Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu Luận Chế độ bầu cử hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.81 KB, 29 trang )

Website: Ema il :
MỞ ĐẦU
Sau hơn 200 năm lịch sử hình thành và phát triển, Hoa Kỳ từ 13 tiểu bang
nhỏ bé ban đầu ở Bắc Mỹ đã trở thành một liên bang hùng mạnh với 50 tiểu bang,
một quận thủ đô Columbia District (hay Washington D.C) và một số quốc đảo nhỏ.
Theo bản Hiến pháp được Hội nghị Lập hiến soạn thảo năm 1787, chính quyền liên
bang Hoa Kỳ là hệ thống tam quyền phân lập với việc phân chia quyền lực rõ ràng
cho ba bộ phận độc lập của Nhà nước: Tổng thống, Quốc hội và Toà án. Trong đó,
quyền hành pháp được trao cho Tổng thống, quyền Lập pháp cho Quốc hội và
quyền tư pháp thuộc về Toà án. Nhưng trên thực tế thì Tổng thống Hoa Kỳ nắm giữ
quyền lực lớn nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị Mỹ: là người đứng đầu Nhà
nước, người đứng đầu Chính phủ, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, người lãnh
đạo Đảng chính trị mà Tổng thống đại diện, nhà ngoại giao chủ chốt của đất
nước, Và các cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ luôn thu hút được sự chú ý, sự
quan tâm theo dõi trên toàn thế giới. Điển hình là năm 2004 vừa qua, cuộc cạnh
tranh giữa hai ứng cử viên Geogre W.Bush và John Kerry vào chức vụ Tổng thống
Hoa Kỳ thực sự sôi động và thu hút không chỉ đối với người dân Hoa Kỳ mà còn
đối với nhân dân thế giới nói chung. Điều này dẫn đến nhu cầu tìm hiểu về chế độ
bầu cử ở Hoa Kỳ bao gồm bầu cử Tổng thống và bầu cử Quốc hội (Hạ viện và
Thượng viện). Tuy nhiên, bầu cử Quốc hội tại Hoa Kỳ là một chế độ tương đối ổn
định, không gây nhiều tranh cãi. Vì vậy, đó là lý do của việc báo cáo khoa học này
nghiên cứu chủ yếu về bầu cử Tổng thống.
NỘI DUNG CHÍNH
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ BẦU CỬ HOA KỲ
Luật bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ được quy định trong Điều 2 Hiến pháp Hợp
chủng quốc với 4 điều khoản cụ thể. Theo đó, cứ 4 năm thì bầu Tổng thống 1 lần
theo cơ chế đại cử tri. Không một người nào có quyền được bầu làm Tổng thống
nếu không phải là công dân sinh ra trên đất Hoa kỳ, phải từ 35 tuổi trở lên và có
trên 14 năm cư trú trên lãnh thổ Hợp chủng quốc. Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng
thống điều hành bộ máy hành chính gồm hơn 3,1 triệu người, với 60 cơ quan độc
lập, 14 bộ và Văn phòng Tổng thống. Ngoài ra, Tổng thống có quyền bổ nhiệm và


bãi nhiệm nhiều quan chức chủ chốt trong nhánh hành pháp như các nhân viên Nhà
Trắng, bộ trưởng các bộ, và những quan chức cao cấp trong các bộ và các cơ quan
độc lập. Có thể vì vậy mà cơ chế bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ rất cụ thể, diễn ra
trong một thời gian dài và chịu nhiều tác động của các tổ chức chính trị-xã hội.
II. QUÁ TRÌNH BẦU CỬ TỔNG THỐNG HOA KỲ
Các chính trị gia Hoa Kỳ cho rằng cách bầu cử Tổng thống của họ là một
trong những tiến trình cởi mở và dân chủ nhất trên thế giới. Tuy nhiên, đối với
người nước ngoài thì đây lại là cuộc bỏ phiếu phức tạp nhất. Thông thường, đối với
đa số các nước, bầu cử chỉ diễn ra trong vài tuần nhưng đối với Hoa Kỳ thì bầu cử
kéo dài qua nhiều giai đoạn nhưng cơ bản thì có 2 giai đoạn chính:
Bầu cử sơ bộ
Đại hội đảng
Tổng tuyển cử
1. Bầu cử sơ bộ
Giai đoạn này có thể được coi là giai đoạn đề cử ứng cử viên Tổng thống.
Các thủ tục, điều kiện đề cử ứng cử viên Tổng thống không được quy định rõ ràng
trong Hiến Pháp và hệ thống này thường rất phức tạp và có thể coi là hỗn loạn, luôn
2
ở trong tình trạng thay đổi liên tục. Và những ứng cử viên thành công nhất là người
hiểu được những sự rắc rối và có thể xoay sở tốt với chúng.
Có nhiều hình thức đề cử ứng cử viên Tổng thống:
-Từ năm 1796: những nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ gắn liền với một trong số
các chính Đảng thời đó họp mặt không chính thức để thoả thuận về những người
được đề cử cho vị trí Tổng thống và phó Tổng thống của Đảng họ. Đây thường
được gọi là “Họp kín để bầu lãnh tụ” (King Cancus). Chế độ này tồn tại trong gần
30 năm và tan vỡ vào năm 1824.
-Sau năm 1824, các Hội nghị đề cử toàn quốc đã thay thế chế độ họp kín với
sự tham gia của đại biểu các bang để chọn ra các ứng cử viên Tổng thống, phó
Tổng thống và để thoả thuận về quy định và chính sách của họ. Trong suốt thế kỷ
XIX sang thế kỷ XX, các hội nghị đề cử được điều hành bởi lãnh đạo Đảng ở các

bang, những người này sử dụng ảnh hưởng của mình để chọn ra các đại biểu của
bang họ. Nhưng về sau thì cho phép Đảng viên của các bang được lựa chọn đại
biểu dự Hội nghị trong các cuộc bầu cử sơ bộ. Cho đến năm 1916, hơn một nửa các
bang tổ chức bầu cử Tổng thống sơ bộ.Và đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ II,
sau bầu cử sơ bộ, các ứng cử viên còn có thể thông qua việc xuất hiện trên truyền
hình để thể hiện sức lôi cuốn, sự nổi tiếng và khả năng trúng cử của mình. Jonh
Kennedy, Richard Nixon đã từng thành công phần lớn là nhờ vào hình thức này.
Trong giai đoạn này có rất nhiều biến cố xảy ra và nhờ nó mà tiến trình bầu
cử sơ bộ thay đổi rất nhiều, có rất nhiều cải cách. Vào năm 1831, một Đảng nhỏ
chiếm thiểu số là đảng Chống Mason họp mặt tại thành phố Baltimore, bang
Maryland, để lựa chọn ứng cử viên và xây dựng một cương lĩnh gồm các nguyên
tắc và chính sách một chính Đảng hoặc ứng cử viên sẽ áp dụng. Và ngay năm sau
đó, các đảng viên đảng Dân Chủ họp trong cùng địa điểm để chọn ra những ứng cử
viên của họ. Ngoài ra, Chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ giữa những năm 1960 và
kéo dài sang những năm 1970, đã gây chia rẽ trong nội bộ đảng Dân Chủ, tạo ra
sức ép đòi cải cách hơn nữa. Đó là những cuộc biểu tình mạnh mẽ của phong trào
3
phản chiến trên các đường phố của Chicago, năm 1968. Bất chấp việc đó, đảng Dân
Chủ đã chọn phó Tổng thống Hubert Humphrey, người trước đó quyết định không
tham gia bất cứ cuộc bầu cử sơ bộ nào của đảng Dân Chủ và do đó trở thành đối
tượng của những hoạt động đấu tranh phản chiến.
-Ngày nay, nhờ những cải cách lớn mà các Đảng viên Dân Chủ tiến hành ở
trên đã khuyến khích hầu hết các chính quyền bang, chính phủ lập ra luật bầu cử
cho cư dân của mình, tổ chức bầu cử sơ bộ.
Theo quy định hiện nay, một cuộc bầu cử sơ bộ là một cuộc bầu cử giữa
những người ủng hộ cùng một Đảng để chọn ra những ứng cử viên của Đảng đó sẽ
tham gia cuộc tổng tuyển cử.
Tuỳ theo luật pháp của từng bang, cử tri có thể bỏ phiếu trực tiếp cho các
ứng cử viên Tổng thống của một Đảng hoặc có thể bỏ phiếu gián tiếp cho những
đại biểu dự Hội nghị đề cử - những người cam kết sẽ ủng hộ ứng cử viên đó. Ngoài

