Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu Luận bt nhóm asean lần 2 Bình luận mô hình liên kết của cộng đồng kinh tế asean (AEC) (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.28 KB, 22 trang )

Họ và tên nhóm trưởng: Cao Thanh Huyền.
Số điện thoại : 0947122888.
Email :
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
A.BÌNH LUẬN MÔ HÌNH LIÊN KẾT CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ
ASEAN (AEC):
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
(AEC):
1.Khái niệm Cộng đồng kinh tế ASEAN:
Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC) là liên kết kinh tế của ASEAN, hình
thành trên cơ sở một hệ thống thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng
ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, có tính cạnh
tranh cao, phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế thành viên và hội nhập
hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu. Khái niệm pháp lý quốc tế này đã được
các nhà lãnh đạo ASEAN xác lập trong một số văn bản pháp lý như: Tuyên
bố về tầm nhìn ASEAN 2020, Tuyên bố hòa hợp ASEAN II, Hiến chương
ASEAN, Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.
2.Tiền đề hình thành:
a.Tiền đề kinh tế: Sự ra đời của AEC chính là sự phát triển khách quan
và là kết quả tất yếu của quá trình hợp tác kinh tế lâu dài gần 4 thập kỉ của
ASEAN. Các quan hệ hợp tác về kinh tế được tiến hành, điển hình như:
Thỏa thuận ưu đãi thương mại thế quan (PTA) 1977 cho cả khối; Khu vực
thương mại tự do ASEAN(AFTA) được thành lập; thiết lập khu vực đầu tư
ASEAN(AIA), thông qua cơ chế ASEAN+1, ASEAN+3,… khẳng định
ASEAN không chỉ bó hẹp hoạt động trong khu vực Đông Nam Á mà muốn
2
trở thành hạt nhận của quá trình hợp tác Đông Á. Nhờ vậy, đến năm 2003,
ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu trong hợp tác kinh tế, đặc biệt là đã
xây dựng được một nền tảng thể chế tương đối vững chắc để thiết lập một
AEC.


b.Bối cảnh quốc tế và khu vực: xu thế toàn cầu hóa và chuyển dịch
sang nền kinh tế tri thức của nền kinh tế thế giới, quá trình hợp tác kinh tế ở
Đông Á và châu Á-Thái Bình Dương; xu thế bùng nổ của các hiệp định
thương mại tự do; sức ép cạnh tranh từ nền kinh tế Trung Quốc; tác động từ
chiến lược kinh tế của các nước lớn đòi hỏi các nhà lãnh đạo ASEAN phải
hợp tác thành lập một cộng đồng kinh tế chung để giúp đỡ, tương trợ lẫn
nhau, các bên kinh doanh cùng có lợi.
3.Mục tiêu:
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) không những chỉ có các mục tiêu
kinh tế cụ thể mà còn mang các mục tiêu chính trị với tính chất là“ một
quyết tâm chính trị cả gói trong cộng đồng ASEAN”. Mục tiêu tổng thể của
AEC là tạo ra “ một khu vực kinh tế ASEAN phát triển ổn định, thịnh
vượng, đồng đều, có tính cạnh tranh cao và hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu” mà cụ thể như: Là cơ sở cho việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN
đoàn kết, để gắn bó các nền kinh tế thành viên trước xu hướng ly tâm và
chia rẽ; Nâng cao cấp độ liên kết kinh tế ASEAN, giúp cho các nước
ASEAN không bị hòa tan vào các liên kết kinh tế khu vực rộng lớn hơn,
3
như liên kết Đông Á hoặc APEC; Nhất thể hóa thị trường và cơ sở sản xuất
của các nền kinh tế thành viên thông qua tự do hóa các yếu tố của sản xuất.;
Hoàn thiện hệ thống thể chế, nhất là tạo ra một khuôn khổ pháp lý buộc các
nước kém phát triển hơn trong khối hội nhập kinh tế nhanh hơn nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các nền kinh tế thành viên; Nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế ASEAN trước sức ép cạnh tranh của xu
hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa và các nền kinh tế mới nổi như Trung
Quốc, Ấn Độ.
Như vậy, việc thành lập AEC là nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng
của liên kết kinh tế khu vực như đã nêu trong Tầm nhìn ASEAN 2020: xây
dựng ASEAN thành một khu vực kinh tế ổn định, phồn vinh và có khả năng
cạnh tranh cao; có sự chu chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự

chung chuyển tự do hơn đối với các nguồn vốn, kinh tế phát triển đồng đều,
nghèo đói, sự chênh lệch về xã hội và kinh tế được giảm bớt vào 2020.
II.BÌNH LUẬN MÔ HÌNH LIÊN KẾT CỦA AEC:
1 . Khái quát chung về m ô hình liên kết của AEC :
1.1.Cấu trúc nội dung: Theo các văn bản pháp lý của ASEAN, nội dung
của AEC bao gồm:
Thứ nhất, thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất : Dưới góc độ tiêu
dùng, AEC sẽ là một thị trường thống nhất, nơi người tiêu dùng được tự do
lựa chọn các loại hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong khu vực cũng như sản
4
xuất ở nước mình. Dưới góc độ sản xuất, AEC sẽ là một cơ sở sản xuất
thống nhất đối với các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Để làm
được điều đó, cần đảm bảo 5 yếu tố cốt lõi : tự do thương mại hàng hóa, tự
do thương mại dịch vụ , tự do đầu tư, tự do dòng vốn, tự do di chuyển lao
động lành nghề. Các yếu tố kể trên đều đã và đang được ASEAN đẩy
mạnh, tạo điều kiện và thực hiện thông qua các biện pháp, hành động cụ
thể.
Thứ hai, một khu vực kinh tế cạnh tranh cao : Có 6 yếu tố chủ yếu
trong khu vực kinh tế cạnh tranh của ASEAN : chính sách cạnh tranh, bảo
vệ người tiêu dung, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế,
thương mại điện tử. Mỗi yếu tố này cũng đều đang được triển khai, tiến
hành thông qua nhiều chương trình và biện pháp khác nhau.
Thứ ba, một khu vực phát triển kinh tế đồng đều : Phát triển khu vực
kinh tế đồng đều của AEC tập trung vào hai nội dung chính: phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
quốc gia thành viên. Đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thì
ASEAN đã đưa ra bản kế hoạch tổng thể giai đoạn 2004-2014, với nội dung
nhằm hướng tới các mục tiêu mang tính định hướng rất cụ thể, rõ ràng. Đối
với việc thu hẹp khoảng cách phát triển, ASEAN cũng xác định được các
biện pháp cụ thể và trọng tâm được đề cập trong sáng kiến hội nhập

ASEAN (tháng 11/2000).
5
Thứ tư, một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu: Để
đạt được điều này ASEAN hướng tới việc duy trì vai trò trung tâm của
mình trong các quan hệ kinh tế đối ngoại, như trong đàm phán về thương
mại tự do ( FTAs) và trong các thỏa thuận về quan hệ đối tác kinh tế toàn
diện (CEPs). Bên cạnh đó, ASEAN cũng tăng cường sự tham gia vào mạng
lưới cung ứng toàn cầu.
1.2. Phương thức xây dựng và thực hiện: Để thực hiện các mục tiêu
trên, ASEAN đã xác định các phương thức xây dựng và thực hiện AEC:
Thứ nhất, kế thừa, đẩy nhanh và hoàn thành các chưong trình, sáng
kiến kinh tế hiện có với các “thời hạn rõ ràng”: phương thức này ưu tiên tập
trung hoàn tất và nâng cấp 3 trụ cột hiện tại của ASEAN là AFTA, AFAS
và AIA; xác định tăng cường triển khai Sáng kiến hội nhập IAI.
Thứ hai, xây dựng các sáng kiến, chương trình và tiếp tục hoàn thiện
cơ chế liên kết kinh tế như: Nhóm đặc trách cao cấp đưa ra các sáng kiến và
tư vấn kịp thời các vấn đề ảnh huởng đến lộ trình xây dựng và thực hiện
AEC; các cơ quan chuyên ngành cấp Bộ truởng chịu trách nhiệm thực thi
và giám sát việc thực hiện còn Ban thư kí theo dõi và giám sát hoạt động
của các quốc gia thành viên và báo cáo tiến độ thực hiện lên cấp trên.
Thứ ba, áp dụng công thức –X trong hợp tác kinh tế để đẩy nhanh tiến
độ hội nhập kinh tế: công thức –X (hay ASEAN-X, 10-X) cho phép các
quốc gia chưa đủ điều kiện có thể thực hiện các cam kết kinh tế chậm hơn
6
so với lộ trình chung nhưng không được hưởng các ưu đãi mở cửa từ các
quốc gia thực hiện theo lộ trình chung.
Thứ tư, phát triển nguồn lực và truyền thông với các biện pháp như:
Xây dựng quỹ phát triển ASEAN; thúc đẩy sự tham gia của ADB, WB,
IFC, các đối tác đối thoại, đối tác thuơng mại và khu vực tư nhân; xây dựng
và triển khai các chuơng trình nghiên cứu và đào tạo; tăng cường khả năng

nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực của các nước thành viên. Về
truyền thông: khởi động một kế hoạch truyền thông toàn diện, xây dựng
một mạng lưới để chia sẻ thông tin, thảo luận và phản hồi cởi mở trong quá
trình thực hiện.
Thứ năm, tăng cường hợp tác với bên ngoài: ASEAN phải trở thành
“một mắt xích năng động và mạnh mẽ hơn trong dây chuyền cung ứng toàn
cầu” nhưng ASEAN và mỗi nước thành viên vẫn phải đảm bảo sự tự cuờng
để khỏi bị lệ thuộc vào những biến động bên ngoài. Chiến dịch hợp tác kinh
tế với bên ngoài của ASEAN dựa trên 3 trụ cột chính: tham gia tích cực vào
hệ thống thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO; tham gia tích cực
vào hợp tác kinh tế Đông Á và Châu Á-Thái Bình Dương (trong khuôn khổ
APEC); tham gia tích cực vào hợp tác với các bên đối ngoại thông qua các
FTA.
1.3. Thiết chế pháp lý của AEC được xác định bao gồm:
7
Hội nghị cấp cao ASEAN (quyền quyết định tối cao), Hội đồng điều
phối ASEAN (gồm các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN), Hội đồng AEC
(bao gồm các bộ trưởng phụ trách lĩnh vực kinh tế của các nước thành viên
ASEAN), Ban thư ký ASEAN; Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng
(bao gồm 13 cơ quan là AFTA , AIA, AFMM, AMAF, AMEM, AMMin,
AMMST, TELMIN, ATM, M- ATM , AMBDC, ACE, Trung tâm ASEAN
- Nhật bản tại Tokyo.
1.4. Cấp độ liên kết: Theo lý thuyết, các liên kết kinh tế khu vực được
phân ra thành các cấp độ:
Thứ nhất, câu lạc bộ thương mại ưu đãi ( PTC): được thành lập bởi
hai hay nhiều nước khi họ thực hiện các biện pháp cắt giảm một số loại
thuế quan nhất định đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa từ các nước
thành viên. Tuy nhiên, các nước này vẫn giữ biểu thuế quan không đổi đối
với các nước khác không phải là thành viên. Theo đó, các nước trong khối
giảm mức thuế quan đối với mậu dịch qua lại giữa các nước này, trong khi

vẫn giữ nguyên mức thuế quan đối với các nước khác. Thứ hai, khu vực
thương mại tự do ( FTA): được hình thành khi hai hay nhiều nước thực hiện
việc bãi bỏ tất cả các thuế xuất nhập khẩu và tất cả các hạn ngạch đối với
thương mại hàng hóa qua lại giữa các nước này nhưng vẫn giữ nguyên thuế
quan đối với các nước khác. Thứ ba, liên minh thuế quan ( CU): hai hay
nhiều nước thành lập liên minh thuế quan khi các nước này bãi bỏ toàn bộ
8
thuế nhập khẩu đối với tất cả các hàng hóa mua bán với nhau và thêm vào
đó, thống nhất quy tắc đánh thuế nhập khẩu chung đối với hàng hóa bên
ngoài. Thứ tư, thị trường chung ( CM): được thành lập khi hai hay nhiều
nước thiết lập ra một liên minh thuế quan và thêm vào đó là sự cho phép
các yếu tố cơ bản của sản xuất di chuyển tự do giữa những nước này. Thứ
năm, liên minh kinh tế tiền tế ( EMU: đây là bước phát triển cao nhất của
các liên kết kinh tế khu vực hiện nay. Trong hình thức liên kết này, đồng
tiền của các nước khác nhau được thay thế bằng một đồng tiền chung vào
ngân hàng chung với quyết định chính sách tiền tệ chung. Không còn rào
cản đối với các yếu tố cơ bản của sản xuất ; hàng hóa ,dịch vụ ,vốn và lao
động có thể di chuyển tự do giữa các quốc gia thành viên ; và mục tiêu lạm
phát chung được thực hiện, rủi ro về tiền tệ bị loại bỏ bằng việc áp dụng
đồng tiền chung.
2.Bình luận về mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC):
Thông qua việc tìm hiểu những nội dung khái quát nhất về mô hình liên kết
của AEC, ta có thể rút ra một số ý kiến bình luận sau:
Thứ nhất, trong quá trình phát triển, AEC chủ yếu mới chỉ dựa vào 4
yếu tố đầu tiên trong các yếu tố đã nêu trong cấu trúc nội dung, đó là: tự do
lưu chuyển bốn yếu tố của sản xuất là hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động,
nhưng sự tự do các yếu tố dịch vụ, vốn và lao động chỉ ở mức yếu: tự do
một số lĩnh vực dịch vụ chứ chưa phải là tất cả, tự do di chuyển vốn hơn so
9
với trước đây chứ chưa phải là hoàn toàn tự do di chuyển vốn, tự do di

