên phong cho phù hợp với điều kiện sinh thái cây gỗ mới trồng và dần dần tăng
thêm mật độ cây gỗ kinh tế một cách hợp lý.
Việc thay thế dần các cây gỗ cho cây tiên phong là việc làm kinh tế nhất, đảm
bảo chắc chắn nhất nhưng đòi hỏi thời gian tương đối lâu dài.
2. Các dạng sống và sự hình thành ổ sinh thái
2.1. Các dạng sống
Sự tác động tổng hợp của các nhân tố sinh thái, cùng với mối tương tác giữa
các loài, thông qua sự chọn lọc tự nhiên một cách lâu dài làm cho cây cối hình thành
những dạng sống khác nhau.
Mỗi dạng sống của sinh vật thích nghi với một điều kiện sinh thái nhất định.
Đó là kết quả di truyền của từng loại trong quá trình biến đổi thích nghi của mình mà
biểu hiện sự khác nhau về kích thước, hình dạng, cách sống và vị trí sống của chúng.
Mỗi hình thái như vậy gọi là dạng sống. Nó phản ánh một kiểu sinh thái nhất định.
Từ trước đến nay, có rất nhiều tác giả tìm cách xác định những dạng sống, kiểu
sống đó nhưng chưa có sự thống nhất giữa các tác giả. Chẳng hạn: Humboldt đã chia

thực vật ra 19 dạng sống dựa theo hình dạng bên ngoài của cây cối. Còn Girsbach thì
dựa vào hệ thống phân chia của Humboldt mà chi tiết ra thành 61 dạng sống… Sau
đây chúng ta xem xét cách phân chia dạng sống của Rauker, cách phân chia được coi
là hợp lý nhất.
Raunker đã dựa vào vị trí của những chồi mới mọc so với mặt đất và sự bảo vệ
chúng chống lại những điều kiện sinh thái bất lợi (như mùa đông, mùa khô) mà chia
thực vật ra làm 5 nhóm sau:
4
* Cây chồi trên cao (Phanerophyt): Gồm những cây to, cây nhỏ, cây bụi và cây
thảo. Là những cây mà lá có thể rụng nhưng thân vẫn còn sống và chồi ở trên mặt đất,
gồm các nhóm:
- Cây chồi trên cây to: cao trên 30m.
- Cây chồi trên trung bình: cao từ 8 – 30m.
- Cây chồi trên nhỏ: cao từ 2 – 6m.
- Cây chồi trên thấp: cao đến 2m.
* Cây chồi trên ở mặt đất (camephyt): Gồm những cây bụi nhỏ và cây thảo,
chồi vủa chúng không chết trong thời kỳ khô. Chồi tuy ở trên nhưng gần mặt đất. Ví
dụ: Các bụi cây nhỏ ở savan, cây thảo vùng ven biển.
* Cây nửa chồi dưới (Hemicryptophyt): là những cây gỗ có chồi mới xuất hiện
ngay ở dưới mặt đất một ít. Sau khi có quả chín phần trên chết hoàn toàn, còn phần
dưới gốc sống sát ở dưới mặt đất, chờ điều kiện thận lợi để mọc lên cao và lại ra hoa,
kết quả. Cây nửa chồi dưới gồm có: Họ cúc, cây thảo, cây chỉ thiên, cây mã đề….
* Cây chồi ẩn (Cryptophyt): là những cây có chồi xuất hiện ở dưới mặt đất như
họ hành, cỏ tranh, cỏ năn. Chúng có khả năng trút bỏ lá trong điều kiện khắc nghiệt và
giữ lại chồi ngầm. Gồm các loại:
- Cây chồi ngầm (chồi ngầm nằm dưới mặt đất) như cỏ tranh.
- Cây chồi ngầm thủy sinh (chồi ngầm sống ở dưới nước) cỏ năn, sen.
* Cây một năm (therophyt): Là những cây sống hàng năm, sau khi chết chỉ để
lại hạt mà thôi. Hạt chúng gặp điều kiện thuận lợi sẽ nảy mầm mọc lại cây khác. Cây
này rất phổ biển ở nhiệt đới và ôn đới.

