Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động
và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động
lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp
độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở
thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và
đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của
hầu hết các quốc gia để phát triển. Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành
ngôn từ khá thân quen với hầu hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán
nước trên hè phố, thậm chí cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông
dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu
nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người. Giới học thuật và những
nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về
nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua,
việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy
của hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.
Để đóng góp vào cuộc thảo luận nói trên, bài viết này đề cập một số khía cạnh về lý
luận và thực tiễn của khái niệm hội nhập quốc tế, tập trung vào vấn đề định nghĩa và
xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập quốc tế; phân tích
tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng
giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần
đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng
ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dầu
vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc tế”
giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt
Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu
hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ
hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của
đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với
tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc
tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu
chính xác. Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận
phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược
hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận
phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và
thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được
hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với
nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm
quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định
chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc
tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc
tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật
cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành
nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ
quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: là một tổ chức liên chính
phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách,
chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), hoặc là một tổ chức siêu quốc gia
(các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình
thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ,
Canada…), hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao
một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ
quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay). Chủ thể của hội nhập
quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền
và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể
chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình
hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã
hội (kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng
cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết),
phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu
vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm đổi mới, đường lối đối ngoại Ðại hội XI có
những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính
dưới đây: Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Ðại hội XI nêu: 'Vì lợi ích
quốc gia, dân tộc'. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Ðại hội XI cũng đặt mục tiêu đối
ngoại là 'vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh'. Hai mục tiêu này thống
nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh là phù hợp lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích
đó. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại 'vì lợi ích quốc gia, dân tộc' được nêu rõ trong
phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Ðại hội Ðảng. Nói như vậy
không có nghĩa Ðảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia,
dân tộc. Từ khi Ðảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu
của Ðảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định 'Lợi ích cao nhất
của Ðảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế'. Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh 'bảo vệ lợi
ích quốc gia, dân tộc' là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối
ngoại trong văn kiện Ðại hội XI của Ðảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ
hơn định hướng: Ðảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi
ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của
giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối
ngoại cũng có nghĩa là Ðại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của
các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên
tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Ðảng đến
ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Ðại hội XI nêu rõ: 'Nhiệm vụ
của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới'. Phục vụ các mục
tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán
trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Ðiểm mới trong phần đối ngoại
của văn kiện Ðại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ 'bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ'. Ðộc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng
những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong
sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái
khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, Ðại
hội XI nêu: 'Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển', 'tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc'. Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Ðại hội
XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới
trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các
vấn đề tồn tại trên cơ sở các 'quy tắc ứng xử của khu vực'.
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Ðại hội khẳng
định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Ðiểm
mới trong phương châm đối ngoại của Ðại hội XI là 'hội nhập quốc tế' và 'thành viên
có trách nhiệm'. Về hội nhập quốc tế, Ðại hội XI chuyển từ chủ trương 'Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác'. được thông qua tại Ðại hội X sang 'chủ động và tích cực hội nhập quốc tế'. Với
chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng
ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là
khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập kinh tế,
hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên
tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở
thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền
kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cũng tạo cho
chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập
trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trong
các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đặt ra cho
chúng ta một số thách thức mới. Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia
tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên
ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như:
Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm
không lành mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại
đến mọi mặt của an ninh quốc gia, từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội.
Phạm vi và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Ðồng thời, yêu
cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia,
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, v.v sẽ ngày càng
lớn.Theo đó, để giảm các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập
quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và
bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu
phát triển, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và vị thế quốc gia.Từ đường lối đối ngoại
trên cơ sở tuyên bố 'muốn là bạn', 'là bạn, là đối tác tin cậy', Ðại hội Ðảng lần thứ XI
hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là 'thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế'. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự
tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ
chức/diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng
cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho
ngoại giao song phương. Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một
trong những ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là 'xây dựng Cộng đồng ASEAN
vững mạnh'. Tuy vậy, trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế
nào luôn luôn cần được tính toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực
hiện của ta trong từng vấn đề, từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các
cấp độ: Trách nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình;
trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu,
Ðại hội XI nêu định hướng về: Giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ; ưu
tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Ðảng; ngoại giao nhân dân và
định hướng tổ chức thực hiện. Về đối ngoại quốc phòng, an ninh, Ðại hội chỉ rõ: 'Tiếp
tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh', 'Tham gia các cơ chế
hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc'. Với định
hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục phát triển và có vai trò ngày
càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và
thế giới. Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối ngoại, Ðại hội XI nêu: 'Triển khai
đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại'. Khi hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh
vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu phải toàn diện và để các hoạt động này không
chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau thì việc triển khai phải được thực hiện đồng bộ.
Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của
Ðảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại;
tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và sự đa dạng của các mối quan
hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập.
Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng
một nền đối ngoại toàn diện, sẽ tạo nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại
hình, các kênh đối ngoại, nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không có
kế hoạch tổng thể và nếu không có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa
các kênh, các lĩnh vực đối ngoại thì sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm suy giảm
hiệu quả của các hoạt động đối ngoại. Coi triển khai đồng bộ và toàn diện là phương
châm ưu tiên trong triển khai đối ngoại, Ðại hội XI sẽ tạo ra nhận thức và đồng thuận
lớn hơn trong Ðảng và nhân dân về tính chất mới của sự nghiệp đối ngoại cũng như
nêu rõ hơn yêu cầu tham gia tích cực và chủ động hơn của mọi lực lượng trong hoạt
động đối ngoại, đồng thời đưa tới những bước tiến mạnh hơn theo hướng thống nhất
chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Ðảng, Nhà nước, các bộ/ngành và địa phương. Với
những bước phát triển mới trong đường lối đối ngoại Ðại hội XI, chúng ta càng tin
tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Ðảng sẽ tiếp tục thu
được những thắng lợi mới. Tuy nhiên, để đường lối sớm đi vào cuộc sống, cần phải có
nỗ lực vượt bậc trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối thành chính sách đến
xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại. Là binh chủng chủ lực
trong đối ngoại, Ðảng bộ Bộ Ngoại giao đã và đang triển khai học tập nghị quyết Ðại
hội XI trong toàn thể Ðảng bộ và cán bộ của bộ; tổ chức nghiên cứu để đóng góp vào
quá trình cụ thể hóa đường lối đối ngoại, nhất là những vấn đề liên quan đến việc xác
định nội hàm, xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực chính trị, an ninh,
quốc phòng, văn hóa, xã hội. Bộ Ngoại giao cũng đang triển khai kế hoạch nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ của bộ, phối hợp với các địa phương bồi dưỡng kiến thức đối
ngoại cho các cán bộ đang công tác tại cơ quan ngoại vụ các tỉnh, thành phố; đồng
thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai định hướng 'thường xuyên bồi
dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp' đã được Ðại hội XI thông qua.
Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, phối hợp chặt chẽ với các
ngành, các cấp, các địa phương, Bộ Ngoại giao sẽ nỗ lực vượt bậc, góp phần thực hiện
thành công đường lối đối ngoại Ðại hội XI. Hơn 25 năm đổi mới vừa qua, nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, trải
nghiệm và đổi mới tư duy của Đảng trên mọi lĩnh vực; trong đó, có đối ngoại quốc
phòng. Nếu như ở Đại hội IX, Đảng ta xác định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực”,thì Đại hội X, Đảng đã bổ sung: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và đến Đại hội XI,
Đảng ta đã phát triển chủ trương này thành: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Như vậy, Hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế, mà được mở rộng
trên các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh và được thể hiện rõ
trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng: “Tiếptục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh”. Đây là lần đầu tiên trong các kỳ đại hội, Đảng ta đề
cập trực tiếp đến công tác đối ngoại quốc phòng. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của
đối ngoại quốc phòng trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang ngày càng
sâu rộng. Chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng là chủ trương lớn mang tầm vóc
chiến lược,là sự phát triển về tư duy lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong thời kỳ
mới. Tuy nhiên, chủ động hội nhập quốc tế không có nghĩa là hòa nhập bằng mọi giá,
là đánh mất cái riêng, cái bản chất của ta. Chủ động hội nhập quốc tế trên lĩnh vực
quốc phòng cần được hiểu là chủ động tăng cường hợp tác quốc phòng để phục vụ
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vì, mục đích của đối ngoại quốc phòng là
góp phần duy trì môi trường hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, các lợi íchquốc gia của Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và trực
tiếp góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại”. Chủ động hội nhập quốc tế theo tư duy mới của Đảng sẽ
mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các
nguồn lực bên ngoài. Thông qua các cơ chế hợp tác về công nghiệp, khoa học kỹ
thuật, thương mại, quốcphòng, chúng ta có thể tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa
học - công nghệ,trình độ quản lý tiên tiến,… của các nước để cung cấp cho Quân đội
các loại vũkhí, trang bị ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân
sựViệt Nam. Đồng thời, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuậtquân
sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnhtrong giai đoạn
mới của cách mạng. Chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng trong tình hình hiện
nay còn là chủ động thể hiện rõ nét tính chất hòa bình và tự vệ của nền quốc phòng
Việt Nam. Chúng ta chủ động thực hiện chính sách quốc khai, minh bạch, rộng mở
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng không phải để thế giới và bạn bè
cangợi. Chúng ta thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình không phải để cầu
hòa.Việt Nam không chấp nhận nền hòa bình lệ thuộc, mà chúng ta thực hiện minh
bạch, công khai theo nghĩa: Việt Nam vì hòa bình, mong hòa bình và sẽ làm mọi việc
một cách hòa bình. Chúng ta chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giảiquyết mọi bất đồng và tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình. Trong thời gian tới, trên cơ sở quán triệt tư duy mới của Đảng về chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại quốc phòng cần thúc đẩy các
mối quan hệ quốc phòng cả song phương, đa phương phát triển theo chiều sâu, nhằm
nâng cao hiệuquả và tính bền vững của các mối quan hệ mang tính chiến lược
Quan điểm của Đảng ta về kinh tế đối ngoại giai đoạn hiện nay
Một là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên tình thần giữ vững độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là, thực hiện nhất quán phương châm Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực; thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, song không để
bất cứ quốc gia nào, tập đoàn kinh tế nước ngoài nào chiếm vị thế độc quyền ở bất kỳ
lĩnh vực nào trong nên kinh tế nước ta.