chuyển lao động lành nghề chứ chưa phải tự do di chuyển mọi hình thức
lao động. Hay nói cách khác, AEC chỉ là mô hình liên kết khu vực dựa trên
và nâng cao những liên kết kinh tế sẵn có của ASEAN (AFTA, AFAS,
AIA,…) và bổ sung thêm nội dung mới là tự do di chuyển lao động lành
nghề. Điều này được thể hiện cụ thể ở những điểm sau: (i)Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) được thành lập vào năm 1992 với mục tiêu thúc
đẩy tự do hóa thương mại trong nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ tất cả các
hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan, tạo ra một thị trường thống
nhất nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường khu vực, thúc
đẩy phân công lao động trong nội bộ khối ASEAN và phát huy lợi thế của
từng nước. Thông qua cấu trúc nội dung của mô hình liên kết AEC có thể
thấy, nội dung của tự do hóa thương mại hàng hóa-một trong 5 yếu tố cốt
lõi để xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN
chính là dựa trên những mục tiêu của AFTA và tiến tới hoàn thành liên kết
kinh tế này. Thông qua AFTA, ASEAN đã và đang đạt được tiến bộ đáng
kể trong việc xóa bỏ thuế quan. Tuy nhiên, tự do di chuyển hàng hóa cũng
đòi hỏi không chỉ thuế suất bằng 0 mà còn phải xóa bỏ những hàng rào phi
thuế quan (như biện pháp hạn ngạch để hạn chế về số lượng hàng nước
ngoài nhập khẩu). Thêm vào đó, phải nâng cao những yếu tố quan trọng
khác nhằm tạo thuận lợi cho sự tự do dịch chuyển hàng hóa như hài hòa các
10
thủ tục hải quan, thành lập cửa sổ ASEAN duy nhất, chứng nhận xuất xứ,
công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và phù hợp.v.v. (ii)Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ (AFAS) ra đời vào năm 1995 nhằm bổ sung thêm việc tự
do hóa thương mại dịch vụ cho Hiệp định AFTA. Mục tiêu hướng tới của
AFAS là hình thành một khu vực tự do về thương mại dịch vụ vào năm
2020 ( đã được rút ngắn vào năm 2015). Thông qua cấu trúc nội dung của
mô hình liên kết AEC có thể thấy, nội dung về tự do lưu chuyển thương
mại dịch vụ-một trong những yếu tố quan trọng để hiện thực hóa cộng đồng
kinh tế AEC chính là nhằm mục đích hoàn thành AFAS. Mở rộng công