2.2. Ổ sinh thái
Ổ sinh thái là một khái niệm rất rộng không có chỉ bao hàm một khoảng không
gian có sinh vật sống mà gồm cả vài trò chức năng của sinh vật trong quần xã và vị trí
tương đối của các yếu tố sinh thái môi trường. Vì vậy, ổ sinh thái không chỉ phụ thuộc
vào chỗ là ở đâu, mà còn phụ thuộc vào chỗ là gì và vị giới hạn bởi các lại khác ở mức
nào. Có thể coi nơi ở là “địa chỉ” của sinh vật thì ổ sinh thái là “nghề nghiệp” của
chúng.
5
Hình 1: Ổ sinh thái
Nói cách khác: ổ sinh thái là quan hệ giữa các chức năng của sinh vật ở trong
cùng một quần xã. Cho nên, trong cùng một quần xã không thể cùng có hai loài cùng
chiếm giữ lâu dài một chức năng hoàn toàn giống nhau. Do đó, khi nghiên cứu
cácdạng sống và ổ sinh thái của sinh vật chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:
- Tùy thuộc vào điều kiện sống mà quần xã sinh vật có thể thay đổi tỷ lệ tổ thành loài
khác nhau nên khi nghiên cứu tổ thành loài ta có thể căn cứ vào tỷ lệ mà xét đoán
bước đầu về điều kiện sinh thái môi trường.
- Khi hoạch định trong quy hoạch tồng trọt cũng cần căn cứ vào dạng sống từng loại
cây mà dự đoán về nhu cầu sinh thái. Tuy nhiên, cần phải kết hợp với việc nghiên cứu
các đặc điểm hình thái cây trồng (lá, thân, tán cây) để dự kiến trước môi trường sống
và điều kiện sinh thái cần cho nó.
- Dạng sống còn thể hiện qua quá trình thích nghi với những ổ sinh thái nhất định và
cũng là dạng phân biệt các cách tích lũy vật chất. Từ đó nó phản ánh cho ta bước đầu
về giá trị sinh học hoặc giá trị kinh tế từng loài.
- Trong điều kiện nhiệt đới sự phân bố tổ thành loài rất đa dạng. Còn ở ôn đới thường
chỉ có 2 – 3 tổ thành loài trên một đơn vị diện tích.
- Sự phân bố lại vật chất và năng lượng là một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ
đến việc tạo ra các ổ sinh thái.
3. Các kiểu quan hệ tương tác trong quần xã
3.1. Các kiểu quan hệ trong tự nhiên
Qua quá trình chọn lọc, các tổ thành loài hình thành và dần dần đi đến ổn định,

cả thành phần loài trong quần xã lẫn mối quan hệ giữa các loài với nhau và với các
yếu tố môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình đó vẫn thường xuyên xảy ra tác động
6
tương hỗ và các kiểu quan hệ tương tác với nhau trong quần xã. Sau đây chúng ta
nghiên cứu một số mối quan hệ tương tác đó thường gặp trong tự nhiên.
a. Quan hệ lý sinh: Là quan hệ giữa các loài nảy sinh thông qua việc tiếp xúc có tính chất
cơ học giữa các bộ phận như: Rễ vỡi rễ, thân với thân, rễ với thân… Mối quan hệ đó
có thể dẫn đến đồng nhất về mặt sinh hóa giữa các cá thể cùng loài. Chẳng hạn: Hai
cây của loài mò đỏ có hệ rễ nối với nhau thì nó có tính chất như một hệ rễ. Khi chặt đi
một cây thì nó có thể tái sinh lại.
Quan hệ lý sinh này được người ta có thể sử dụng trong việc ghép cây giữa các
cá thể cùng loài hay khác loài nhưng cùng họ chi, họ để lấy tính trội của loài này bù
vào loài còn lại.
Ví dụ: Lấy chồi cây khế ngọt ghép vào gốc cây khế chua thì khế sẽ cho quả
ngọt và năng suất cao.
Hình 2: Ghép khế
b. Quan hệ bì sinh: là quan hệ của một loài này phát triển và ký gửi trên lớp vỏ
vủa loài khác, nhưng không có quan hệ ký sinh, mà còn có quan hệ tiếp xúc như một
giá thể. Nó tận dụng độ cao của giá thể để tăng cường bức xạ, nhiệt… Nhưng không
phụ thuộc vào giá thể về dinh dưỡng.
Tuy nhiên, loài bì sinh này không phát triển một cách lung tung mà chỉ phát
triển ở những quần xã có điều kiện sống thích hợp.
7
Hình 3: Quan hệ bì sinh – bầu bí
c. Quan hệ bóp nghẹt (ficus): Đó là mối quan hệ chủ yếu giữa hai cá thể đa –
si. Khi bào tử cây si được chim cấy vào cây đa, gặp điều kiện thuận lợi si phát triển
nhanh gấp 3 – 4 lần cây chủ và đến mộ lcus nào đó nó sẽ thòng rễ xuống đất phủ kín
cây chủ và ép cây chủ chết.
8
Hình 4: Quan hệ đa - si

