Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HÌNH THỨC CẤU TRÚC NHÀ NƯỚC PHÂN QUYỀN CÁT CỨ Ở TÂY ÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.79 KB, 6 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hình thức nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng
- đó là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp để thực
hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình
thành từ ba yếu tố cụ thể : Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và
chế độ chính trị.Trong đó hinh thức cấu trúc nhà nước là cách thức cấu tạo nhà
nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cơ
quan giữa trung ương và địa phương.Mỗi quốc gia tuỳ chọn vào điều kiện lịch
sử, truyền thống, văn hoá, phong tục tập quán, tùy vào mỗi giai đoạn lich sủ
khác nhau mà có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau. Nhà nước
phong kiến ở Tây Âu cũng vậy. Trong thời kì phát triển của mình, ở nhà nước
phong kiến Tây Âu đã tồn tại hình thức cấu trúc phân quyền cát cứ. Vậy nguyên
nhân và những biểu hiện của hình thức cấu trúc nhà nước này như thế nào?
chính là mục đích của chúng em khi lựa chọn đề tài này. Vói kiến thức còn hạn
chế bài làm của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót kính mong thày cô
quan tam, chỉ bảo để bài tập của nhóm em có thể hoàn thiện hơn. Chúng em xin
chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I) KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HÌNH THỨC
CẤU TRÚC NHÀ NƯỚC PHÂN QUYỀN CÁT CỨ Ở TÂY ÂU:
Nếu như ở nhà nước phong kiến Trung Quốc ở cả ba thời kì hình thành,
phát triển và suy vong hình thức kết cấu nhà nước phổ biến là trung ương tập
quyền phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên chế có sự thống
nhất về hình thức chính thể của nhà nước. thì ở nhà nước phong kiến Tây Âu lại
khác. Hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến và bao trùm trong thời kì phát
triển của nhà nước phong kiến Tây Âu là phân quyền cát cứ. Hình thức chính thể
quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì hình thành đặc biệt là thời kì cuối –
thời kì suy vong và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha,...Còn ở
một số nước như ItaLia, Đức..trạng thái phân quyền cát cứ tồn tại suốt cả chế độ
phong kiến. Cụ thể: Ngay từ thời đế quốc Frang đã nảy sinh hiện tượng phân
quyền cát cứ. Sau khi Clovit chết năm 511, Vương quốc Frang đã bị chi phối


thành bốn phần co những người con của ông cai quản. Từ cuối thế kỉ VI, quyền
lực của các ông vua ngày càng suy yếu bởi nội chiến diễn ra thường xuyên.
Trong khi đó thế lực của bon quý tộc ngày càng mạnh, lấn át cả nhà vua, từ đó
nhiều vùng đã thoát li khỏi phạm vi thế lực của nhà vua. Đến tận thế kỉ VIII, trật
tự cũ trong toàn vương quốc mới được thiết lập. Đặc biệt từ sau hòa ước
Vecdoong thì Tây Âu hoàn toàn ở trạng thái phân quyền cát cứ. Đế quốc Frang
tan rã và bị chia cắt thành nhiều mảnh. Các lãnh chúa nắm hết quyền lực và lấn
át nhà vua, nội chiến lại diễn ra triền miên, đời sống của nhân dân ngày càng
khổ cực. Có thể nói phân quyền cát cứ là trang thái cơ bản, nổi bật nhất trong
thời kì phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó bao trùm và chi phối mọi
lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến .
II) NGUYÊN NHÂN THIẾT LẬP HÌNH THỨC CẤU TRÚC NHÀ
NƯỚC PHÂN QUYỀN CÁT CỨ Ở TÂU ÂU.
1, Nguyên nhân sâu xa
Đế quốc Frang được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm
lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp
tạm thời không vững chắc, trong phạm vi cả Tây Âu và trong phạm vi từng
nước, các cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau,
do đó đều có khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc của
chính quyền trung ương.
2, Nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết định là về kinh tế. Trong đó trước
hết phải nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân
rất lớn của phong kiến được hình thành từ hai nguồn:
2.1, Nguồn thứ nhất: Chế độ phân phong ruộng đất và
chế độ thừa kế ruộng đất.
Các vua đều ban cấp ruộng đất cho những người trong họ hàng cha bầy tôi
và giao cho giáo hội để trả công cho họ hoặc để mua chuộc sự ủng hộ của họ.
Đến các quý tộc các lãnh chúa lớn cũng phải làm như vậy. Tức là cũng phải đem
ruộng đất được vua phân phong để đem chia cho tùy tùng của mình. Chế độ