ra, các bang có thể lựa chọn một cách khác là tổ chức họp kín - hội nghị đa cấp.
Trong đó:các Đảng viên sống trong một khu vực địa lý tương đối nhỏ - một phân
khu cục bộ - họp mặt và bầu cho những đại biểu cam kết sẽ ủng hộ những ứng cử
viên nhất định.Những đại biểu này đại diện cho cho phân khu của mình tại Hội
nghị cấp hạt chọn ra những đại biểu để tham dự hội nghị cấp bang.Các đại biểu tại
Hội nghị cấp bang chọn đại biểu đại diện cho bang đó tại hội nghị toàn quốc.
Ví dụ như cuộc họp kín ở IOWA:
1.Các buổi họp kín được tổ chức tại hơn 2000 phân khu trên khắp bang Iowa
để chọn ra hơn 1500 đại biểu dự 99 hội nghị cấp hạt.
2.Các hội nghị được tổ chức ở các hạt để chọn ra hơn 3000 đại biểu tham gia
5 hội nghị của khu vực bầu cử Quốc hội.
3.Các hội nghị được tổ chức tại các khu vực bầu cử Quốc hội để chọn ra các
đại biểu của vùng tham dự hội nghị toàn quốc của Đảng.Đây cũng là những đại
biểu tham dự hội nghị của bang.
4
4.Các hội nghị của bang bầu chọn những đại biểu đại diện bang để tham dự
hội nghị toàn quốc của Đảng. Các Đảng viên Dân Chủ cũng lựa chọn các đại biểu
là lãnh đạo Đảng ở bang và các quan chức được bầu.
Hệ thống này kéo dài , đòi hỏi mất nhiều thời gian song việc ủng hộ các ứng
cử viên về cơ bản được quy định ở vòng bỏ phiếu đầu tiên.
Số lượng đại biểu tới Hội nghị toàn quốc dựa vào: dân số của bang, sự ủng
hộ trước đây của bang đó đối với các ứng cử viên Tổng thống của Đảng, số lượng
các quan chức được bầu và lãnh đạo Đảng đang phục vụ trong cơ quan công quyền.
Hệ thống bầu cử này có nhiều khác nhau giữa hai đảng Dân Chủ và Cộng
Hoà.
-Đối với các đảng viên Dân Chủ: Chỉ có những đảng viên Dân Chủ có đăng
ký, sống trong phân khu và đủ tư cách bỏ phiếu mới được tham gia. Những người
tham gia được yêu cầu gia nhập những nhóm ủng hộ cho các ủng hộ cho các ứng
cử viên. Để đủ điều kiện tồn tại, một nhóm phải gồm ít nhất 15% số người có mặt.
Những nhóm không đủ điều kiện sẽ bị giải tán.

-Đối với các đảng viên Cộng Hoà: Những người tham gia phải có đủ tư cách
bỏ phiếu song không nhất thiết phải đăng ky là đảng viên Cộng Hoà, họ bỏ phiếu
ủng hộ ứng cử viên Tổng thống trong một cuộc bỏ phiếu kín. Các lá phiếu được
xếp thành bảng trên cơ sở toàn bang. Những đại biểu tham dự hội nghị cấp hạt sau
đó được lựa chọn bởi bất kỳ phương pháp nào mà hội nghị họp kín chọn, hoặc bằng
cách bầu cử trực tiếp hoặc cân đối trên cở sở bỏ phiếu thử.
Tuy nhiên, giữa hai Đảng vẫn có hai khuynh hướng chung quan trọng:
-Ngày càng có nhiều bang chuyển các cuộc bầu cử sơ bộ và họp kín của họ
đến thời điểm khởi đầu quá trình bầu cử nhằm tạo ra nhiều ảnh hưởng hơn đối với
việc lựa chọn người được đề cử, khuyến khích các ứng cử viên giải quyết những
nhu cầu và lợi ích của bang và chi tiền của chiến dịch tranh cử vào để giải quyết
những vấn đề đó.
5
-“Khu vực hoá”: các bang hợp tác với nhau để tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ
và họp kín của họ vào cùng một thời điểm để tối đa hoá ảnh hưởng đối với một khu
vực. Điều này buộc các ứng cử viên bắt đầu chiến dịch tranh cử sớm hơn để có thể
kiếm được một chỗ đứng tại những bang tổ chức các cuộc bầu chọn ban đầu.
Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là truyền thanh và
truyền hình, cộng với sự ủng hộ của lãnh đạo Đảng tại bang đã đóng một vai trò rất
quan trọng để các ứng cử viên có thể quan tâm tới tất cả các cử tri ở những bang
mà có tổ chức bầu cử sơ bộ vào cùng một ngày.
Việc này đem lại lợi ích rất to lớn cho những ứng cử viên được thừa nhận
trên toàn quốc, ví dụ như Tổng thống đương nhiệm, thống đốc của các bang lớn,
các Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ Hoa Kỳ, những người có khả năng tiếp cận tiền
bạc, giới truyền thông và sự hỗ trợ của các tổ chức kinh tế và xã hội. Năm 2004, 8
ứng cử viên Dân Chủ đã gây quỹ khoảng 25 triệu đô-la và chi 7 triệu đô-la tính
đến ngày 31/3/2003. Trong số các ứng cử viên này, những người có ghế trong
Quốc hội gây được quỹ nhiều nhất, thuê những cố vấn chính trị nổi tiếng nhất, bắt
đầu xây dựng những tổ chức tiến hành những chiến dịch vận động tranh cử lớn
nhất.