d. Quan hệ ký sinh: Quan hệ của một loài này sống gửi trên một loại khác. Vật
ký sinh tận dụng giá thể (vật chủ) như một nơi sống thuận tiện cho cả điều kiện thuận
tiện cho cả điều kiện vật lý và cả thức ăn. Chúng lấy thức ăn từ vật chủ bằng cách các
hệ rễ ăn sâu vào gian bào và mô vật chủ và chọn những chất dinh dưỡng phù hợp với
chúng. Đây là quan hệ một chiều.
Tuy nhiên trong quan hệ này do nhu cầu của các vật ký sinh về điều kiện sống
và ngồn dinh dưỡng nên các vật ký sinh phải lựa chọn vật chủ phù hợp với mình trước
hết là về mặt hóa sinh. Chính vì vậy, mà quan hệ này có rất nhiều tác dụng trong thực
tế như: căn cứ vào cây tầm gửi ký sinh trên cây nào mà xác định được tính chất của nó
để làm thuốc chữa bệnh.
Ví dụ: Cây ngái và tầm gửi ký sinh trên cây gạo sẽ chữa được bệnh thấp khớp.
Tầm gửi ký sinh trên cây thăng (sao) sẽ chữa bệnh bướu cổ.
Tầm gửi ký sinh trên cây chanh lấy nước chữa đau mắt.
Trong quan hệ này vật kí sinh có thể hủy hoại vật chủ và cả hai cùng bị tiêu
diệt.
9
Hình 5: Cây tầm gửi
e. Quan hệ hóa sinh: là quan hệ giữa loài này với loài khác ảnh hưởng đến
nhau bằng chất chiết có từ trong cơ thể thực vật.
- Giữa thực vật bậc thấp ảnh hưởng đến thực vật bậc cao hay động vật gọi là
chất kháng sinh (ví dụ: penicyline là một kháng sinh chiết từ vi khuẩn).
- Giữa thực vật bậc cao với thực vật bậc cao hay động vật gọi là độc tố
(phitooxin) hay kích tố (phitoacaxin).
Các loài như bạch đàn, tràm, long não có thể chiết lấy tinh dầu diệt khuẩn và
nhờ chất chuxcdx mà thực vật có thể gây hại đối với các loài cạnh tranh với nó. Ngoài
ra, nhờ chất chiết mà thực vật có thể truyền tinh cho nhau khi bị nguy hiểm. Chẳng
hạn: Khi một nhóm cây liễu bị nhiểm khuẩn thì chúng dùng chất chiết truyền cho các
cây khác ở xa (có thể trên 300m) biết để tiết ra các chất đề kháng chống lại sự xâm
nhập của vi khuẩn.
f. Quan hệ cộng sinh (hỗ sinh):

Quan hệ cộng sinh là quan hệ giữa hai cá thể cùng loài hay khác loài trong một
quần xã và có lợi ích hai chiều. Đây là quan hệ bắt buộc và chúng có thể bù trừ cho
nhau những chỗ thiếu. Chẳng hạn: tảo + nấm = địa y (thực vật bậc thấp), đây là quan
hệ bắt buộc.
10
Trong quan hệ cộng sinh này có thể có thể xảy ra cả đối với thực vật bậc cao và
thực vật bậc thấp. Ví dụ như quan hệ rễ nấm: nấm hút thức ăn từ rễ và trả lại cho rễ
các loại thức ăn khác nhau. Đây là quan hệ có lợi cho hai loài nhưng không phải bắt
buộc.
Hình 6: Quan hệ cộng sinh Hình 7: Quan hệ cộng sinh
3.2. Tổng hợp các mối quan hệ giữa hai loài trong quần xã
Để xác định một quần xã có phát triển theo hướng ngày càng thịnh vượng hay
suy thoái phải xét đến các quan hệ tương tác âm hay dương. Tổng hợp các mối quan
hệ đó cho ta kết quả của phương trình tăng trưởng theo chiều hướng nào. Sau đây
chúng ta sẽ phân tích mối quan hệ giữa hai loài trong quần thể:
0 : không có tương tác rỏ rệt trong hai loài đó.
+ : ảnh hưởng tương tác có lợi cho loài đó.
- : Ảnh hưởng tương tác có hại cho loài đó.
Nếu kết quả phương trình tăng trưởng là:
- : Gọi là quan hệ tương tác âm.
+ : Gọi là quan hệ tương tác dương.
Bảng 1: Các quan hệ chính giữa hai loài trong quần thể.
11
ST
T
Kiểu quan
hệ
Loài
Đặc trưng mối tương tác
Ví dụ

