Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu Luận Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1991 – 1995

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.23 KB, 12 trang )

Họ và tên: Nguyễn Phương Thùy
Lớp: TT37.B
Mã SV: TT37B.01448
Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1991 – 1995

1. Bối cảnh quốc tế, trong nước
 Bối cảnh quốc tế:
Cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ giai đoạn này đã có những bước
tăng tốc đáng kể, với các đợt sóng cơng nghệ cao, nổi bật là công nghệ
thông tin. Chúng thúc đẩy xã hội hóa sản xuất vật chất, tạo ra nhiều
ngành kinh tế mới và thúc đẩy kinh tế tri thức. Sự phổ cập nhanh chóng
của hệ thống Internet và các phương tiện hiện đại khác ngày càng mở
rộng giao lưu quốc tế. Đồng thời, xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa
được tăng cường, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và làm gia
tăng các hoạt động kinh tế thương mại quốc tế.
Bắt đầu từ thập kỉ 90, cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng,
phức tạp bởi một bước ngoặt cơ bản, đó là vào tháng 12 năm 1991, Liên
Xô tan rã. Thiết chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu sụp đổ. Khối
quân sự Vacsava giải thể. Sự tan rã một trong hai siêu cường của trật tự
thế giới hai cực đã tạo ra một khoảng trống lớn trong khơng gian chính
1


trị quốc tế, làm tan vỡ sự cân bằng toàn cầu đã tồn tại trong gần 50 năm
qua từ sau hội nghị I-an-ta năm 1945. Các nước lớn chuyển hướng hoặc
điều chỉnh chiến lược, chú trọng phát triển nội lực, tăng cường cạnh
tranh và chạy đua kinh tế. Về đối ngoại, họ đi vào hịa hỗn, cải thiện
quan hệ từng đôi một, vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau.
Những thay đổi cơ bản trong đời sống kinh tế, chính trị dẫn tới những
tập hợp lực lượng mới trên thế giới, thúc đẩy xu hướng đa phương, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó vẫn tồn tại xu hướng chạy đua


vũ trang, các cuộc đấu tranh chính trị vẫn tiếp diễn gay gắt quyết liệt
dưới hình thức mới: “diễn biến hịa bình” và chống “diễn biến hịa
bình”, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa đối thoại vừa đối đầu.
Tại châu Á – Thái Bình Dương và khu vực Đơng Nam Á nói riêng, tình
hình cũng biến đổi sâu sắc. Đơng Á trở thành khu vực có tốc độ tăng
trưởng cao hàng đầu thế giới. Các nước trong khu vực đều có nguyện
vọng cùng tồn tại trong hịa bình, hữu nghị để phát triển, hợp tác trong
nhiều tâng, nhiều nấc và dưới nhiều hình thức. Quan hệ giữa hai nhóm
nước ASEAN và Đơng Dương chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối
thoại, thúc đẩy hịa bình. Mặc dù cuối những năm 1990, các nước Đông
Á lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, kéo theo khủng hoảng

2


kinh tế - xã hội nghiêm trọng gây nhiều bất lợi, song đây vẫn được coi là
khu vực tiềm năng nhờ lợi thế địa lí, nhân lực và tài nguyên thiên nhiên.
 Bối cảnh trong nước:
Sau Đại hội Đảng VII năm 1991, tình hình thế giới chuyển biến nhanh
chóng phức tạp và cơ bản, tác động mạnh tới Việt Nam: Liên Xô và các
thiết chế XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Các thế lực thù địch tiếp tục hoạt
động chống phá Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Nam một lần nữa trải qua những thử thách hiểm nghèo. Tuy nhiên thời
kỳ này Việt Nam đã đạt được thành công trong phá thế bao vây cấm
vận, song hành với việc trên thế giới xuất hiện nhiều nhân tố thuận lợi
mới đã tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển mọi mặt, đặc biệt trên lĩnh
vực kinh tế. Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trình trệ, suy
thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tồn diện.
GDP bình qn năm tăng 8,2%; đạt mức cao nhất 10% năm 1995. Đất
nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh cơng

nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam chủ trương
đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và tham gia
tích cực vào hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.

3


2. Nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1991 – 1995
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tháng 6 năm 1991, đã xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội thơng qua tun bố chính sách: “Với
chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển”.
Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của
Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tê. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế
giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong
quá trình mở cửa.
4


Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh

mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng, đa dạng
hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là:
giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và
hồn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế
giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng.

