Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu Luận Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.51 KB, 11 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thu Hà (gồm 5 trang)
Lớp: CT37B
Bài tập môn Chính sách đối ngoại Việt Nam 2
Giai đoạn từ 1996 đến nay
Trong giai đoạn 1996 cho tới nay, định hướng đối ngoại của nhà nước
ta về cơ bản vẫn không thay đổi gì so với những năm 1991-1995: tiếp tục
hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đa phương hóa, đa dạng hóa.
Tuy nhiên, các bước triển khai được cụ thể hóa trong các văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và XI đã cho thấy sự điều chỉnh của
Đảng ta sau khi nắm bắt được xu thế chung của tình hình trong nước và
quốc tế cũng như thừa hưởng được những kết quả trong giai đoạn trước.
Để hiểu rõ hơn các văn kiện nêu trên, cần phải xem xét một cách tổng
quát nhất tình hình thế giới lúc bấy giờ. Dễ dàng nhận thấy rằng những thay
đổi trong quan hệ quốc tế không làm thay đổi tính tất yếu của việc loài người
đang và sẽ tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới
thứ ba đã được đẩy lùi với sự nhận thức đúng đắn của tất cả các quốc gia về
một nền hòa bình và hợp tác hữu nghĩ là điều kiện tiên quyết để phát triển
đất nước. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ tiếp tục đem lại
những kết quả đáng khâm phục về trình độ sản xuất cũng như những tiến bộ
đáng kể trong lực lượng sản xuất, dẫn đến đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế thế giới và nâng cao đời sống xã hội. Cùng lúc đó, cộng đồng các
quốc gia trên thế giới phải chung tay gắng sức giải quyết những vấn đề
mang tính toàn cầu mà không một nước riêng lẻ nào có thể tự mình giải
quyết, như tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch bệnh hay nạn khủng bố ngày
càng gia tăng. Xét trên khía cạnh qui mô nhỏ hơn thì châu Á-Thái Bình
Dương đang là một trong những khu vực phát triển năng động với tốc độ cao
trên thế giới.
Trên phương diện quan hệ quốc tế, những xu thế chung của thời đại
này ngày càng được bộc lộ rõ nét: Đòi hỏi cấp thiết nhất cho tất cả các quốc
gia là xây dựng nhiều hơn những quan hệ hòa bình, hợp tác cùng có lợi với
những quốc gia khác; không chỉ những nước lớn mà ngay cả những quốc gia


nhỏ cũng cần phải tranh thủ sự liên kết trên mọi lĩnh vực đặc biệt là thương
mại với những quốc gia khác để tạo dựng những khu vực lớn mạnh, trong
khi đó vẫn không ngừng nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường;
cuộc đấu tranh bảo vệ lí tưởng xã hội chủ nghĩa của các Đảng cộng sản và
phong trào công nhân vẫn diễn ra không ngừng dưới những hình thức khác
nhau. Đây chính là thời điểm khái niệm hợp tác và đấu tranh trong quan hệ
1
quốc tế cần được chú trọng nhất giữa các quốc gia có mâu thuẫn về chính
trị-xã hội.
Đặc điểm tình hình trong nước lúc bấy giờ đã có nhiều thành tựu rõ
nét sau giai đoạn 1991-1995, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế khi sự đình đốn
trong sản xuất cũng như giao thông đã được khắc phục với những nguồn
viện trợ nước ngoài; giờ là giai đoạn kinh tế Việt Nam tăng trưởng với một
tốc độ chóng mặt (nếu như lạm phát năm 1985 của Việt Nam là 747% thì
năm 1995 đã được đẩy lùi còn 12,7%); sự đổi mới Từ nên kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường đã chứng minh tính hiệu quả của nó, kéo nước ta
ra khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng suốt 15 năm.
Xét riêng trên khía cạnh quan hệ quốc tế của Việt Nam, thành công
của việc phá bỏ thế bao vây cấm vận (đặc biệt là Mỹ) với nước ta đã thúc
đẩy mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ hợp tác thêm với các quốc gia khác và
khu vực hóa, quốc tế hóa khi vị thế của nước ta giờ đã khác trước rất nhiều.
Chính tình thế này đã nảy sinh những tác động không nhỏ tới mọi mặt của
đời sống xã hội nước ta, trong đó vừa có thuận lợi, vừa có cả thách thức.
Nếu như đây là thời cơ thuận lợi nhất của Việt Nam trong việc tạo tiền
đề cho công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước thì cũng chính giai
đoạn này, Việt Nam có nguy cơ bị bỏ xa về trình độ phát triển kinh tế so với
các quốc gia lớn như Mỹ, Nhật và khu vực Tây Âu. Một mặt, Việt Nam
đang trong đà mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhưng mặt khác các
thế lực mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội lại đối đầu với ta dưới hình thức
“diễn biến hòa bình”. Việt Nam cùng lúc phải đối mặt với tình trạng quan

