Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chuyên đề bếp lửa -Bằng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.35 KB, 6 trang )

Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 1 -


BẾP LỬA
Bằng Việt


I. Tác giả
- Tên thật: Nguyễn Việt Bằng- 1941
- Quê: Thạch Thất - Hà Tây
- Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ ông giàu cảm xúc tinh tế, giọng điệu tâm tình, mượt mà sâu lắng. Thơ Bằng Việt thường khai
thác những kỉ niệm thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.
- Các tác phẩm tiêu biểu:
+ Hương cây - Bếp lửa (In chung với Lưu Quang Vũ - 1968)
+ Những gương mặt, những khoảng trời (1973)
+ Đất sau mưa (1977)
+ Khoảng cách giữa lời (1983)
+ Cát sáng (1986)
II. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt là sinh viên đại học luật ở nước ngoài.
- Được in trong tập Hương cây - Bếp lửa (In chung với Lưu Quang Vũ - 1968)
- Đây là một trong những sáng tác đầu tay, song ngay từ khi ra đời, bài thơ đã có một vị trí quan trọng
trong đời thơ Bằng Việt và có một vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà.
- Cùng với một số bài thơ khác trong Hương cây - Bếp lửa Bằng Việt đã tạo ra được một dấu ấn


riêng, một phong cách thơ trầm lắng, nghiêng về những lời trao đổi tâm sự thấm thía nhưng không kém
phần tài hoa, trí tuệ.
- Trong nền thơ hiện đại, Bếp lửa được đánh giá là một trong không nhiều những bài thơ viết về tình
bà cháu hay nhất.
b. Bố cục
- Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kỉ niệm, đứa cháu nay
đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cđ bà, về lẽ sống của bà. Cuối cùng, trong hoàn cảnh xa cách, đứa
cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp bà.
Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 2 -


- Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc: hồi tưởng

hiện tại, kỉ niệm

suy ngẫm. Lựa chọn bố
cục như thế là thích hợp với việc khắc hoạ kỉ niệm tuổi thơ. Bố cục đó còn cho thấy hình ảnh của bà khắc
sâu vào tâm khảm của người cháu, thành chỗ dựa tinh thần để người cháu trưởng thành.
- Bố cục chia 3 phần:
+ 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc cho những hồi tưởng về bà.
+ 4 khổ tiếp: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh bà trong hồi tưởng của cháu.
+ Còn lại: suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

c. Phân tích tác phẩm
Trong dòng chảy cuộc đời của mỗi con người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng lắng đọng một góc sâu

xa trong tâm hồn. Những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những gì thân thương nhất. Nếu Tế Hanh nhớ về
tuổi thơ, nhớ về quê hương là nhớ về dòng sông xanh biếc, Xuân Quỳnh bồi hồi khi bắt gặp một tiếng gà
trưa khi dừng chân bên xóm nhỏ trên đường hành quân, thì với Bằng Việt, bếp lửa bập bùng cháy và hình
ảnh của người bà là tất cả những gì tha thiết nhất mà nhà thơ hằng lưu giữ trong lòng.
Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc và bình dị trong mỗi gia đình, nó gợi sự ấm áp, gần gũi và đoàn tụ.
Bởi vậy, chọn biểu tượng bếp lửa khi viết về tình bà cháu và lấy Bếp lửa là tiêu đề cho cả bài thơ thì đây là
một tiêu đề, một biểu tượng rất giàu ý nghĩa. Nó thể hiện những suy tư sâu lắng trong phong cách thơ Bằng
Việt.
* Khổ thơ đầu:
Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa quen thuộc, bình dị ở mỗi làng quê Việt Nam:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” láy đi láy lại, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên.
Bếp lửa được nhóm lên vào buổi sáng sớm, rung rinh, mờ tỏ. Hình ảnh ấy gợi cái ấm áp giữa “chờn vờn s-
ương sớm”, gợi cái thân thương với biết bao “ấp iu nồng đượm”. Hai chữ “chờn vờn” giúp ta hình dung
được ngọn lửa bập bùng, lay động, khi tỏ khi mờ; từ láy “ấp iu” không chỉ diễn tả thật chính xác công việc
nhóm lửa mà còn gợi liên tưởng tới đôi bàn tay kiên trì, khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người
nhóm lửa.
Từ hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên, dòng hồi tưởng về bà chợt ùa về: “Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa”. Khổ thơ đầu kết thúc trong cx của người cháu. Cx ấy bật ra bằng một chữ “thương”, nó lan toả trong
câu thơ và thấm sâu vào lòng người đọc. Cả bài thơ có hai chữ “thương”, Bằng Việt đã dành trọn để
“thương bà” (Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc). “Biết mấy
Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 3 -