phân phong như vậy theo hình chóp từ trên xuống dưới đã tạo ra các quan hệ
thần thuộc và tôn chủ đó là quan hệ người nhận đất phải trung thành và phải
gánh vác một số nghĩa vụ đối với tôn chủ trong đó nghĩa vụ quan trọng nhất là
quân dịch. Để lãnh địa không bị chia nhỏ và quyền lực của chúa phong kiến
cũng không bị phân chia theo cùng với đất đai nên một tập quán đã được hình
thành từ thế kỉ XI: chỉ người con trưởng mới được thừa kế. Để giữ được tính
mạng và tài sản thì những chúa đất phải có trong tay một lực lượng vũ trang và
một đám thân thuộc xung quanh để làm chỗ dựa vì vậy những chúa đất cũng
phải phân phong ruộng đất.
2.2, Nguồn thứ hai: Số ruộng đất ít ỏi của những nhân
dân tự do, nằm rải rác trong khu đất của lãnh chúa.
Những người dân ngoài việc phải đi lính cho nhà vua thì họ còn luôn
đứng trước nguy cơ bị cướp bóc, là nạn nhân của các cuộc nội chiến nên họ phải
nhờ vào một chỗ dựa nào đấy, đó là chúa phong kiến ở lãnh địa “bảo hộ” cho
mình. Và vì thế họ phải hiến đất cho lãnh chúa và trở thành lệ nông hoặc nông
nô để phục vụ trong các lãnh địa .Như vậy, các phần tử trong giai cấp phong
kiến luôn luôn đứng trước một mâu thuẫn, một mặt bao giờ chúng cũng muốn
tăng cường quyền lực và mở rộng lãnh địa của mình tới mức độ lớn nhất mặt
khác lại phaỉ chia sẻ quyền lực và lãnh địa của mình cho các thần thuộc bên
dưới để biến bon này thành chỗ dựa. Chính vì vậy, đã dẫn đến hậu quả quyền sở
hữu tối cao ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn đến trạng thái phân quyền
cát cứ. Trạng thái này đẻ ra trạng thái kinh tế tự cung tự cấp. Đến lượt nó nền
kinh tế tự nhiên nó lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân
quyền cát cứ
Việc thiết lập cấu trúc phân quyền cát cứ cũng là do vấn đề giao thông đi
lại khó khăn bị hư hỏng nhiều bởi chiến tranh từ thời đế quốc La mã. Việc đi lại
chuyên chở cũng không an toàn vì nạn cướp bóc, đường đi lại khó khăn, trắc trở
khiến cho mối liên hệ giữa các vùng cũng không thường xuyên đã làm cho tình
trạng cát cứ địa phương ở các lãnh địa trở nên sâu sắc rõ nét hơn.
3, Các nguyên nhân khác

Ngoài ra đối với từng nước còn có các nguyên nhân khác như ở Pháp do
lãnh địa hẹp thu nhập ít thế lực của nhà vua rất hạn chế còn lãnh địa của các lãnh
chúa ngày càng được mở rộng nên họ thường có thế mạnh áp đảo nhà vua. Hoặc
như ở Italia do sự xâm lược và xâu xé của nhiều thế lực bên ngoài cộng với sự
hình thành các quốc gia thành thị… nên Italia không có chính quyền trung ương.
Còn ở Đức các lãnh chúa phong kiến có tham vọng rất lớn nên chúng thường đi
xâm lược để thỏa mãn nhu cầu ruộng đất và của cải.
Chính bởi việc hình thành các bậc thang đẳng cấp phong kiến ở Tây Âu
đa hình hành mối quan hệ “ bồi thần của bồi thần chứ không phải bồi thần của
ta” như câu nói của một nhà vua. Từ bâc thang đẳng cấp phong kiến nảy sinh
tình trạng một số quý tộc nhỏ ở địa phương không nghe theo lệnh của vua vì vậy
quyền của vua rất yếu ớt cũng chỉ như một lãnh chúa mà thôi. Chế độ này gọi là
chế độ phân quyền cát cứ phong kiến có nghĩa là quyền lực đã bị phân tán và
nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến chứ không tập trung vào tay vua như ở
phương Đông
III) BIỂU HIỆN TRÊN CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ, CHÍNH TRỊ –
XÃ HỘI
Nói đến trạng thái cát cứ là nói về lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất
đai được phân phong dần dần biến thành vật tư hữu và tạo nên lãnh địa. Đồng
thời thế lực của người nhận đất ngày càng lớn và trở thành lãnh chúa, một lãnh
chúa có nhiều lãnh địa có thể thừa kế cho con trai và kèm theo những nghĩa vụ
đối với những người trong lãnh địa đó
1, Về kinh tế
Mỗi lãnh địa phong kiến là một đơn vị khép kín, tự cung tự cấp, sẩn
phẩm do nông nô làm ra thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt.
Mỗi lãnh địa có nhiều trang viên, trong mỗi trang viên phong kiến lại chia làm
hai phần: phần thứ nhất gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn tược do lãnh
chúa trực tiếp quản lý và sức lao động ở đây là tô lao dịch của nông nô. Phần
thứ hai chủ yếu gồm đất canh tác được chia thành nhiều khoảnh nhỏ cấp cho các
gia đình nông dân lĩnh canh.