Những cải cách trong quá trình đề cử ứng cử viên Tổng thống đã tạo cơ sở
cho sự tham gia của dân chúng:
Năm 1968: 12 triệu người bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử sơ bộ, gần 11% số
dân trong độ tuổi bầu cử.
Năm 2000: 35 triệu người tham gia trong đó: 20 triệu người bỏ phiếu bầu
chọn Geogre W Bush và các đối thủ của đảng Cộng Hoà, 15 triệu người bỏ phiếu
bầu chọn Al Gore và các ứng cử viên của đảng Dân Chủ.
Nhìn chung, đây là bước đầu tiên để chọn ứng cử viên Tổng thống của mỗi
Đảng. ở hầu hết các nước, các Đảng tự chọn ứng cử viên. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ,
các cử tri tuyên bố ủng hộ Đảng này hay Đảng khác chọn ra một người từ danh
sách ứng cử viên. Các ứng cử viên, cạnh tranh với chính thành viên của Đảng
6
mình, phải giành đủ sự ủng hộ của các bang trong vòng đầu để có được đại đa số
đại biểu tại đại hội Đảng. Một số bang như Iowa, sử dụng hệ thống họp kín, chứ
không phải bỏ phiếu sơ bộ, để chọn ra ứng cử viên. Họp kín phức tạp hơn và hoạt
động bằng cách chọn các đại biểu qua rất nhiều giai đoạn.
SỐ LƯỢNG CÁC CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG SƠ BỘ VÀ TỶ
LỆ % CÁC ĐẠI BIỂU HỘI NGHỊ TỪ CÁC BANG CHỦ YẾU TÍNH
THEO ĐẢNG NĂM 1912-2000
Đảng Dân Chủ Đảng Cộng Hoà
N
ăm
Số các
cuộc bầu cử
sơ bộ ở bang
% đại
biểu từ các
bang chủ
yếu
N

ăm
Số các
cuộc bầu cử
sơ bộ ở bang
%
đại biểu từ
các bang
chủ yếu
1
912
12 32.9 1
912
13 41.7
1
916
20 53.5 1
916
20 58.9
1
920
16 44.6 1
920
20 57.8
1
924
14 35.5 1
924
17 45.3
1
928

17 42.2 1
928
16 44.9
1
932
16 40.0 1
932
14 37.7
1
936
14 36.5 1
936
12 37.5
1
940
13 35.8 1
940
13 38.8
1
944
14 36.7 1
944
13 38.7
7
1
952
15 18.7 1
952
13 39.0
1

956
19 42.7 1
956
19 44.8
1
960
16 38.3 1
960
15 38.6
1
964
17 45.7 1
964
17 45.6
1
968
17 37.5 1
968
16 34.3
1
972
23 60.5 1
972
22 52.7
1
976
29 72.6 1
976
28 67.9
1

980
31 74.7 1
980
35 74.3
1
984
26 62.9 1
984
30 68.2
1
988
34 66.6 1
988
35 76.9
1
992
39 78.8 1
992
38 80.4
1
996
34 62.6 1
996
43 90.0
2
000
40 85.7 2
000
43 93.1
(Nguồn: số liệu của Uỷ ban Quốc gia của đảng Dân Chủ, Uỷ ban Quốc gia

của đảng Cộng Hoà và Uỷ ban bầu cử Liên Bang)
2. Đại hội Đảng
Những thay đổi trong quá trình đề cử ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ đã
làm suy giảm tầm quan trọng của Hội nghị đề cử quốc gia. Thực tế thì những người
8
được đề cử ra ứng cử viên Tổng thống được xác định bởi cử tri vào giai đoạn tương
đối sớm trong quá trình đề cử. Tuy nhiên, các hội nghị này vẫn là một trong những
sự kiện lớn trên chính trường Hoa Kỳ, được truyền hình Hoa Kỳ phát sóng hàng
năm. Việc này chỉ nhằm mục đích là thông tin đến cử tri, huy động sự ủng hộ và
tạo nên sự hứng khởi trong các đảng viên về ứng cử viên của Đảng mình, tập trung
sự chú ý của đất nước vào cuộc tổng tuyển cử sắp tới.
Mỗi bang tới phòng họp với đại biểu và biểu ngữ tuyên bố ứng cử viên Tổng
thống nào được hậu thuẫn. Đại biểu từ mỗi bang chính thức chọn ủng hộ ứng cử
viên Tổng thống nào. ứng cử viên giành được sự ủng hộ của nhiều đại biểu nhất là
chiến thắng. Và người giành chiến thắng cũng đề cử nhân vật liên danh chức phó
Tổng thống với mình.
Quá trình đề cử ứng cử viên Tổng thống chưa phải là hoàn thiện song trong
những thế kỷ gần đây nó đã nâng cao sự tham gia của công chúng, cải thiện tính đại
diện về dân số học, củng cố quan hệ giữa các Đảng viên bình thường và các ứng cử
viên. Quá trình này tạo lợi thế cho những ứng cử viên nổi tiếng hơn, có thể quyên
góp được nhiều tiền hơn, có thể tổ chức chiến dịch tranh cử tạo hiệu quả nhất và
tạo nhiều sự hứng khởi nhất, trong cử tri ngay từ giai đoạn đầu tiên trong mùa bầu
cử sơ bộ.
3. Tổng tuyển cử
Vào ngày thứ ba tiếp sau ngày thứ hai đầu tiên trong tháng 11 vào những
năm chia hết cho 4, là ngày tổng tuyển cử Tổng thống Hoa Kỳ. Thực chất là để ấn
định thành phần cử tri đoàn. Công dân Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên sẽ được đi bầu cử
nếu có đăng ký. Công dân Hoa Kỳ là tất cả người dân tại nước này, kể cả quân
nhân, sỹ quan, viên chức, chuyên gia, và nhà ngoại giao của Hoa Kỳ đang có mặt ở
các nước trên thế giới. Ngay cả những người đang ở trong tù cũng được bầu Tổng

thống nếu tội án dưới 3 năm.
3.1.Vai trò người điều hành bầu cử
9
Do bản chất địa phương của các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ nên có hàng ngàn
người điều hành bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức và tiến hành bầu cử. Đó là việc
định ngày cho các cuộc bầu cử, chứng nhận tính hợp lệ của các ứng cử viên, đăng
ký cho cử tri hợp lệ, chuẩn bị danh sách cử tri, lựa chọn các thiết bị phục vụ bầu cử,
thiết kế lá phiếu, tổ chức lực lượng nhân viên điều hành việc bỏ phiếu trong ngày
bầu cử, lập bảng kết quả bỏ phiếu và chứng nhận kết quả. Đây là một công việc đòi
hỏi sự chính xác rất cao, vì vậy người điều hành bầu cử, thường là một nhân viên
hồ sơ của quận hoặc thành phố, có một trách nhiệm nặng nề.
Họ chịu trách nhiệm đăng ký cử tri trong suốt cả năm và xác định xem ai là
người đủ điều kiện bỏ phiếu trong cuộc bầu cử. Họ phải thiết kế lá phiếu cho cuộc
bầu cử để đảm bảo rằng tát cả các ứng cử viên được chứng nhận đều được liệt kê
và tất cả những vấn đề cần quyết định đều được trình bày chính xác, càng đơn giản
và càng rõ ràng càng tốt. Ngoài ra, họ còn phải lựa chọn những thiết bị bầu cử cụ
thể sẽ sử dụng sao cho phù hợp với lá phiếu. Và họ chịu trách nhiệm lưu trữ và bảo
quản các thiết bị này trong thời gian giữa các cuộc bầu cử. Một trong những nhiệm
vụ khó khăn nhất của họ là thuê và huấn luyện một đội ngũ nhân viên tương đối lớn
để có thể làm việc trong một ca dài khoảng từ 10h đến 15h trong ngày bầu cử.
Công việc của họ thực sự khó khăn khi thiết bị bầu cử và mẫu lá phiếu thay
đổi trong thời gian giữa các cuộc bầu cử. Trong hoàn cảnh này thì những công việc
như kiểm tra tư cách cử tri phải giao cho những tình nguyện viên của các chính
đảng lớn.
3.2.Quá trình bỏ phiếu
Mỗi địa hạt đều có phòng bầu cử dành cho dân trong khu vực và có thể thay
đổi mỗi năm. Thùng phiếu có thể tại một nhà chứa xe của một người phục vụ cộng
đồng, có thể tại một trường học, hay một cơ quan. Giờ bầu cử khác nhau tuỳ vùng
và tiểu bang, nhưng thông thường từ 7h sáng đến 8h tối theo giờ địa phương. Tại
văn phòng bầu cử, ban vận động thuyết phục cử tri bỏ phiếu cho đảng của họ một