nắng mưa”, chỉ 4 chữ đã gợi ra hình ảnh của bà với bao lo toan, vất vả, lặng lẽ, âm thầm. Người cháu hiếu
thảo cũng đôi lần nhắc lại: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” - nỗi vất vả nhọc nhằn của bà trở thành nỗi
ám ảnh day dứt khôn nguôi trong lòng cháu suốt đời. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất
nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.
* 4 khổ thơ tiếp: là dòng chảy của kí ức về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà.
- Kỉ niệm khi lên 4 tuổi:
Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
5 câu thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Bởi vậy, gây ấn tượng mạnh mẽ với cháu là cái đói, cái nghèo. Cái đói dai dẳng và
mòn mỏi khắp chốn thôn quê. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” và cách diễn đạt bằng hình ảnh đầy ấn tượng
“khô rạc ngựa gầy” vừa phản ánh chân thực cuộc sống, vừa gợi những xúc cảm thật sâu sắc và đậm nét
của người trong cuộc.
Song nếu ấn tượng không quên là cái đói, cái nghèo, thì ấn tượng sâu đậm hơn cả lại là mùi khói:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
“Khói hun nhèm mắt” là khói từ củi ớt cay xè từ bếp lửa nhà nghèo. Nhà thơ đã lựa chọn được một
chi tiết sát thực để vừa miêu tả được chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa diễn tả được những xúc động bâng
khuâng, da diết: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. “Còn cay” là còn nguyên nỗi xúc động. Cảm xúc
hiện tại và kỉ niệm năm xa đồng hiện, hoà lẫn vào nhau. Hai dòng thơ rất thực mà tràn ngập cảm xúc.
Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những chi tiết, ngôn từ giản dị mà chân thực. Cái
“bếp lửa” kỉ niệm của ông mới chỉ khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói mà đã đầy ắp những
hình ảnh hiện thực, thấm đẫm bao tình nghĩa sâu nặng.
- Kỉ niệm của 8 năm ở cùng bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
- Giặc đói chưa qua thì giặc ngoại xâm tràn tới. Gia đình li tán “Mẹ cùng cha công tác bận không về”,
cháu lại gắn bó cùng bà. “Tám năm ròng” con số không lớn, nhng ngày tháng sao kéo dài nặng nề, ròng rã
thế! Vì “Những ngày ở Huế” ấy, cuộc sống gia đình thật quạnh vắng, chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau,
nhóm lửa mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu da diết. Nếu trong hồi ức xa là “mùi khói”, thì ở đây, ấn

tượng khắc chạm trong tâm khảm người cháu chính là tiếng chim tu hú ấy. Mười một câu thơ mà âm vang
tới 5 lần tiếng kêu của loài chim lẻ loi ấy. Lúc vẳng vẳng, mơ hồ từ “những cánh đồng xa”, lúc gần gũi,
Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 4 -


giục giã “sao mà tha thiết thế”, lúc gióng giả, dồn dập “kêu hoài”, lúc khắc khoải như than thở, sẻ chia
Tiếng chim tu hú gợi ra cả một không gian trống vắng, khơi sâu thêm cái cảm giác quạnh vắng, cô đơn.
Trên cái nền hoang tàn vì khói lửa chiến tranh, giữa cái âm thanh khắc khoải bồn chồn của tiếng chim tu
hú, hai bà cháu nương tựa vào nhau để duy trì cuộc sống. Thương con tu hú bơ vơ mới càng thêm thấm thía
cái ơn được bà yêu thương, chắm chút, đùm bọc.
Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể của một câu chuyện cổ tích. Đưa âm thanh đồng nội ấy vào trong thơ,
thi sĩ Bằng Việt quả có một tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương, xứ sở.
Trong những cung bậc khác nhau của tiếng chim tu hú, tình cảm của người cháu mỗi lúc một thiết tha
và hình ảnh người bà dần hiện rõ:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Bên bếp lửa hồng, bà đã thay thế vai trò người mẹ. Bà “kể chuyện”, chuyện đời thực ngày nay,
chuyện cổ tích ngày xa Rồi “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Từng việc, từng
việc, nhỏ nhẹ, âm thầm. Các câu thơ ngắn, liệt kê diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng yêu thương, chăm chút,
tỉ mỉ, ân cần mà bà đã dành cho cháu, nuôi cháu lớn khôn, soi sáng trí tuệ và tâm hồn của cháu. Sống trong
tình yêu thương, chở che của bà, cháu ơn bà biết bao, nên những dòng thơ cứ bật ra thật tự nhiên mà cảm
động: “thương bà khó nhọc”.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Nghệ thuật nhân hoá khiến lời thơ thành lời gọi tâm tình. Ẩn sau lời trách cứ nhẹ nhàng ấy là bao nỗi

nhớ thương. Bây giờ là thương bà cô đơn, quạnh vắng
Dòng kỉ niệm cứ trải ra mênh mông như ánh sáng của bếp lửa trong nhà hắt ra toả sáng cả xóm làng,
đất nước:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đọc đoạn thơ, ta thấy được bức tranh cuộc sống làng quê chân thực, nguyên khối. Đó là cảnh xóm
làng bị “giặc đốt” “cháy tàn cháy rụi”, xơ xác, tiêu điều. Nhưng trong hoàn cảnh thử thách khốc liệt của
chiến tranh, chúng ta càng thấm thía hơn vẻ đẹp tinh thần của con người Việt Nam một thời lửa đạn. Đó là
tình đoàn kết xóm làng “Hàng xóm lều tranh” , đó là ý chí, nghị lực, niềm tin bền vững của những người
bà, người mẹ ở hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến. Lời bà dặn cháu “Cứ bảo ở nhà ” không chỉ cho ta
thấy được hình ảnh một người bà đảm đang, tần tảo, mà còn làm sáng lên phẩm chất cao đẹp của người phụ
nữ Việt Nam: kiên cường, anh dũng, hi sinh. Phần buồn lo bà gánh hết, để giành cho con cháu niềm an vui.
Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 5 -