Bà là, hội nhập kinh tế phải dựa trên cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định về kinh tế,
phát huy tối đa nội lực , phát triển nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế đất nước, của từng ngành và của mỗi doanh nghiệp.
Bốn là, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải kiên trì và giữ vững phương
châm bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại.
Năm là, phải luôn đề cao cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực thù địch.
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ
giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và liên kết với
nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo thành xã hội và các
quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế
lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc
tế thống nhất. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ
ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu
hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi rất
nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Dưới đây, xin nêu những lợi ích
chủ yếu của hội nhập quốc tế mà các nước có thể tận dụng được:
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các
quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút
đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công
nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và
tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công
nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường
quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp
cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm
kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình
hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp
cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của
thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng
một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong
trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an
ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước
tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực
của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới .
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt các nước
trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:
Một, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành
kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế-xã
hội.
Hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài
và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường
quốc tế.
Ba, hội nhập không phân phối công bằng lơi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm
khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-nghèo.
Bốn, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngàng sử
dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, họ
dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước (theo quan
niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy trì an ninh và
ổn định ở các nước đang phát triển.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị
xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố
quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy nhiên,
không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và gánh mọi
bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với
mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình độ
phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế
nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi
nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực
hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt
được tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục,
nhanh chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị thế quốc
tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và thách thức của quá trình hội
nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc,
Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ hội
nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt
Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu
hết các nước đã thu được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ
phải trả cho những tác động tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của
hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hợp tác quốc
tế là một hoạt động không thể thiếu đối với sự phát triển của mỗi trường đại học, cao
đẳng. Hợp tác quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường, hợp
tác quốc tế không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn là động lực thúc
đẩy các hoạt động giao lưu văn hoá, xúc tiến trao đổi kinh tế, kêu gọi đầu tư…cho nhà
trường và địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, công tác hợp tác
quốc tế của nhà trường còn gặp một số khó khăn và hạn chế như: Một số cán
bộ giảng viên, học sinh – sinh viên còn hạn chế về ngoại ngữ, khó khan khi thực hiện
các dự án nước ngoài mang tính chuyên nghiệp Để nâng cao chất lượng hoạt động
hợp tác quốc tế nên đưa ra một số định hướng như sau: Tăng cường nâng cao trình độ
ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên, sinh viên,tạo điều kiện cho các giảng viên đi đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường đại học uy tín trên thế giới; nâng cao trình độ về
chuyên môn, năng lực nghiên cứu và phương pháp giảng dạy của giảng viên thông
qua các chương trình hợp tác. Có chính sách ưu đãi đối với cán bộ, sinh viên được đào
tạo ở nước ngoài về trường công tác nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ không chỉ
tinh thông nghiệp vụ chuyên môn mà còn có tác phong làm việc công nghiệp hiện đại,
hiểu thông lệ quốc tế và khả năng sử dụng tiếng Anh tốt. Tiếp tục duy trì và phát triển
các mối quan hệ hợp tác quốc tế đã có, chủ động mở rộng mối quan hệ hợp tác mới
với các tổ chức, các viện/trường ngoài nước theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá
trong hợp tác. Sau khi cơ sở 2 của trường được sử dụng, nhà trường chủ động tiếp
nhận các chương trình hợp tác đào tạo có chất lượng, liên kết đào tạo ở các bậc học
theo định hướng hội nhập quốc tế, trao đổi chuyên gia và sinh viên trong công tác
giảng dạy và học tập, phát huy tối đa khả năng trong công tác đào tạo, nghiên cứu
khoa học và các chương trình giao lưu biểu diễn nghệ thuật với các nước trên thế giới.
Tóm lại, trong thời kì hội nhập và xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động hợp
tác quốc tế đã và đang trở thành một động lực quan trọng trong quá trình phát triển
của các trường đại học, cao đẳng.