nhận dịch vụ AFAS được tiến hành thông qua những vòng đàm phán chủ
yếu của Ủy ban phối hợp và dịch vụ. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc thực hiện
AFAS, một nội dung quan trọng đã được bổ sung để xây dựng một thị
trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN đó là tự do di chuyển lao
động có tay nghề. Nội dung này được thực hiện thông qua việc tạo thuận
lợi hơn trong cấp visa, giấy phép hành nghề của lao động nước ngoài tại các
quốc gia ASEAN hoặc xuất khẩu lao động của các quốc gia ASEAN; tăng
cường hợp tác trong khuôn khổ mạng lưới các trường đại học ASEAN, xây
dựng các kỹ năng, tiêu chuẩn nghề nghiệp cơ bản, tăng cường năng lực
nghiên cứu của các nước, xây dựng mạng lưới thông tin về thị trường lao
động.v.v (iii)Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) lần đầu tiên được quy định
trong Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Mục tiêu cơ bản của
11
AIA là tạo ra một thị trường đầu tư thông thoáng và minh bạch hơn nhằm
thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất, thu hút đầu tư vào
ASEAN từ các nguồn trong và ngoài nước. Từ đó, AIA sẽ góp phần hướng
tới tự do lưu chuyển đầu tư vào năm 2020 (đã được rút ngắn vào năm
2015). Đây cũng chính là một trong những nội dung của cộng đồng kinh tế
ASEAN-đó là tự do hóa đầu tư và tự do di chuyển vốn hơn đã được rút
ngắn thời hạn thực hiện xuống 5 năm, vào năm 2015.
Thứ hai, AEC là mô hình liên kết chưa có tiền lệ trên thế giới. Hay
nói một cách cụ thể hơn, AEC là một Thị trường chung “trừ” hoặc một Khu
vực thương mại tự do “cộng”. Trước hết, với việc kế thừa các mục tiêu đã
đạt được khi hoàn thành AFTA vào năm 2010, AEC là sự bổ sung các nội
dung tiếp tục phải đuợc hoàn thành vào năm 2015 để Cộng đồng ASEAN
đạt mục tiêu trở thành “Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất” thông
qua sự tự do đầu tư, tạo điều kiện tự do dịch chuyển hơn của các dòng vốn
và tự do dịch chuyển lao động có tay nghề ( ghi nhận tại Hiến chương
ASEAN, Tuyên bố Bali II và Kế hoạch tổng thể AEC). Duới góc độ tiêu
dùng, AEC sẽ là một thị trường thống nhất, nơi người tiêu dùng đuợc tự do

lựa chọn các loại hàng hóa và dịch vụ đuợc sản xuất trong khu vực cũng
như hàng hóa, dịch vụ đuợc sản xuất ngay tại đất nước mình. Duới góc độ
sản xuất, AEC sẽ là một mạng lưới sản xuất khu vực nơi các yếu tố sản
xuất (như vốn và lao động có tay nghề) được tự do di chuyển. Thị truờng
12
thống nhất và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN luôn gắn liền với nhau, có
thể được hình thành với đìều kiện quan trọng là phải có sự tự do hóa
thương mại hàng hóa và dịch vụ, cũng như tác động ngược lại làm thúc đẩy
sự tự do hóa thương mại trong khu vực cũng như với bên ngoài. Tuy nhiên,
với mục tiêu này thì AEC mới chỉ đáp ứng được hai yếu tố là tự do hóa
thương mại và tự do di chuyển yếu tố sản xuất. Xét trên lý thuyết, với
những nội dung trên, AEC không nằm trong một cấp độ liên kết nào mà
AEC chỉ có thể được gọi là một Thị trường chung trừ (CM-) hay là một khu
vực mậu dịch tự do cộng (FTA+)
(1)
. Cụ thể hơn, CM- tức là trừ đi hai nội
dung bao gồm thuế quan chung với các nước bên ngoài khu vực và hài hòa
hóa các chính sách kinh tế hoặc là FTA+ tức là FTA cộng thêm nội dung di
chuyển tự do các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên các yếu tố sản xuất ở đây cũng
không được tự do di chuyển một cách hoàn toàn mà chỉ ở mức độ yếu là tự
do di chuyển hàng hóa và dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn và lao động có
tay nghề.
Thứ ba, AEC là các nền kinh tế “cộng” chứ không phải là một thực
thể kinh tế đơn nhất (đã được nhất thể hóa như Liên minh kinh tế - tiền tệ
Châu Âu). Xét trên thực tế, nội dung của Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) có nhiều điểm khác biệt với cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC).
EEC đã xác định ngay từ đầu là một thị trường chung và từng bước hài hòa
chính sách kinh tế của các nước thành viên ( Điều 2 Hiệp ước Roma), vì
13
vậy điều kiện hội nhập còn thiếu chỉ là đồng tiền chung. Như vậy có thể chỉ