Và như thế, vẻ đẹp lung linh, sáng ngời của tình bà cháu gắn bó đã hoà quyện trong tình yêu đất nước, quê
hương.
- Khổ thơ thứ 5 : từ hình ảnh cụ thể, tả thực, tĩnh tại

trừu tượng: từ hình ảnh bếp lửa, lời thơ bừng
sáng thành “ngọn lửa” - một sự chuyển hoá hợp lí và mang một tầng nghĩa mới:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nếu “bếp lửa” ở những câu thơ trên là vật hữu hình, cụ thể trong mỗi gia đình gần gũi, quen thuộc, là
hình ảnh của cs âm thầm, lặng lẽ của hai bà cháu, thì đến đây, rất tự nhiên, người cháu liên tưởng tới một

“ngọn lửa” vô hình. Nó mang ý nghĩa khái quát và rộng lớn hơn: đó là ngọn lửa thiêng liêng trong lòng bà,
ngọn lửa của tình thương, của sức sống lặng thầm mà mãnh liệt, của niềm tin vào tương lai của cháu, tương
lai của quê hương, dân tộc và cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Điệp từ “một ngọn lửa” làm giọng
thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ lung linh và làm ấm lòng ngời đọc. Vững tin ở tương lai, bà kiên trì nhóm lửa,
giữ cho ngọn lửa của tình yêu, ngọn lửa của niềm tin luôn ấm nóng, toả sáng. “Ngọn lửa” là biểu tượng của
sức sống muôn đời.
- Kỉ niệm tuổi thơ lắng xuống, mạch thơ chuyển từ cx nhớ thương của người cháu với bà sang những
suy nghĩ sâu sắc về bà, về gia đình và những ân nghĩa sâu nặng:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!
Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một. Những từ láy gợi
cảm “lận đận, nắng mưa” kết hợp với cụm từ chỉ thời gian “mấy chục năm rồi” và các phó từ “tận, vẫn”
gợi tả một cách sinh động cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh của bà. Điệp từ “nhóm” được
nhắc lại 4 lần mang những ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần, ngày càng toả sáng. Khi bà “nhóm bếp lửa”
cũng là lúc bà “nhóm niềm yêu thương”, truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm, khơi dậy tình làng nghĩa
xóm, thắp sáng hoài bão, ước mơ Bởi vậy, ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống, niềm vui, sự
yêu thương. Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu thêm hiểu, thêm yêu con người, đất nước,
sống ân nghĩa, thuỷ chung, cháu có nghị lực để vượt qua gian khó, trưởng thành. Bà không chỉ là người
nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.
Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!
Người cháu yêu bà, nhận ra từ hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc ấy sự kì diệu, thiêng liêng. Bếp
lửa luôn gắn bó với bà - người phụ nữ Việt Nam tảo tần đầy yêu thương, bếp lửa là đời bà gian khổ, là tình
bà ấm nóng, là tay bà chăm chút, là lòng bà ước mơ. Bếp lửa ấy cùng hình ảnh người bà toả sáng trong tâm
Tài liệu Khóa học Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10
Bếp lửa - Bằng Việt

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt
Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 6 -



hồn cháu, nâng đỡ cháu trên suốt mỗi chặng đường đời, trở thành một phần hồn, một phần kí ức sáng đẹp
trong cháu. Bếp lửa “kì lạ” và thiêng liêng là vì thế!
* Khổ thơ cuối:
Những dòng thơ cuối cùng sâu lắng và dạt dào cảm xúc nhớ thương.
Giờ cháu đã đi xa có ngọn khói trăm tàu
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Cháu đã được sống trong những
niềm vui rộng mở, giữa những “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, nhưng vẫn không quên bếp lửa của
bà, không nguôi nhớ thương bà, nên vẫn “không quên nhắc nhở”: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.
Nỗi nhớ bà trở thành nỗi nhớ thường trực, hình ảnh bà trở thành hình ảnh thiêng liêng trong tâm hồn, làm
ấm lòng, nâng đỡ cháu trên mỗi gian nan của cuộc đời. Hình ảnh bà cũng chính là hình ảnh quê hương đất
nước một thời gian khó, đạn lửa.

*****
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng.
Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con
người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những
tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí
của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp
lửa của ông.

Nguồn: Hocmai. vn
Giáo viên: Doãn Đông

×