liêu, tham nhũng còn nhiều nhức nhối trong khi thời điểm này khả năng hội
nhập và giữ độc lập tự chủ của ta ngày càng tăng lên. Chính những điều trên
đã làm thay đổi mục tiêu chiến lược của ta trong đường lối đối ngoại, được
vạch rõ trong các văn kiện đai hội Đảng lần thứ VIII và IX.
Cụ thể là, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, mục tiêu đối
ngoại trên khía cạnh an ninh và phát triển là sự kết hợp giữa một nền kinh tế
phát triển (đã tạo nhiều tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước) và một nền quốc phòng vừa đủ mạnh, đảm bảo những nguyên tắc
không xâm phạm chủ quyền, can thiệp vào nội bộ của nhau và tìm ra những
biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình; không ngừng
nâng cao đời sống kinh tế xã hội nhằm thay đổi bộ mặt đất nước, sẵn sàng
hòa nhập với cộng đồng thế giới. Đến văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX,
Đảng đã chỉ rõ phải “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong đó phải tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội
nhập”. Với mục tiêu đẩy mạnh tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường
quốc tế, văn kiện này cũng chỉ rõ cần phải tích cực hơn nữa trong cuộc đấu
tranh chung của toàn nhân loại vì hòa bình và độc lập dân tộc, dân chủ và
2
tiến bộ xã hội. Hơn nữa, vị thế của Việt Nam cũng cần được nâng cao bằng
cách đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam quảng bá cho bạn bè thế
giới hiểu rõ hơn, đặt niềm tin vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam thay vì một
quốc gia chìm trong bom đạn như trước kia.
Từ văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đến văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ IX đã có những thay đổi đáng kể trong nội dung. Cụ thể là nhiệm vụ đối
ngoại trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX không chỉ dừng lại ở “tạo điều
kiện quốc tế để phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước” mà còn chỉ rõ thêm phải “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc
lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội”. Không chỉ “tiếp tục chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,

đa phương hóa, đa dạng hóa…” như Đại hội VIII mà văn kiện Đại hội IX
còn chỉ rõ phải “thực hiện nhất quán” đường lối này. Thứ tự ưu tiên quan hệ
quốc tế của Việt Nam cũng thay đổi từ các nước ASEAN, láng giềng và phát
triển thành các nước Xã hội chủ nghĩa, láng giềng và ASEAN rồi mới đến
những nước phát triển. Những thay đổi này thể hiện nhận thức đúng đắn của
Đảng ta về tính tất yếu trong hội nhập khu vực và thế giới cũng như sự phức
tạp của “diễn biến hòa bình”.
Trong bài “Triển khai chính sách Đại hội IX: những kết quả chủ yếu”
của Phó giáo sư, tiến sĩ Trình Mưu, ông đã chỉ rõ những thành tựu chung đạt
được trong quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng từ Đại hội IX,
trong đó có: “Tiếp tục củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị với những nước Xã
hội chủ nghĩa, các quốc gia láng giềng có chung đường biên giới với Việt
Nam và các nước trong ASEAN; giữ vững những nguyên tắc cơ bản của
ASEAN, đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác nội khối và với các đối tác bên
ngoài; tham gia sâu hơn vào các tổ chức quốc tế và nâng cao vị thế của Việt
Nam; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới và tham
gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu; giải quyết những
mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ quốc tế và quan trọng là đã và đang thực
hiện có kết quả chủ trương giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế”. Cũng theo
bài này thì quá trình triển khai còn nhiều hạn chế như công tác nghiên cứu
chiến lược còn yếu dẫn đến tình trạng chưa chủ động hoàn toàn trong hợp
tác và đấu tranh, quan hệ liên kết với các quốc gia khác còn yếu, tổ chức cơ
cấu còn chậm và chưa thực sự ổn định kinh tế xã hội để hòa nhập với thế
giới.
Từ những nhận thức về hạn chế trên cũng như thực tiễn trong giai
đoạn mới, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã nêu thêm những thay đổi mới
so với Đại hội IX như: “trong an ninh và phát triển thì mục tiêu phát triển
phải được đặt lên hàng đầu”, “thay vì phát triển quan hệ quốc Tế theo chiều
3
rộng thì cần phải đưa các quan hệ quốc tế đã thiết lập vào chiều sâu, ổn định