3. Thực tiễn triển khai chính sách đối hóa ngoại giai đoạn 1991 –
1995
 Tham gia giải quyết vấn đề Campuchia:
Tháng 9/1989, Việt Nam hồn thành việc rút hết qn tình nguyện ở
Campuchia về nước, tạo đà thúc đẩy nhanh xu thế đối ngoại, tăng sức ép
đối phương đi vào giải pháp, vơ hiệu hóa con bài địi “rút qn Việt
5


Nam” được dùng để chống phá Việt Nam. Do vấn đề Campuchia rất
phức tạp bởi nó có 2 mặt nội bộ và quốc tế, các diễn đàn song phương
khó có thể đạt được một giải pháp toàn diện và cuối cùng đã phải giải
quyết thông qua một hội nghị quốc tế. Từ ngày 21 đến 23 tháng 10 1991,
Hội nghị quốc tế về Campuchia họp tại Trung tâm Hội nghị quốc tế
Kleber, Paris. Đoàn đại biểu Việt Nam do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Mạnh Cầm dẫn đầu. Tất cả các nước tham gia hội nghị đã kí kết các văn
kiện về giải pháp chính trị tồn bộ cho vấn đề Campuchia.
 Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc:
Việt Nam từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã thúc đẩy quá
trình đối thoại với Trung Quốc để tháo gỡ các trở ngại đối với quá trình
bình thường quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Tuy nhiên giới lãnh đạo
Trung Quốc vẫn kiên quyết điều kiện Việt Nam rút hết, rút triệt để quân
đội khỏi Campuchia. Trung Quốc sẵn sàng xem xét đề nghị của Việt

Nam về việc mở cuộc thương lượng cấp thứ trưởng nếu Việt Nam chấp
nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên hợp quốc chủ trì có bốn bên
Campuchia tham gia để kiểm chứng việc rút quân Việt Nam và việc
thành lập Chính phủ liên hiệp bốn bên . Sau khi Việt Nam hoàn thành
việc rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989, tháng 9/1990, Trung Quốc
6


mời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ
Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng thăm Trung Quốc khơng chính thức.
Tại cuộc gặp này, các nhà lãnh đạo hai nước đã trao đổi ý kiến về vấn đề
bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, mặt quốc tế của vấn
đề Campuchia và các vấn đề hai bên cùng quan tâm. Tháng 3/1991, Thủ
tướng Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt – Trung đã tan băng”. Tháng
11/1991, hai bên đã ra thông cáo chung và kí kết một số hiệp định, đánh
dấu việc bình thường hóa chính thức quan hệ giữa hai nước.
 Đấu tranh phá bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Mỹ:
Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam nêu
rõ việc thúc đẩy q trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ là một trong
những chủ trương quan trọng về đối ngoại, khơng những phù hợp với
nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước mà cịn có lợi cho hịa
bình, ổn định, phát triển ở khu vực. Từ năm 1991 đến 1994, Việt Nam
có những cuộc gặp khơng chính thức với lãnh đạo Mỹ trao đổi ý kiến về
cải thiện quan hệ Việt – Mỹ và Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Ngày
3 tháng 2 năm 1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh
cấm vận và thiết lập cơ quan liên lạc Mỹ tại Hà Nội; ngày 11 tháng 7
năm 1995 tun bố chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
7



 Tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập
ASEAN:
Sau khi có giải pháp hịa bình về vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt
Nam với từng nước ASEAN cũng như tổ chức ASEAN nói chung đã có
những bước phát triển nhanh chóng. Cuối tháng 10, đầu tháng 11 năm
1991, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt thăm
Indonexia, Thailand và Singapore. Chuyến thăm này được xem là bước
đột phá trong quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN thời kì “hậu
Campuchia”.Chuyến thăm Đơng Nam Á nói trên khẳng định mong
muốn của Việt Nam sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, xây dựng hịa bình, hợp
tác phát triển. Với tổ chức ASEAN, tháng 7/1992, Việt Nam chính thức
kí Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN, và ngày 28
tháng 7 năm 1995, tại Banda Xeri Begaoan, thủ đô của Vương quốc
Brunay, đã diễn ra trọng thể lễ kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7
của ASEAN


Khôi phục và củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống,
với Nga và các nước Đông Âu, các nước tư bản, công nghiệp phát
triển, các tổ chức quốc tế, tổ chức nhân dân trên thế giới:
8