lần nữa. Mặc dù trước đó người ta đã nhận truyền đơn, điện thoại “quảng cáo” về
10
các ứng cử viên. Trước khi vào phòng phiếu, nhân viên ban bầu cử hướng dẫn cách
dùng máy bỏ phiếu mặc dù các cử tri đã biết.
Đối với việc bỏ phiếu, Hoa Kỳ có rất nhiều loại thiết bị bầu cử và công nghệ
này được thay đổi liên tục. Trước đây, khi công nghệ bầu cử chưa được hiện đại
hoá thì đó là những lá phiếu đánh dấu “X” bên cạnh tên ứng cử viên được chọn.
Tuy nhiên, tính đến năm 2004 thì đã có 6 hệ thống bỏ phiếu được sử dụng mang
tính hiện đại hoá rất cao. Đó là:
-Đục lỗ thẻ: Cử tri bấm lỗ bên cạnh sự lựa chọn của mình trên phiếu bầu
giấy. Loại này chiếm 13,7% tổng số phiếu.
-Cần gạt: Cử tri gạt một chiếc cần nhỏ bên cạnh tên của những ứng cử viên
mình chọn, 14%.
-Phiếu scan trên máy tính: Cử tri điền vào lá phiếu trên máy. Hình thức này
chiếm 34,9%.
-Thiết bị điện tử ghi nhận trực tiếp: Cử tri chọn ứng cử viên trực tiếp trên
máy, 29,3%.
-Phiếu giấy: Cử tri đánh dấu trên giấy và phiếu được kiểm bằng tay, 0,7%.
-Hỗn hợp: Các thành phố trong mỗi hạt sử dụng các loại máy khác nhau.
Trên đây là những hình thức bỏ phiếu trực tiếp hay còn gọi là bỏ phiếu kín,
ngoài ra dân Hoa Kỳ có quyền không đi bầu nếu họ không thích cả hai vị ứng cử
viên Tổng thống. Tuy nhiên, nếu muốn dự phần trong cuộc bầu cử dù ở đâu người
ta cũng có thể bầu qua thể thức vắng mặt. Phong bì đã được gửi đến cho từng công
dân Hoa Kỳ đã đăng ký vài tháng trước khi cuộc đua vẫn chưa đến luc căng thẳng.
Sống ở nước ngoài, công dân Hoa Kỳ chỉ việc gửi thư của mình về tiểu bang đã
đăng ký và chờ kết quả. Nhiều cử tri gặp khó khăn về phương tiện đi lại hay không
thích đến những cơ sở bỏ phiếu kín thì bầu theo thể thức này, nhưng phải theo thời
hạn quy định của từng tiểu bang và có xác nhận ngày gửi để xác minh tính trung
thực.
3.3.Kiểm phiếu

11
Hiện nay, có một điều khoản mới là “bỏ phiếu sớm”. Theo đó, các máy bầu
cử được đặt trong các siêu thị và những nơi công cộng khác trong vòng 3 tuần
trước ngày bầu cử. Các công dân có thể tiện đường ghé vào để bỏ phiếu. Và tỷ lệ
công dân bỏ phiếu trước ngày bầu cử tăng lên nên ngày thứ 3 đầu tiên sau ngày thứ
2 đầu tiên trong tháng 11 có thể được coi là ngày kiểm phiếu. Những lá phiếu này
chỉ được kiểm vào cuối ngày bầu cử nhằm mục đích là để trước khi các điểm bỏ
phiếu đóng cửa không có thông tin nào được tiết lộ về việc ứng cử viên nào đang
dẫn điểm hay tụt lại sau.
3.4.Đại cử tri
Khi cử tri Hoa Kỳ đi bỏ phiếu bầu Tổng thống, nhiều người cho rằng họ
đang tham gia vào một cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp. Về mặt pháp lý thì điều
đó không đúng vì sự tồn tại của chế độ đại cử tri, một di sản Hiến pháp thế kỷ
XVIII.
Đại cử tri là tên đặt cho một nhóm “các đại biểu cử tri”, được các nhà hoạt
động chính trị và thành viên các Đảng ở các bang đề cử. Khi đã cam kết với ứng cử
viên này hoặc ứng cử viên kia, vào ngày bầu cử các đại biểu này được bầu theo
phương thức phổ thông.
Hoạt động của đại cử tri:
Các cử tri đã đăng ký ở 50 bang và Quận Colombia bỏ phiếu bầu Tổng thống
và phó Tổng thống vào thứ 3 đầu tiên sau thứ 2 đầu tiên của tháng 11 trong năm
bầu cử.
Những ứng cử viên naò giành thắng lợi trong cuộc bầu phiếu phổ thông ở
bang thường giành được tất cả số phiếu bầu của đại biểu ở bang đó.
Số đại cử tri của một bang bằng số Thượng Nghị sĩ và Hạ Nghị sĩ của bang
đó.Quận Colombia không có đại diện bỏ phiếu trong Quốc hội thì được 3 phiếu đại
cử tri.
Các đại biểu gặp gỡ và chính thức bầu Tổng thống và phó Tổng thống vào
thứ 2 đầu tiên sau ngày thứ 4 thứ 2 trong tháng 12 trong năm bầu cử Tổng thống.
12

Một ứng cử viên muốn trúng cử phải giành được đa số phiếu. Vì có 538 đại cử tri
nên cần phải có tối thiểu là 270 phiếu thì mới giành được thắng lợi.
Nếu không có ứng cử viên nào đạt được đa số phiếu của đại cử tri, Hạ viện
sẽ phải quyết định người chiến thắng trong số ba người giành nhiều phiếu bầu nhất
của đại cử tri. Khi làm như vậy, thành viên của Hạ viện biểu quyết theo bang, mỗi
cử tri đoàn của bang có 1 phiếu.
Nếu không có ứng cử viên phó Tổng thống nào giành được đa số phiếu của
đại cử tri, Thượng viện sẽ phải quyết định người giành thắng lợi trong số 2 người
giành nhiều phiếu nhất của đại cử tri.
Tổng thống và phó Tổng thống tuyên thệ nhậm chức vào ngày 20 tháng 1
năm sau, sau khi bầu cử.
Sức mạnh bỏ phiếu của đại cử tri tính theo bang
Bang Số đai
cử tri
Bang Số đại
cử tri
Bang Số đại
cử tri
13
Alabama
Alaska
Arizona
Arkansas
California
Colodaro
Connecticut
Delaware
Colombia
Florida
Geogia