ra một số khác biệt giữa AEC và EEC như sau: Thứ nhất, xuất phát điểm
của AEC thấp hơn của EEC được thể hiện ở mức độ chênh lệch của trình
độ phát triển và điều kiện phát triển giữa các nước thành viên lớn hơn; mức
độ khác biệt về thể chế, luật pháp, tôn giáo, văn hóa… cũng cao hơn ; Thứ
hai, liên kết kinh tế trong ASEAN mang tính chất linh họat và mở chứ
không quy định chi tiết, cụ thể và có tính chất ràng buộc chặt chẽ như
EEC ; Thứ ba, AEC không có một đầu tàu kinh tế nào tương tự như Đức,
Pháp, Anh ở EEC do đó có thể thấy EEC vẫn là một mức độ liên kết kinh
tế cao hơn. Mặt khác, phương thức hợp tác của AEC vẫn là phương thức
liên chính phủ và ra quyết định theo nguyên tắc đồng thuận. Điều này hoàn
toàn khác so với “phương thức cộng đồng” của Cộng đồng kinh tế Châu
Âu, theo đó tất cả các vấn đề thuộc phạm vi của Cộng đồng đều được các
quốc gia thành viên chuyển giao chủ quyền cho Cộng đồng kinh tế Châu
Âu. Như vậy, có thể nói, chính sách kinh tế của các thành viên EU đã đồng
bộ với mức độ cao. EU áp dụng một chính sách ngoại thương chung, sử
dụng một đồng tiền chung, các ranh giới địa lý và kinh tế hầu như đã xóa
bỏ. Trong khi đó, AEC mới đang hướng tới mục tiêu hội tụ chính sách, quy
định giữa các thành viên ASEAN. Tóm lại, với những mục tiêu của mình,
AEC chỉ là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên và nâng cao những cơ
14
chế liên kết hiện có của ASEAN. Và có thể coi AEC là một thị trừơng
chung trừ hay một FTA+.
B.ĐÁNH GIÁ TRIỂN VỌNG CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
VÀO NĂM 2015:
I.Những thành tựu nổi bật mà AEC đã đạt được trong quá trình xây
dựng của mình:
Thứ nhất, APTA đã có những tác động tích cực như đem lại sự ổn
định cho khu vực, liên kết hợp tác kinh tế trong nội bộ khối chặt chẽ hơn.
Tính đến năm 2008, thương mại trong nội bộ khối được duy trì theo tỉ lệ
20-22%, trong khi thương mại nội bộ khối Đông Á là 54%, EU là 57% và

NAFTA là 43%. Thứ hai, năm 2009, ASEAN đã có những nỗ lực lớn trong
việc hoàn thiện cơ chế pháp lý cho AEC bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan
trọng bao gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp
định đầu tư toàn diện (ACIA); và gói cam kết thứ bảy về dịch vụ trong
khuôn khổ APTA. Hiệp định ATIGA đã có hiệu lực và trở thành công cụ
pháp lý toàn diện với hàng loạt các biện pháp hướng tới sự lưu chuyển hàng
hóa tự do hơn trong AEC, tương tự Hiệp định ACIA thay thế AIA đã tạo ra
một thể chế đầu tư tự do và mở cửa hơn, thể hiện quyết tâm hướng tới mục
tiêu cao nhất là hội nhập kinh tế. Thứ ba, khả năng hoàn thành AFTA,
AFAS, và AIA vào năm 2015 gần như chắc chắn. Các sáng kiến thu hẹp
khoảng cách phát triển của ASEAN đã đạt hiệu quả cao. Những đề xuất
15
mới để xây dựng AEC thành một khu vực có sức cạnh tranh cao, một nền
kinh tế bình đẳng và hội nhập vẫn tiếp tục được đưa ra.VD: trong thương
mại hàng hóa và dịch vụ, ASEAN đang hoàn thiện các tiêu chuẩn công
nhận lẫn nhau và hài hòa hóa hệ thống hải quan để đạt được sự đối xử bình
đẳng, tự do hóa với hàng hóa và dịch vụ lưu thông trong khu vực. Thứ tư,
ASEAN đã có sáng kiến về thực hiện Biểu đánh giá AEC-một biện pháp
nhằm tăng cường cơ chế giám sát, thực thi các thỏa thuận kinh tế của
ASEAN. Về cơ bản, biện pháp này đã phát huy hiệu quả thực chất, đến
tháng 12/2009, có 91/124 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan tới AEC
đã có hiệu lực. Thứ năm, các biện pháp nâng cao nhận thức của Cộng đồng
về AEC thông qua Chương trình truyền thông AEC cũng được các thành
viên ASEAN áp dụng có sáng tạo và hiệu quả như: phổ biến thông tin, kiến
thức cập nhật về AEC, xây dựng Chương trình truyền thông AEC, Thứ
sáu, ASEAN cũng đang tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả
của hệ thống thể chế, góp phần thuận lợi hóa cho việc thực hiện các nội
dung của AEC. Cải tiến cơ chế giải quyết tranh chấp được xem là một trong
những trọng tâm của công tác củng cố thể chế hợp tác kinh tế ASEAN.
Việc triển khai đàm phán từ năm 2003 đến 2007, cơ chế giải quyết tranh