A B Loài A Loài B
1
Trung tính
(bàng
quan)
0 0
Hai loài không gây ảnh
hưởng cho nhau.
Cỏ Hổ
2
Cạnh tranh
trực tiếp
- -
Có sự trấn áp trực tiếp của
cả 2 loài

chuối

vược
3
Cạnh tranh
gián tiếp
- -
Lấn át lẫn nhau do sự
cạnh tranh về nguồn sống.
Cỏ
Cây
trồng
4
Xâm lăng

(hãm sinh)
+ -
Loài A (xâm lăng) gây tác
hại cho loài B (bị xâm
lăng) nhưng bản thân A
không bị ảnh hưởng xấu
Sy Đa
5 Ký sinh + -
Vật ký sinh (A) thường
nhỏ hơn vật chủ (B)
Giun
sán Tầm
gửi
Lợn
Cây gạo
6
Ăn thịt
(vật giữ -
con mồi)
+ -
Quần thể ăn thịt (A)
thường lớn hơn qần thể
vật làm mồi (B).
Chim
sáo
Côn
trùng
7 Hội sinh + 0
Loài hội sinh (A) có lợi,
còn loài được hội sinh (B)

không lợi chẳng hại gì.
Cây họ
đậu
Vi
khuẩn
cố định
đạm.
8
Hợp tác
đơn giản
+ +
Có lợi cho cả hai loài,
nhưng không bắt buộc
Sáo Trâu
9 Hỗ sinh + +
Có lợi cho cả 2 loài và bắt
buộc phải sống với nhau.
Nấm
San hô
Tảo
Tảo.
Như vậy:
- Kiểu quan hệ 2 – 3 là kiểu quan hệ tương tác âm.
- Kiểu quan hệ 7 – 8 – 9 là kiểu quan hệ tương tác dương.
- Còn các kiểu khác (1, 4, 5, 6) chịu ảnh hưởng của hai loại tương tác trên
nên có thể là âm, dương hoặc bằng 0.
Qua các kiểu quan hệ ở trên chúng ta nhận thấy rằng: kiểu quan hệ hỗ sinh là
kiểu quan hệ lý tưởng nhất đối với con người.
Cho đến nay con người vẫn đang sống như ký sinh ở trong môi trường của
mình. Họ có thể tiêu hủy tất cả những gì mà họ cần đến và không chăm lo đến vật chủ.

12
Rõ ràng con người cần phải xác lập sự liên minh hỗ sinh với tự nhiên. Bởi vì con
người là những sinh vật dị dưõng phụ thuộc vào tài nguyên dự trữ. Nếu không xây
dựng quan hệ hỗ sinh với thiên nhiên thì chính họ tương tự như những vật ký sinh “vô
lại” có thể bóc lột vật chủ có thể tự giết chết luôn cả chính bản thân mình.
4. Một số vấn đề thuộc tổ chức bậc quần xã.
4.1. Khái niệm về ưu thế sinh thái
Chúng ta biết rằng quần xã bao gồm nhiều loài sống trong một không gian nhất
định nhưng không phải các sinh vật đó đều giữ vai trò quan trọng như nhau. Trong số
hàng chục hàng trăm loài là thành viên của quần xã thì chỉ có vài loài quyết định số
lượng, kích thước, năng suất… của quần xã. Các nhóm loài tham gia tích cực và việc
điều chỉnh trao đổi năng lượng và chúng có ảnh hưởng đến môi sinh của các loài sinh
vật thì gọi là ưu thế sinh thái.
Mức độ ưu thế trong quần xã của một số loài nào đó được thể hiện bằng chỉ số
ưu thế tương ứng, thể hiện vai trò của từng loài đối với cả quần xã nói chung.
Hình 8: Chim cánh cụt – loài chiếm ưu thế ở Nam Cực
Ví dụ: người ta khảo sát một đồng cỏ và kết quả như sau:
- Cỏ sữa: 50%
- Cỏ mật: 20%
13
- Cỏ 3 lá: 10%
- Cây sồi: 5 Cây
- Bò sữa: 100 con
- Ngựa : 2 con
- Cừu : 5 Con
Như vậy, ở đây cỏ sữa chiếm ưu thế trong sinh vật sản xuất và bò sữa chiếm ưu
thế trong sinh vật tiêu thụ.
Trong thực tế, trên đồng cỏ còn nhiều loài sinh vật khác nhau, nhưng nếu
không kể con người (là sinh vật có ưu thế tuyệt đối) thì cỏ sữa và bò sữa là những loài
quyết định đến năng suất, chất lượng và có thể điều chỉnh quần xã đó.