Hawait
Idaho
Illinois
Indiana
Iowa
Kansas
Kentucky
9
3
10
6
55
9
7
3
3
27
15
4
4
21
11
7
6
8
Louisiana
Maine
Maryland
Massachusetts
Michigan

Minnesota
Mississippi
Missouri
Montana
Nebraska
Nevada
NewHamsphire
New Jersey
New Mexico
New York
North Carolina
North Dakota
Ohio
9
4
10
12
17
10
6
11
3
5
5
4
15
5
31
15
3

20
Oklahoma
Oregon
Pennsylvania
Rhode Island
SouthCarolina
South Dakota
Tennessee
Texas
Utah
Vermont
Virginia
Washington
West Virginia
Winconsin
Wyoming
7
7
21
4
8
3
11
34
5
3
13
11
5
10

3
Total 538

(Số liệu từ trang web: của Đại sứ quán Hoa Kỳ
tại Việt Nam)
Năm 2004, bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ được coi là cuộc chạy đua hết sức
căng thẳng và sát nút giữa Tổng thống đương nhiệm Geogre W.Bush của đảng
14
Cộng Hoà và ứng cử viên John Kerry của đảng Dân Chủ. Và Tổng thống Bush đã
tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai của mình. Có rất nhiều lý do giải thích cho kết quả này.
Dân Hoa Kỳ vẫn muốn tổng thống Bush nắm chính quyền bởi họ không quan tâm
lắm đến chính sách đối ngoại của ông và việc hoà giải với Châu Âu. Họ chỉ quan
tâm đến quyền lợi kinh tế của họ, những vấn đề về việc làm, quốc phòng. Hơn nữa,
họ không tin vào lời hứa của ông Kerry, một người không kiên định và hay thay
đổi lập trường. Qua ba lần tranh luận giữa hai ứng cử viên, nhiều người nói rằng
xem “ai nói dối giỏi hơn” bởi các cuộc tranh luận này thì xoay quanh các vấn đề
như: chiến tranh tại Iraq, chống khủng bố, vấn đề chế tạo vũ khí hạt nhân ở Bắc
Hàn và Iran; thuế, bảo hiểm sức khoẻ, việc làm, chính sách kinh tế; các vấn đề xã
hội như việc có cho phép phụ nữ phá thai hay không, hôn nhân đồng giới có được
chấp nhận hay không, Đây là những vấn đề gây nhiều tranh cãi trong dư luận Hoa
Kỳ và dư luận quốc tế.
Ngoài ra, ông Bush tái đắc cử có lẽ một phần nhờ cương lĩnh của đảng Cộng
Hoà. Dưới đây là trích lược cương lĩnh của hai Đảng về một số vấn đề đang gây
được sự chú ý rất lớn
Trích lược cương lĩnh
V
ấn đề
Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa
“Một thế giới an toàn hơn, một
nuớc Mỹ có triển vọng hơn”

Cương lĩnh của Đảng Dân chủ
“Mạnh hơn ở trong nuớc và đuợc
tôn trọng trên thế giới”
C
hủ
nghĩa
khủng
bố
Chúng ta đang bảo vệ hũa
bỡnh bằng cỏch tấn cụng kẻ thự.
Chỳng ta đang đối đầu với bọn
khủng bố ở nuớc ngoài bởi vậy
chúng ta không phải đối đầu với
bọn chúng ở trong nuớc. Chúng ta
Chiến thắng trong cuộc chiến
chống khủng bố cần phải có sự kết
hợp giữa quyết tâm của nuớc Mỹ
với sự hợp tác của cộng đồng quốc
tế trên tất cả các mặt trận.
Chiến thắng này đòi hỏi
15
đang tiêu diệt giới lãnh đạo của các
mạng luới khủng bố bằng các cuộc
đột kích bất ngờ, phá hỏng kế
hoạch và ngăn chặn nguồn tài trợ
của bọn chỳng và truy lùng chúng
ráo riết.
Chúng ta đang gìn giữ hòa
bình cùng với hơn 80 quốc gia đồng
minh và các tổ chức quốc tế khác

nhằm cô lập và chống lại bọn
khủng bố cung nhu các chế độ
ngoài vòng pháp luật.
Chúng ta không thương
luợng với bọn khủng bố. Chúng ta
không thể ép hay thuyết phục đuợc
chúng từ bỏ con đuờng giết nguời.
Chỉ khi nào chủ nghia khủng bố bị
tiêu diệt hoàn toàn, lúc đó chúng ta
mới có tự do.
chúng ta phải có khả năng và sẵn
sàng tiến hành các hoạt động quân
sự trực tiếp, hiệu quả và kịp thời,
khi có thể bắt giữ hoặc tiêu diệt các
nhóm khủng bố hay các thủ lĩnh
của chúng; cải tiến mạnh mẽ việc
thu thập và phân tích thông tin tình
báo đi đôi với việc thực thi luật
pháp mạnh mẽ; không ngừng nỗ lực
ngăn chặn nguồn tài chính của bọn
khủng bố; nỗ lực toàn cầu ngăn
không cho các quốc gia thất bại trở
thành sào huyệt của bọn khủng bố;
nỗ lực liên tục ngăn không cho bọn
khủng bố có thể thu nạp thêm thành
viên thông qua các biện pháp ngoại
giao nhân dân hiệu quả; không
ngừng cố gắng về kinh tế và chính
trị nhằm cải tiến giáo dục, tạo dựng
hòa bình, ủng hộ dân chủ và truyền

đi hy vọng.
Ir
aq
Ở Iraq, Hoa Kỳ đang đang
đấu tranh vì sự nghiệp tự do, hòa
bình và an ninh cho chính chúng
ta… Chúng ta hoàn toàn tin tuởng
vào kế hoạch tự trị của nguời Iraq
mà chính phủ lâm thời Iraq hiện
đang thực hiện.
Chúng ta không đuợc phép
thua trong công cuộc xây dựng hòa
bình. Chúng ta không cho phép một
nuớc Iraq thất bại bởi điều đó chắc
chắn sẽ biến Iraq thành thiên đuờng
của bọn khủng bố và là nhân tố gây
bất ổn định ở khu vực Trung Đông.
16
T
rung
Đông
Đảng Cộng hòa ủng hộ chính
sách của Tổng thống Bush trong
việc hợp tác với tất cả các chính
phủ ở Trung Đông có quyết tâm
tiêu diệt mạng luới khủng bố và
trong tương lai chúng ta mong rằng
các quốc gia thân hữu trong khu
vực sẽ cải tổ sâu rộng và dân chủ
hon. Chúng ta sẽ mở rộng nền hòa