và bền vững”, “đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại” nhằm tranh thủ nhiều
hơn vốn cũng như công nghệ từ nước ngoài. Bên cạnh những định hướng
như “kiên trì mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ quốc tế, đại hội
X còn nêu rõ phải tiến hành hội nhập với các thể chế quốc tế, khu vực và
song phương sâu sắc hơn, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh. Để thực
hiện triển khai những phương hướng trên hiệu quả, cần xác định rõ những
mục tiêu: phối hợp chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, thông tin trong
và ngoài nước; tiếp tục bồi dưỡng nhân sự vững vàng về chính trị, phẩm chất
và năng lực tốt, triển khai tốt công tác nghiên cứu chiến lược vẫn còn yếu
của ta và khẳng định cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo thống nhất (theo bài
“Đại hội X của Đảng và đường lối đối ngoại” của nguyên phó thủ tướng Vũ
Khoan).
Gần đây nhất, trong Đại hội Đảng lần thứ XI, những nhiệm vụ và
phương châm đối ngoại của Đảng ta không có những thay đổi nào đáng kể,
song làm rõ hơn một số chủ trương như hội nhập quốc tế (“Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực khác”) và khắc phục những hậu quả tiêu cực của quá trình này hay chủ
trương ưu tiên những mối quan hệ hợp tác khu vực như ASEAN nói riêng và
châu Á-Thái Bình Dương nói chung. Những khái niệm như “đối tượng” và
“đối tác” được làm rõ, tuy nhiên trong tình hình chính trị xã hội diễn biến
phức tạp thì trên những phương diện khác nhau, hai khái niệm này có thể
hoán đổi cho nhau, lấy lợi ích tối cao của quốc gia làm cơ sở.
Trên thực tiễn, những thành tựu từ năm 1996 đến nay ta đã đạt được
trong quan hệ với những nước lớn là: xác định mối quan hệ “láng giềng tốt,
đồng chí tốt” với Trung Quốc vào năm 2001 dựa trên những đặc điểm tương
quan về địa lí, văn hóa, lí tưởng xã hội chủ nghĩa và lợi ích của hai quốc gia.
Đương nhiên vẫn tồn tại những mâu thuẫn, tranh chấp trong quan hệ giữa
hai nước như tranh chấp biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và biên
giới, nhưng hai bên vẫn chủ yếu duy trì phương pháp hòa bình để giải quyết.
Về quan hệ với Mỹ, ta đã kí hiệp định thương mại song phương vào ngày

13/7/2000 và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Tuy đây là dấu mốc quan
trọng trong hợp tác về kinh tế hai bên nhưng vẫn xảy ra không ít tranh chấp
như vụ kiện của Mỹ về việc Việt Nam bán phá giá cá ba sa và tôm ở thị
trường Mỹ, áp dụng thuế chống bán phá giá với Việt Nam. Đặc biệt nổi lên
là việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách những quốc gia cân nhắc áp dụng
chế tài kinh tế nếu có sự bất công về tự do tôn giáo hay nhân quyền. Đây có
thể nói là một trong những biện pháp của “diễn biến hòa bình” mà Mỹ áp
dụng cho Việt Nam đáng cảnh giác. Về phía Nhật Bản thì dù vấn đề
Campuchia đã được giải quyết thỏa đáng, nước này vẫn có chính sách “vượt
4
rào” so với các nước phương Tây trong bao vây cấm vận áp dụng chung với
Việt Nam.
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh
hoạt hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối
ngoại đã đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt
Nam và việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh
tế quốc tế chủ động hơn.


5
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh hoạt
hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối ngoại đã
đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt Nam và
việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh tế quốc
tế chủ động hơn.

6
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh hoạt
hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối ngoại đã
đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt Nam và

việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh tế quốc
tế chủ động hơn.

7
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh hoạt
hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối ngoại đã
đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt Nam và
việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh tế quốc
tế chủ động hơn.

8
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh hoạt
hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối ngoại đã
đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt Nam và
việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh tế quốc
tế chủ động hơn.

9
Nhận xét về giai đoạn 1996 cho đến nay: Nhìn chung ta đã tỏ ra linh hoạt
hơn trong việc áp dụng ngày càng hoàn thiện những chính sách đối ngoại đã
đặt ra từ năm 1986, bước tiến đặc biệt là mô hình “đối tác” của Việt Nam và
việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu bằng hội nhập kinh tế quốc
tế chủ động hơn.

10
11

×