Thông thường loài ưu thế là loài cho năng suất cao nhất và có khả năng làm
biến đổi cấu trúc quần xã cũng như yếu tố vật lý của môi trường đặc biệt là vi khí hậu.

Hình 9: Đồng cỏ chăn nuôi bò sữa
Đối với quần xã rừng người ta thường xét các chỉ số về độ che phủ diện tích mặt
cắt ngang thân cây (đường kính)… của từng loài để xét ưu thế sinh thái của loài hay
14
nhóm nào đó. Đôi khi ưu thế sinh thái không phải là một hay vài loài mà là của một
tầng nào đó bao gồm rất nhiều loài.
Ở những vùng thực vật có kích thước nhỏ thì động vật có khả năng giữ vai trò
điều chỉnh quần xã và có thể ảnh hưởng lớn đến các điều kiện vật lý của môi trường
thì lúc đó có thể coi động vật đó là ưu thế sinh thái. Qua nghiên cứu cho thấy:
- Ở các quần thể Bắc cực loài ưu thế chỉ 1 - 2 loài.
- Ở nhiệt đới loài ưu thế có thể đến hơn chục loài.
4.2. Sự đa dạng về loài trong quần xã và tên gọi quần xã
a. Sự đa dạng về loài trong quần xã:
Trong một quần xã thường chỉ có một số loài có số lượng nhiều, sinh khối lớn,
năng suất cao… còn lại là các loài hiếm, có số lượng ít, sinh khối thấp. Qua nghiên
cứu về sự đa dạng về loài trong quần xã cho thấy:
- Nếu loài ưu thế quyết định năng suất, sinh khối thì các loài hiếm quyết định sự đa
dạng về loài trong quần xã.
- Các quần xã bị giới hạn bởi các yếu tố vật lý hóa học thì ít đa dạng về loài và ngược
lại.
- Con người, quá trình hoạt động kinh tê đã ra sức làm giảm sự đa dạng và tạo điều kiện
phát triển thế độc canh.
- Rừng mưa nhiệt đới có sự đa dạng lớn về loài hơn các quần xã chịu sự tác động theo
mùa hay theo chu kỳ.
15
- Sự đa dạng về loài đạt ở mức cao trong các quần xã tương đối già và đạt ở mức thấp
hơn trong các quần xã mới hình thành.

b. Tên gọi quần xã: Để đặt tên và phân loại các quần xã được thuận tiện người ta
thường dựa vào:
- Các chỉ số cấu trúc cơ sở như: loài ưu thế, các dạng sống…
- Các điều kiện nơi ở của quần xã.
- Các đặc điểm chức năng của quần xã.
* Dựa vào cấu trúc của loài ưu thế để gọi tên quần xã như: quần xã cây ngải cứu
ở hoang mạc chỉ hợp lý khi loài ưu thế ít và nó chiếm ưu thế thường xuyên.
Còn trường hợp nhiều loài chiếm ưu thế thì cách gọi tên này gặp khó khăn và
không hợp lý khi loài ưu thế thay đổi theo mùa trong năm.
* Gọi tên quần xã dựa vào điều kiện nơi ở như: Quần xã cửa sông, quần xã đầm
lầy… cách gọi này cũng tương đối thích hợp khi quần xã có tính chất ổn định cao.
Đôi khi người ta lấy tên động vật làm tên gọi cho các quần xã như: Quần xã giáp
xác chân tơ, quần xã hầu ống… Tuy nhiên, đối với các động vật di chuyển nhanh và
thành phần dễ biến đổi thì không nên lấy chúng đặt tên cho quần xã.
Việc xác định ranh giới và phân loại quần xã là một trong những vẫn đề quan
trọng và khó khăn. Bởi vì các quần xã dần đân chuyển gối, đan xen vào nhau và luôn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình trao đổi chất và năng lượng.
Kết luận
Qua đây chúng ta có thể thấy được vai trò quan trọng trong nghiên cứu về quan hệ giữa các loài sinh
vật với nhau, từ đó con người có thể vận dụng những hiểu biết của mình trong sản xuất và kinh tế.
16

×