chấp mới của ASEAN được xây dựng trên cơ sở tham khảo mô hình của
WTO, và thực tiễn các thỏa thuận khu vực khác đã hoàn thành gồm 3 cấp
tham vấn (ACT), trọng tài (ACB), và tòa án (DSM). Nhìn chung các nước
16
ASEAN đã đạt được những kết quả quan trọng trong tiến trình xây dựng
AEC. Từ năm 2003 đến 2008, kim ngạch nội khối ASEAN đã tăng gấp 2
lần, đạt 1.710 tỉ USD. Tất cả các nước ASEAN đều đạt mức tăng trưởng
kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới. Đây là những thành tựu
rất to lớn và quan trọng giúp cho triển vọng phát triển của AEC ngày một
vững vàng, mạnh mẽ.
II.Những thách thức trên con đường phát triển của AEC:
1.Thách thức trong việc hiện thực hóa Cộng đồng kinh tế ASEAN: Thứ
nhất, ASEAN không phải là một Liên minh Hải quan với một chính sách
ngoại thương chung, có cùng một mức trần biểu thuế hải quan; cũng không
phải là một thị trường thống nhất, giống như mô hình tiến hóa của EEC.
ASEAN có địa lý và những vùng biển rộng lớn, với hàng nghìn các hòn
đảo. Những khác biệt về cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc đang là vấn đề khó
khăn đối với các quốc gia trong khu vực. Thứ hai, hiện tại trong khu vực
vẫn còn có những rào cản lớn đối với sự lưu thông tự do các nguồn lực và
đầu vào. Những rào cản đó bao gồm những khác biệt lớn về tỷ lệ đánh thuế
(bên trong và xuyên khu vực) đối với các doanh nghiệp và đầu tư. Về vấn
đề tài chính, ASEAN đang bắt tay vào việc làm hài hòa và tiêu chuẩn hóa
các luật lệ và quy định về kinh doanh và cạnh tranh. Thứ ba, một sự hội
nhập sâu hơn trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính và thị trường vốn của
thế giới hiện đang được thúc đẩy mạnh mẽ-đây là vấn đề được coi như một
17
sự thách thức trong ASEAN. Trong khi đó, tính bất ổn định về tỷ lệ ngoại
hối và những chênh lệch lớn về tỷ giá lãi suất cũng như tỷ lệ lạm phát tại
các nước thành viên sẽ là điều gây bất lợi cho một sự phân bố tối ưu nhất
các nguồn lực khan hiếm trong ASEAN. Đồng thời, ASEAN vẫn chưa có