2, Về chính trị – xã hội
2.1, Về xã hội
Quan hệ cơ bản là quan hệ giữa lãnh chúa và nông dân. Nông dân có
ba loại: nông dân tự do, lệ nông và nông nô. Trong đó, lệ nông dần dần trở thàn
nồng nô. Ngay cả nông dân tự do trước sau cũng bi biến thành nông nô. Nông
nô lệ thuộc vào chúa phong kiến cả về ruộng đất và thân thể. Họ bị cột chặt suốt
đời vào ruộng đất phong kiến không có quyền bỏ đi nơi khác.Nếu chúa phong
kiến chuyển nhượng ruộng đất thì cũng chuyển nhượng luôn những nông nô
sống trên đó. Nhưng nông nô chưa mất tự do hoàn toàn, họ có quyền có gia
đình, có tài sản riêng. Lãnh chúa có thể mua bán nông nô những không thể tùy
tiện giết họ như nô lệ. Đối với lệ nông không phải nông nô thì số ngày lao dịch
và khoản tô hiện vật được giảm nhẹ hơn. Vì nông nô lẹ thuộc vào chúa phong
kiến về mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho chúa phong kiến. Nông nô
lấy vợ, lấy chồng phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông nô muốn kế thừa tài sản
của cha cũng phải nộp khoản thuế gọi là thuế thừa kế. Những so với nô lệ trong
xã hội cổ đại thân phận của nông nô có khá hơn.
2.2, Về chính trị
Lãnh địa cũng là một đơn vị chính trị biệt lập tương tự như một vương
quốc có quân đội luật lệ tòa án, tài chính đơn vị đo lường riêng.
Những tước vị và chức vụ trong chính quyền mà nhà vua trao cho các lãnh
chúa nay đã trở thành cha chuyền con nối. Không những thế các lãnh chúa còn
biến luôn khu cả khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành lãnh địa riêng.
Nhà vua không thể điều động, thuyên chuyển hoặc thay thế chúng bằng người
khác. Chúng còn dùng uy quyền biễn các thần thuộc của nhà vua thành thần
thuộc của chúng, biến những thần dân của nhà vua thành thần dân của chúng.
Các lãnh chúa đều có tòa án riêng xét xử những thần dân trong lãnh địa giám
chông lại chúng. Những vụ xét xử này còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu
nhập lớn. Ngoài ra quyền đúc tiền cũng đem lại một nguồn lợi không nhỏ cho
các lãnh chúa. Quyền thu thuế ở địa phương cúng thuộc về các lãnh chua. Giữa
các chúa phong kiến thường xảy ra chiến tranh, nhằm cưỡng đoạt đất đai, tài

sản, mở rộng phạm vi thế lực. Bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn tách
khỏi sự điều động của nhà vua

IV) ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến có ảnh
hưởng rất lớn đến tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kì đầu trong
nhà nước Frang đứng đầu nhà nước là vua, vua coi toàn bộ lãnh thổ vương
quốc là sản nghiệp của mình, các quan lại trong tổ chức bộ máy nhà nước
chỉ là bầy tôi giúp việc quản lí sản nghiệp đó, vua là tổng chỉ huy quân đội
giữ quyền xét xử tối cao, quyền thế thì đến thời kì phân quyền cát cứ ở Tây
Âu đứng đầu nhà nước vẫn là vua nhưng quyền lực lại bị hạn chế và phân
tán cho các lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương không có sự thống nhất chặt chẽ. Mỗi lãnh đia như là một quốc gia
riêng và các lãnh chúa chính là một ông vua ngự trị trên vương quốc đó.
KẾT BÀI

Như vậy trên thực tế các lãnh địa đã trở thành những quốc gia nhỏ. Các
lãnh chúa trở thành vua trên lãnh địa của mình có đầy đủ quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa án, quân đội luật lệ riêng. Chính
trong trạng thái phân quyền cát cứ đó, quan hệ phong kiến được thể hiện rõ nét
nhất, thể hiện qua chế độ sở hữu phong kiến quan hệ địa chủ phong kiến nông
nô địa vị của hai giai cấp này trong xã hội và phương thức bóc lột địa tô. Như
vậy thời kì phân quyền cát cứ là thời kì phát triển nhất chế độ phong kiến Tây
Âu
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước
và pháp luật thế giới, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008
2. Khoa Luật – Đại học Quốc gia HÀ Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới, Nxb. DHQG, Hà Nội, 1997.
3. Một sô tài liệu trên các websize.

×