bình bằng việc ủng hộ dân chủ, và
chính dân chủ sẽ đem lại hy vọng
và tiến bộ chứ không phải là căm
thù và khủng bố trong một khu vực
Trung Đông rộng lớn hon.
Chúng ta ủng hộ tầm nhìn
của Tổng thống Bush về hai nhà
nuớc Israel và Palestine chung sống
trong hòa bình và an ninh… Nếu
nhân dân Palestine cú dân chủ và
pháp quyền, đấu tranh chống tham
nhũng và kiên quyết chống khủng
bố thì họ có thể giành đuợc sự ủng
hộ của Hoa Kỳ về việc thành lập
một Nhà nuớc Palestine.
Hoa Kỳ cần cú sỏng kiến lớn
về ngoại giao nhõn dõn nhằm ủng
hộ những tiếng núi tự do của thế
giới Arập và Hồi giỏo… và chỳng
ta phải ủng hộ cỏc nhúm nhõn
quyền, cỏc hóng truyền thụng độc
lập, các nghiệp đoàn đang quyết
tâm xây dựng một nền văn hóa dân
chủ từ co sở.
Chúng ta sẽ hành động để
thay đổi Chính quyền Palestine
bằng việc tạo ra một thế hệ lónh
đạo mới có trách nhiệm, cam kết
chống khủng bố và thúc đẩy dân
chủ. Chúng ta ủng hộ việc thành lập

một nhà nuớc Palestine dân chủ
mong muốn chung sống trong hòa
bình và an ninh với Nhà nuớc Do
thái Israel.
W
MD
Chúng ta sẽ không cho phép
những chế độ nguy hiểm nhất trên
thế giới đuợc sở hữu những vũ khí
nguy hiểm nhất.
Mục tiêu an ninh hàng đầu
của chúng ta là ngăn không cho bọn
khủng bố có đuợc những vũ khí
này.
17
V
ai trò
của Hoa
Kỳ trên
thế giới
Chúng ta khẳng định vai trò
của Hoa Kỳ trong việc dẫn dắt thế
giới tới tự do, thịnh vuợng và cơ
hội. Những nỗ lực nhằm mở rộng
tự do kinh tế và chính trị của chúng
ta sẽ đuợc hoan nghênh nhờ nỗ lực
thúc đẩy tự do tôn giáo.
Chúng ta tin vào một nuớc
Mỹ mà nhân dân trên khắp thế giới
đều nguỡng mộ bởi họ biết rằng

chúng ta không chỉ yêu mến tự do
của riêng mình mà còn yêu mến tự
do của chính họ Dân chủ không chỉ
là hy vọng của chúng ta mà còn là
hy vọng của chính họ. Hoà bình và
an ninh không chỉ cho chúng ta mà
còn cho cả thế giới.
T
hương
mại
Thương mại tự do phải là
hình thức thương mại công bằng
nhằm thúc đẩy các mục tiêu kinh tế
của Mỹ và bảo vệ việc làm của
nguời dân Mỹ. Để đạt đuợc mục
tiêu này, chúng ta phải hành động
song phương, ở cấp khu vực và
toàn cầu nhằm đam phán các hiệp
định thương mại mới và thực thi
các cam kết thương mại hiện có.
Uu tiên hàng đầu của chúng
ta là dỡ bỏ các rào cản để tiến tới
một nền thương mại tự do, công
bằng và cân bằng sao cho các quốc
gia khác cũng sẽ mở cửa thị truờng
của họ giống như ta. Chúng ta sẽ
dùng tất cả các công cụ hiện có để
tạo ra những co hội mới cho công
nhân, nông dân và các doanh
nghiệp Hoa Kỳ và dỡ bỏ những

hàng rào tại các thị truờng xuất
khẩu chính của chúng ta.
Y
tế thế
giới
Chúng ta hoàn toàn ủng hộ
sự chỉ đạo của Tổng thống trong
việc gia tăng mạnh mẽ các nguồn
lực nhằm tìm ra vắc-xin chống
HIV/AIDS và dành ít nhất 15 tỷ đô-
Giải quyết những thách thức
y tế toàn cầu-trong đó có cả dịch
bệnh AIDS là một nghia vụ nhân
đạo và là yêu cầu của an ninh quốc
gia Và chúng ta sẽ khôi phục lại
18
la Mỹ trong năm năm cho các
chương trình điều trị, chăm sóc và
phòng chống trên toàn thế giới có
biện pháp toàn diện chống lại dịch
bệnh này trong đó bao gồm cả giáo
dục, kiêng cữ, phòng chống, thử
nghiệm, điều trị và chăm sóc.
sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong vấn
đề y tế thế giới bằng cách loại bỏ
những chính sách dựa trên ý thức
hệ chứ không phải khoa học.
A
n ninh
nội địa

Các co quan trọng yếu bảo vệ
an ninh quốc gia của Hoa Kỳ đang
đuợc chuyển đổi nhằm đối phó với
những thách thức trong công cuộc
bảo vệ đất nuớc trong kỷ nguyên
mới.
Chúng ta cần nâng cao khả
năng thu thập, phân tích và chia sẻ
thông tin sao cho có thể truy tìm
đuợc những kẻ khủng bố và ngăn
chặn truớc khi chúng ra tay.
V
ấn đề
nhập cư
Đảng Cộng hũa ủng hộ việc
cải tổ hệ thống nhập cu nhằm đảm
bảo rằng đó là một hệ thống hợp
pháp, an toàn, có trật tự và mang
tính nhân đạo Một nền kinh tế
đang tăng truởng sẽ cần thêm nhiều
nhân công và Tổng thống Bush đa
đề xuất một chương trỡnh việc làm
tạm thời mới dành cho những
truờng hợp khụng thể tìm đuợc
công dân Mỹ nào phù hợp với công
việc.
Chúng ta sẽ mở rộng cam kết
cho phép những nguời đang đấu
tranh vì tự do đuợc trở thành công
dân Những nguời nhập cư hiện

đang ở trong lãnh thổ Hoa Kỳ mà
đa đuợc kiểm tra về nhân thân, làm
việc chăm chỉ, nộp thuế thì cần phải
đuợc tham gia đầy đủ vào xã hội
Hoa Kỳ.
Ki
nh tế
Chúng tôi mong muốn ngày
càng có nhiều nguời sở hữu hoặc
Chúng tôi sẽ khôi phục lại
ngành công nghiệp chế tạo của Hoa
19
thành lập các doanh nghiệp nhỏ,
ngày càng có nhiều nguời tự lo cho
vấn đề chăm sóc y tế của họ, ngày
càng có nhiều nguời đuợc huởng
lương huu.
Kỳ, tạo việc làm mới, bảo vệ việc
làm hiện có bằng cách chấm dứt
không cho các công ty chuyển việc
làm ra nuớc ngoài đuợc nợ thuế
đồng thời giảm thuế cho những
công ty nào đang tạo thêm việc làm
ở trong nuớc.
(Nguồn: trích từ “Cương lĩnh đảng Dân Chủ” tại
/>và “Cương lĩnh đảng Cộng Hoà” tại
/>4. Một số yếu tố liên quan đến bầu cử ở Hoa Kỳ
Nhắc đến bầu cử Tổng thống, đối với người dân Hoa Kỳ, đó là sự cạnh tranh
của hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà. Ngoài ra, nó còn có sự góp mặt của các nhóm
lợi ích và vai trò rất to lớn của thông tin đại chúng.