kế hoạch về một đồng tiền chung cho toàn ASEAN trong vòng 10-15 năm
tới. Thứ tư, những kết quả trong tự do hóa dịch vụ, đầu tư cũng khá khả
quan, tuy nhiên, các nước ASEAN vẫn chưa thực sự thực hiện cam kết tự
do hóa đầu tư. Ngoài ra, vẫn còn có một số lĩnh vực đầu tư bị Nhà nước
kiểm soát chặt chẽ. Đây được coi là một trong những yếu tố làm giảm năng
lực cạnh tranh của ASEAN. Thứ năm, sự cách biệt về trình độ phát triển
trong ASEAN có vẻ như chưa thể lấp đầy được đến năm 2020 và đó là một
trở ngại khác nữa đối với sự hội nhập khu vực. ASEAN cần có thêm nhiều
các Chương trình bổ sung cho Xúc tiến hội nhập ASEAN. Chính vì vậy mà
một sự hội nhập kinh tế sâu hơn là điều cấp bách cho dù sự hội nhập hài
hòa là điều vẫn chưa hòan thành trong ASEAN. Tất cả các cổ đông trong
khu vực cần giải quyết nhanh chóng và triệt để nhằm bước tiếp những bước
tiếp theo để hướng tới AEC.
2.Thách thức từ tiến độ hội nhập kinh tế khu vực chậm chạp: Một trong
những thách thức mà ASEAN phải đối mặt trong việc thực hiện hóa cộng
đồng kinh tế ASEAN là sự chậm trễ của các nước trong việc thực hiện các
cam kết hội nhập của khu vực “lộ trình tổng thể thực hiện mục tiêu AEC
18
vào năm 2015”. Tại hội nghị cấp cao ASEAN 17 diễn ra tại Hà Nội, đại
diện ASEAN đã đưa ra một số lý do cho sự chậm trễ này, như: vấn đề mâu
thuẫn giữa lợi ích của khu vực và lợi ích quốc gia; sự chuyển đổi các cam
kết khu vực để trở thành luật lệ, chính sách trong nước, quá trình hài hòa
chính sách, quy định, tiêu chuẩn trong nước giữa các thành viên diễn ra
không như mong đợi; và khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, các
quốc gia ASEAN vẫn còn chênh lệch rất lớn.
III.Triển vọng của Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015:
Thông qua việc tìm hiểu những thành tựu và thách thức của AEC, ta
có thể rút ra một số kết luận về triển vọng phát triển của Cộng đồng kinh tế
ASEAN vào năm 2015 như sau: Thứ nhất, AEC sẽ hội nhập như kế hoạch
đã định là trở thành một FTA+ vào năm 2015. AEC cũng có thể tiến hơn

một bước đó là đạt được tự do hoàn toàn trong di chuyển hàng hóa, dịch vụ,
vốn và lao động, tức là dừng lại ở tiến hành cải cách và xóa bỏ các rào cản
trong hoạt động kinh tế nội khối. Thứ hai, AEC có thể đạt mức độ hội nhập
sâu hơn. AEC có thể phát triển lên thành một liên minh thuế quan, tiến tới
một thị trường chung. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm hợp tác của các khối
kinh tế khác cho thấy, để đạt được mức độ liên kết này cũng phải mất ít
nhất 10 năm. FTA+ cơ bản sẽ được hoàn thành vào năm 2015, tức là sớm
nhất vào năm 2025, ASEAN mới có thể trở thành một liên minh thuế quan
và 2035 mới có thể trở thành một thị trường chung. Thứ ba, AEC có thể bị
19
hoà tan vào liên kết Đông Á hoặc Châu Á – Thái Bình Dương nếu tiến trình
liên kết kinh tế Đông Nam Á trở lên mạnh mẽ dẫn đến hình thành khu vực
thương mại tự do toàn Đông Á, mà AEC vẫn chỉ dừng lại ở mức độ liên kết
như FTA+; hoặc các nước thành viên ASEAN theo đuổi các hiệp định
thương mại song phương với các nước ngoài khu vực. /.

Phụ lục:
(1)
Hình thức của AEC (nguồn: Đề án Chính phủ năm 2006):
-Đồng tiền
chung
-Chính sách tiền
tệ chung
X
-Phối hợp chính
sách kinh tế
X X
-Tự do đầu tư
-Tự do lao động
X X X

-Thuế quan
chung
X X X
-Tự do hàng hóa;
-Tự do dịch vụ
X X X X X
Khu vực
thương
Liên minh
thuế quan
Thị trường
chung
Liên
minh
AEC
20
mại tự do
kinh tế
tiền tệ
_______________________________________
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Tập bài giảng Pháp luật cộng đồng ASEAN, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Khoa Pháp luật quốc tế, Trung tâm Luật Châu Á – Thái Bình Dương,
Hà Nội, 2011;
2.Tiến trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN và những đóng góp của
Việt nam, Khóa luận tốt nghiệp, Phạm Thị Bích, Hà Nội, 2010;
3.Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) – từ tầm nhìn tới hành động, Khóa luận
tốt nghiệp, Nguyễn Thu Trang, Hà Nội, 2011.
4.Websites:
tháng 12 / 2006

/>04-04-22.2018/2006/2006_00051/MItem.2006-12-14.2851/MArticle.2006-
12-14.3858/marticle_view
5.Văn bản pháp luật:
+ Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint);
+ Lộ trình chiến lượng xây dựng AEC (Strategic Schedule for AEC).
21
22

×