Đầu những năm 1990, sau khi Liên Xô tan rã và các thiết chế XHCN ở
Đông Âu sụp đổ, quan hệ giữa Việt Nam với các nước này tạm thời gián
đoạn, tuy nhiên sau một thời gian không lâu, ta đã chủ động phục hồi và
thúc đẩy quan hệ hữu nghị và sự hợp tác nhiều mặt với các nước đó trên
cơ sở mới. Việt Nam coi Liên bang Nga có tầm quan trọng hàng đầu
trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn truyền thống, cơ chế

hợp tác giữa hai nước sớm được phục hồi. Với các nước thuộc Liên Xô
cũ, ta chủ động thiết lập quan hệ ngoại giao và thúc đẩy quan hệ. Từ
năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ với các nước bạn truyền thống ở
Đông Âu. Việt Nam cũng ủng cố quan hệ với Mơng Cổ, Cuba; coi trọng
tình hữu nghị, đồn kết và hợp tác truyền thống với Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Triều Tiên và Ấn Độ.
Quan hệ giữa Việt Nam với phần lớn các nước tư bản và công nghiệp
phát triển từng bước cải thiện và phát triển, đó là các nước Nhật Bản,
Úc, Niu Dilan, các nước Tây Âu và Bắc Âu, các thành viên của Liên
minh Châu Âu EU
Từ năm 1991 trở đi, ngoại giao đa phương Việt Nam bước vào thời kì
phát triển mới. Việt Nam tham gia nhiều diễn đàn châu lục hoặc liên
châu lục quan trọng.
9


4. Nhận xét:
 Về việc tham gia giải quyết vấn đề Campuchia:
Việc Hiệp định Paris được kí kết chính thức chấm dứt căng thẳng, đối
đầu giữa nước ta với các nước đã lợi dụng vấn đề Campuchia để thực
hiện chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam và tiến hành chiến tranh phá
hoại nhiều mặt nhằm làm suy yếu Việt Nam; bảo đảm được độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia; phù hợp với lợi ích an ninh
lâu dài của Việt Nam. Nhân dân Việt Nam có thêm điều kiện để tập
trung khắc phục khó khăn về kinh tế - xã hội, phát triển và bảo vệ đất
nước. Quan hệ của Việt Nam với những nước có liên quan đến vấn đề
Campuchia cũng như với các nước khác trong và ngoài khu vực đứng
trước những triển vọng mới.
 Về việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc:
Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc mở ra sự hợp tác giữa hai

nước trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, khoa học kĩ thuật và
văn hóa theo ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi. Quan hệ giữa hai nước
phát triển tốt đẹp cũng phù hợp với xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển
của khu vực và trên thế giới.

10


 Về việc dỡ bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Mỹ:
Với việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ, lần đầu tiên Việt
Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới. Điều này góp phần
củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và tạo thêm điều kiện
thuận lợi để Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác và
các tổ chức quốc tế. Quan hệ kinh tế và thương mại hai nước nhờ đó có
những bước phát triển bước đầu đáng khích lệ. Đầu tư của Mỹ vào Việt
Nam cũng tăng nhanh, chỉ mấy tháng sau khi dỡ bỏ cấm vận, Mỹ từ vị
trí thứ 15 trong số 51 nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam năm 1994
đã lên hàng thứ 7. Việc dỡ bỏ cấm vận đồng thời mở đường cho các
nước và vùng lãnh thổ khác đầu tư vào Việt Nam, giúp đất nước ta phát
triển kinh tế.
 Về quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập ASEAN:
Việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN là một mốc lịch
sử quan trọng trong quan hệ quốc tế ở Đơng Nam Á, đã tăng cường vai
trị, vị trí của ASEAN với tư cách một tổ chức khu vực quan trọng, góp
phần thúc đẩy xu thế hịa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và thịnh
vượng chung ở Đơng Nam Á. Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần
tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam trong sự phát
11



triển chung của khu vực, nâng cao vị trí và vai trị của Việt Nam tại
Đơng Nam Á và trên trường quốc tế, tạo thuận lợi mở rộng quan hệ với
các đối tác quan trọng khác trên thế giới.
 Về mối quan hệ với Nga, các nước Đông Âu, các nước bạn bè
truyền thống, các nước tư bản và công nghiệp phát triển và các tổ
chức quốc tế:
Việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đã giúp Việt Nam tăng
cường vị thế quốc tế của mình, đặt cơ sở cho các quan hệ quốc tế lâu
dài, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng hóa – hiện đại hóa
và bảo vệ đất nước.

12



×