4.1.Hai đảng lớn nhất ở Hoa Kỳ
Đối với người dân nước ngoài nói chung và người dân Hoa Kỳ nói riêng, họ
cho rằng đa đảng là cần thiết. Như vậy đảm bảo được tính dân chủ trong chính
quyền. tại Hoa Kỳ, tính đến năm 2004, người dân biết đến có ít nhất 56 đảng phái
chính trị trên toàn quốc. Đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hoà là “hai đảng lớn” (The
Two Major Parties) tại Hoa Kỳ hiện nay. Tổng cộng có tất cả 37 “đảng phái thứ
ba” (The Third Parties), nhưng trong năm 2004 chỉ có 7 đảng chính trị thuộc đảng
phái thứ ba tham gia vào cuộc chạy đua bầu cử Tổng thống. Ngoài ra, còn có 17
đảng phái khác (The Other Parties) không chính thức với lực lượng không đáng kể,
không được nhiều người ủng hộ.
Đảng Dân Chủ: Đảng Dân Chủ được ông Thomas Jeffeson sáng lập năm
1792, trong một cuộc hội nghị kín để đấu tranh cho “Bản tuyên ngôn nhân quyền”
20
và chống lại nhóm đại biểu của đảng Liên Bang. Năm 1798, đảng mới thực sự lấy
tên là đảng Dân chủ, đảng của người bình dân. Và trong năm 1800, ông Jefferson
đã đắc cử làm Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ thuộc đảng Dân Chủ. Ông phục vụ
xuất sắc trong 2 nhiệm kỳ và được kế nhiệm bởi ông James Madison năm 1808.
Đến năm 1812, ông James Monroe dẫn dắt Hoa Kỳ đạt đến “Kỷ nguyên của phấn
chấn”. Từ năm 2000, sau 2 nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, đảng Dân Chủ
không còn chiếm đa số trong Quốc hội Hoa Kỳ. Năm 2004, ông John Kerry,
Thượng nghị sĩ của tiểu bang Massachusetts là ứng cử viên của đảng Dân Chủ cùng
chung liên danh với ông John Edwards nhưng thất bại.
Đảng Cộng Hoà: Đảng Cộng Hoà ra đời trong những năm đầu của thập niên
1850 bởi những nàh hoạt động chống chế độ nô lệ. Cuộc họp không chính thức của
đảng này diễn ra ở Ripon, Wisconsin, một làng nhỏ phía Tây Bắc tiểu bang
Milwaukee. Và sau đó là cuộc họp chính thức đầu tiên của đảng vào ngày 6/7/1854
tại Jackson, Michigan. Cái tên “Đảng Cộng Hoà” được chọn vì nó ám chỉ sự bình
đẳng, công bằng trong xã hội cũng như chính trị. Hiện nay, đảng Cộng Hoà đang
chiếm ưu thế về chính trị trong Quốc hội và Tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ,
Geogre W.Bush là người thuộc đảng Cộng Hoà.

Mặc dù đảng phái chính trị ở Hoa Kỳ có vai trò hạn chế hơn nhiều so với các
nước khác nhưng nó vẫn là nhân tố quan trọng trong đời sống chính trị Hoa Kỳ.
Các đảng đóng vai trò như những tổ chức trung gian trong quá trình bầu cử. Đảng
vừa đứng ra chọn ứng cử viên cho chính phủ, vừa giúp cử tri dễ dàng hơn trong
việc lựa chọn người mình sẽ bỏ phiếu.
Những chiến dịch vận động tranh cử
Trong quá trình bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, các chiến dịch vận động tranh
cử đóng một vai trò rất quan trọng. Đây là lúc các ứng cử viên đưa ra những chính
sách, đường lối nhằm thu hút, thuyết phục cử tri trong cả nước bỏ phiếu cho mình.
Trong thời đại ngày nay, các ứng cử viên và đội ngũ vận động phải bỏ ra rất nhiều
tiền của để xuất hiện trên truyền hình cả nước. Ngoài ra, hai ứng cử viên của đảng
21
Dân Chủ và đảng Cộng Hoà còn có ba buổi tranh luận trực tiếp trên truyền hình.
Và trong những tuần cuối trước ngày bầu cử, các ứng cử viên thường tập trung chú
vào “các bang chính” để giành được phiếu của đại cử tri.
Vấn đề thường gây được sự chú nhất trong những chiến dịch vận động tranh
cử là tình hình tài chính. Các ứng cử viên thường dựa vào 4 nguồn tài chính để
tranh cử:
(1) Cá nhân, công dân trực tiếp quyên góp tiền
(2) Các Đảng chính trị của họ
(3) Các nhóm lợi ích, thường thông qua các uỷ ban hành động chính
trị (PACs)
(4) Các nguồn của các nhân và gia đình
Sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào phương tiện thông tin đại chúng và phẩm
chất chính trị chuyên nghiệp đã làm cho các đợt vận động bầu cử ngày càng trở nên
tốn kém. Các ứng cử viên Tổng thống đã chi 607 triệu đô-la trong cuộc bầu cử
Tổng thống năm 2000 trong khi các ứng cử viên vào Quốc hội chỉ chi mất hơn 1 tỷ
đô-la. Một ứng cử viên hạng trung bình khi thắng cử vào Thượng viện Hoa Kỳ đã
chi 7,4 triệu đô-la trong năm đó và ứng cử viên hạng trung bình khi thắng cử vào
Hạ viện Hoa Kỳ đã chi 849.000 đô-la. Tuy nhiên, số tiền mà các ứng cử viên chi

tiêu ngày càng ít trong tổng số tiền chi ra với mức độ gây ảnh hưởng đến các cuộc
bầu cử vì các Đảng chính trị và các nhóm lợi ích đóng một vai trò ngày càng lớn
hơn trong việc đối thoại trực tiếp với cử tri.
Muốn làm Tổng thống Hoa Kỳ, phải có phương tiện tiền bạc mà theo Luật
pháp Hoa Kỳ, mỗi ứng cử viên Tổng thống không được sử dụng ngân khoản riêng
hơn 50.000 USD, cho dù ông ta là triệu phú. Vì vậy, họ trông chờ vào Đảng của họ,
các nhà tài trợ: các nhà kinh doanh, công ty tài chính, công nghiệp, hội đoàn,
trường Đại học, cá nhân, Các công ty tài trợ cho một nhà chính trị ra tranh cử
Tổng thống thì họ đang nghĩ đến món lợi kinh tế sau khi ứng cử viên tranh cử
thành công. Với các nhà tài phiệt tại Hoa Kỳ, đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hoà đủ
22
mạnh và có quyền lực để họ nương nhờ, nên ủng hộ tài chính và phương tiện là một
kiểu đầu tư tạo ra lợi nhuận. Đối với người Hoa Kỳ, họ rất thực tế khi nói đến
quyền lợi cá nhân và lợi ích chung. Họ sẽ ly khai khỏi Đảng, dừng tài trợ cho chiến
dịch tranh cử nếu quyền lợi cá nhân của họ bị sứt mẻ,xâm hại.
Ngoài ra, các Đảng chính trị và các nhóm lợi ích cũng tập trung nguồn lực
vào việc đóng góp tài chính cho các ứng cử viên, những người chi tiền cho việc tiếp
xúc cử tri, vừa để thuyết phục cử tri thông qua các hoạt động quảng cáo, thư tín,
và để đảm bảo rằng cử tri sẽ đi bỏ phiếu.
Điều này khiến rất nhiều người lo ngại về khả năng các nhà tài trợ hoặc các
nhóm lợi ích giàu có sẽ tác động quá mức đến chính sách công. Từ đó nhiều giải
pháp được đề xuất nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc sử dụng tiền cho mục đích
chính trị, ban đầu bằng việc nâng cao tính minh bạch để công chúng nhận thức
được hành động tài trợ cho bầu cử và ngăn không cho các “nhóm lợi ích cục bộ”
cản trở “các lợi ích công cộng”. Nhưng bên cạnh đó, có những người mà coi chi
tiêu cho lợi ích bầu cử phù hợp với chi phí hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế
hiện nay và quy mô ngân sách chính phủ. Họ lại cho rằng chi tiêu cho bầu cử là cái
giá mà một nền dân chủ trả cho cuộc đua bầu cử, những khoản đóng góp và chi tiêu
lớn của các nhóm lợi ích là biểu hiện của truyền thống đa nguyên lâu đời ở Hoa Kỳ.
Kể từ năm 70, ở Hoa Kỳ có 3 nguyên tắc chính điều chỉnh luật tài trợ tranh

cử Liên bang, áp dụng cho tất cả các cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội:
Công khai hoạt động tài chính: Việc công khai tài chính trong các cuộc bầu
cử, từ đó thúc đẩy sự theo dõi chặt chẽ các Đảng và ứng cử viên đối lập cũng như
các phương tiện thông tin truyền thống, được coi là rào cản lớn nhất nhằm tránh
nạn tham nhũng có thể phát sinh từ việc quyên góp và chi tiêu cho chiến dịch tranh
cử. Về khía cạnh quản ly này của chính phủ, có một sự đồng thuận chung, ít nhất là
về nguyên tắc. ở cấp liên bang, nguyên tắc này đòi hỏi báo cáo định kỳ, với con số
tổng hợp và chi tiết đối với những khoản tiền trên 200 đô-la.
23
Cấm một số nguồn tài trợ: Các tập đoàn, ngân hàng quốc gia và nghiệp đoàn
từ lâu đã bị cấm sử dụng tiền của họ, lợi nhuận kinh doanh và tiền hội phí, để gây
ảnh hưởng đối với các cuộc bầu cử liên bang (mặc dù nhiều bang cho phép sử dụng
các nguồn này trong các cuộc bầu cử). Tuy nhiên, những tổ chức này có thể thành
lập các uỷ ban hành động chính trị để gây quỹ tự nguyện từ các nhà điều hành, các
cổ đông và thành viên nghiệp đoàn. Những quỹ này có thể được dùng trong các
cuộc bầu cử liên bang, do vậy mà các tập đoàn và nghiệp đoàn tài trợ có thể gây
ảnh hưởng. Các quỹ dành cho vận động tranh cử của công dân nước ngoài cũng bị
cấm sử dụng trong tất cả các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ.
Hạn chế nguồn tài trợ: Luật liên bang hạn chế số tiền quyên góp cho các ứng
cử viên, đảng chính trị và các nhóm tham gia vào các cuộc bầu cử liên bang dù là
của cá nhân, của uỷ ban hành động chính trị hay của các đảng. Trong một cuộc bầu
cử, mỗi cá nhân có thể quyên góp 2000 đô-la cho một ứng cử viên và có thể đóng
góp tổng số là 95000 đô-la cho tất cả các ứng cử viên, các đảng, và các uỷ ban hành
động chính trị trong một đợt bầu cử kéo dài hai năm. Một uỷ ban hành động chính
trị có thể đóng góp 5000 đô-la cho một ứng cử viên trong một cuộc bầu cử nhưng
không hạn chế tổng số tiền đối với tất cả các khoản đóng góp như vậy của một tổ
chức.
Việc này dẫn tới hiện tượng “tiền cứng” và “tiền mềm”. Đây là các thuật ngữ
được dùng để phân biệt các loại quỹ cho mục đích tranh cử mà luật tài chính về vận
động bầu cử liên bang điều chỉnh hoặc không điều chỉnh. “Tiền cứng” (Hard

money) do pháp luật điều chỉnh và có thể được dùng để gây ảnh hưởng đến kết quả
các cuộc bầu cử liên bang, nghĩa là để ủng hộ việc bầu chọn các ứng cử viên cụ thể.
“Tiền mềm” (Soft money) không bị pháp luật điều chỉnh và chỉ được sử dụng vào
các hoạt động không gây ảnh hưởng đến việc bầu chọn các ứng cử viên vào các
chức vụ ở trung ương, nghĩa là cho các hoạt động như đăng ký cử tri, hoạt động
xây dựng Đảng, chi phí quản lý và giúp các ứng cử viên ở bang, địa phương.Nhưng
24
thực chất thì “tiền mềm” có thể có tác động gián tiếp đối với các cuộc bầu cử liên
bang. Đó là việc dùng tiền mềm ủng hộ các vấn đề liên quan dến bầu cử.
Những vấn đề nảy sinh do quan hệ giữa tiền và chính trị đã làm cho việc cải
cách cơ chế tài chính trong bầu cử trở thành vấn đề thường xuyên gây tranh cãi ở
Hoa Kỳ. Trong suốt những năm 1980 và 1990, những người chủ trương cải cách
không nâng cao được hiệu quả của cơ chế quản lý cũ. Năm 2002, đạo luật cải cách
vận động tranh cử hai Đảng (Bipartisan Campaign Reform Act of 2002, hay
BCRA) hay còn được gọi là “đạo luật Mc Cain – Feingold) được thông qua nhằm
mục tiêu là duy trì hệ thống quản ly hiện hành của liên bang. Nhìn chung, đạo luật
ngăn cấm các Đảng trên toàn quốc và các ứng cử viên liên bang hoặc các quan
chức không được gây quỹ và chi tiêu tiền mềm vào các hoạt động được xếp vào
dạng “các hoạt động bầu cử liên bang”. Luật này còn bắt buộc phải công khai tất cả
các quảng cáo liên quan đến việc tuyên truyền cho các ứng cử viên liên bang cụ thể
trong vòng 30 ngày trước ngày bầu cử sơ bộ hoặc 60 ngày trước ngày tổng tuyển
cử và đạo luật này cũng cấm tài trợ sử dụng tiền quỹ của nghiệp đoàn hoặc tập
đoàn.
Những chiến dịch vận động tranh cử của những ứng cử viên Tổng thống còn
bao gồm cả ba cuộc tranh luận trực tiếp trên truyền hình. Hiện tượng này đã trở
thành điểm mấu chốt trong quá trình tranh cử ở Hoa Kỳ kể từ năm 1976. Tuy
nhiên, cuộc tranh luận đầu tiên thì diễn ra từ năm 1960 giữa hai ứng cử viên
Richard Nixon và John Kennedy. Những cuộc tranh luận này càng trở nên quan
trọng khi mà hai ứng cử viên đạt được sự ủng hộ gần như sát nút nhau của công
chúng. Điển hình là cuộc bầu cử năm 2004 giữa Tổng thống đương nhiệm Geogre

W.Bush và ứng cử viên John Kerry. Hai ứng cử viên gđã tranh luận với nhau suốt
90 phút vào các ngày 30/9 tại bang Florida, ngày 8/10 tại bang Missouri và ngày
13/10 tại bang Arizona. Mặc dù rất khó định lượng ảnh hưởng của các cuộc tranh
luận nhưng rõ ràng là những cuộc tranh luận này chiếm một vai trò rất quan trọng
25

×