Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

“Xác định hóa chất bảo vệ thực vật carbamat trong một số loại rau quả bằng phương pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.95 MB, 93 trang )


MỤC

LỤC


MỞ

ĐẦU

1

Chƣơng

1.

TỔNG

QUAN

3

1.1 Giới thiệu về hóa chất bảo vệ thực vật 3
1.1.1 Định nghĩa 3
1.1.2. Phân loại [9] 3
1.1.3. Tác hại của hóa chất bảo vệ thực vật [9] 4
1.1.4. Tình hình tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật trong rau quả 5
1.1.5. Tình hình ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật 6
1.2. Giới thiệu về hóa chất bảo vệ thực vật nhóm carbamat 7
1.2.1. Giới thiệu chung 7
1.2.2. Carbofuran [13] 8


1.2.3. Carbaryl [20] 9
1.2.4. Fenobucarb [21] 9
1.2.5. Propoxur [22] 10
1.2.6. Giới hạn cho phép 11
1.3. Các phương pháp xác định 11
1.3.1. Phương pháp cực phổ 11
1.3.2. Phương pháp quang phổ hấp thụ phân tử 12
1.3.3. Phương pháp phân tích dòng chảy (flow injection analysis – FIA) 13
1.3.4. Phương pháp điện di mao quản 15
1.3.5. Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao 16
1.3.6. Phương pháp sắc ký khí 17
1.3.7. Phương pháp sắc ký lỏng khối phổ 18
Chƣơng

2.

ĐỐI

TƢỢNG



PHƢƠNG

PHÁP

NGHIÊN

CỨU .


20

2.1. Đối tượng, mục tiêu và nội dung nghiên cứu 20
2.1.1. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 20
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 20
2.1.2.1 Xây dựng phương pháp 20
2.1.2.2. Ứng dụng phương pháp 21
2.2. Phương pháp nghiên cứu 21
2.2.1. Phương pháp tách chiết mẫu 21
2.2.2. Phương pháp sắc ký lỏng khối phổ 21
2.2.2.1. Nguyên tắc chung về phương pháp HPLC 21
2.2.2.2. Pha tĩnh trong HPLC 22
2.2.2.3. Pha động trong HPLC 23
2.2.2.4. Detector trong HPLC 24
2.2.2.5 Detector khối phổ (Mass Spectrometry) 24
2.3. Phương tiện nghiên cứu 29
2.3.1. Thiết bị, dụng cụ 29
2.3.1.1. Thiết bị 29
2.3.1.2. Dụng cụ 29
2.3.3. Dung môi, hóa chất 30
Chƣơng

3.

KẾT

QUẢ




THẢO

LUẬN

32

3.1. Tối ưu các điều kiện xác định carbamat bằng LC/MS/MS 32

3.1.1. Chọn các điều kiện chạy của detector khối phổ 32
3.1.1.1. Khảo sát điều kiện bắn phá đối với ion mẹ 32
3.1.1.2. Khảo sát điều kiện bắn phá ion con 34
3.1.2. Chọn pha tĩnh 36
3.1.3. Chọn pha động 36
3.2. Đánh giá phương pháp phân tích 39
3.2.1. Khảo sát lập đường chuẩn 39
3.2.2. Giới hạn phát hiện LOD [10] 43
3.2.3. Giới hạn định lượng LOQ [10] 44
3.2.4. Độ chính xác của phép đo 45
3.3. Khảo sát điều kiện xử lí mẫu 46
3.3.1. Khảo sát dung môi chiết 47
3.3.2. Khảo sát dung môi rửa giải 49
3.3.3. Khảo sát thể tích dung môi rửa giải 51
3.3.4. Độ lặp lại và độ thu hồi của phương pháp 52
3.4. Phân tích mẫu thực tế 54
Chƣơng

4.

KẾT


LUẬN

60

TÀI

LIỆU

THAM

KHẢO

61

PHỤ

LỤC

66




MỞ

ĐẦU


Theo dự báo của U ỷ ban Dân số và Phát triển của Liên hợp quốc, vào giữa
thế kỉ XXI dân số thế giới sẽ tăng thêm 03 tỉ người. Dân số ngày càng tăng nhanh

đã tạo ra gánh nặng cho nền sản xuất nông nghiệp lương thực, vì cùng với một diện
tích

canh

tác

nhất

định



đang



xu

hướng

bị

thu

hẹp

lại

phải


cung

cấp

đủ

số
lượng

lương

thực

cho

số

đầu

người

luôn

gia

tăng.

Để


tăng

năng

suất

lao

động,
người

ta

đã

sử

dụng

nhiều

biện

pháp

đan

xen

như:


thâm

canh

tăng

vụ,

cải

tiến
giống ; một trong những biện pháp không thể thiếu là sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật. [9]

Thuốc

bảo

vệ

thực

vật

được

coi




một



khí



hiệu

quả

của

con

người
trong

việc

phòng

chống

dịch

hại,


bảo

vệ

cây

trồng.

Bên

cạnh

ưu

điểm



bảo

vệ
năng suất cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật còn gây ra nhiều tác tác hại khác như làm
ô nhiễm môi trường, gây độc cho người và gia súc, tăng chi phi sản xuất, và nhất là
để lại tồn dư trong nông sản gây ảnh hưởng đến chất lượng nông sản và sức khỏe
người tiêu dùng. Tác động tiêu cực của thuốc bảo vệ thực vật càng trở nên nghiêm
trọng khi con người sử dụng không đúng cách và quá lạm dụng vào thuốc.

Hóa chất bảo vệ thực vật có nhiều nhóm hóa chất khác nhau, trong đó có bốn
nhóm chính là: lân hữu cơ, clo hữu cơ, carbamat và pyrethroid. Nhóm clo hữu cơ đã
bị cấm sử dụng, nhóm pyrethroid vẫn đang được sử dụng nhưng độc tính thấp, ít có

khả

năng

gây

nhiễm

độc

cho

người

sử

dụng.

Còn

lại

2

nhóm:

lân

hữu





carbamat đang được dùng rộng rãi trong nông nghiệp , có độc tính cao và là nguyên
nhân chính của phần lớn các vụ ngộ độc do ăn rau quả nhiễm hóa chất bảo vệ thực
vật ở nước ta hiện nay.

Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Xác định hóa chất bảo
vệ thực vật carbamat trong một số loại rau quả bằng phương pháp sắc ký lỏng khối
phổ (LC-MS)”.







1



Mục tiêu thực hiện đề tài luận văn là:

1.

Xây dựng phương pháp xác định dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật
carbamat trong rau quả, bao gồm:




Khảo sát các điều kiện tách chiết mẫu và phân tích



Thẩm định phương pháp đã xây dựng

2.

Áp

dụng

phương

pháp

xác

định



lượng

thuốc

bảo

vệ


thực

vật
carbamate để khảo sát một số mẫu rau quả trên địa bàn Hà Nội.












































2




Chƣơng

1.

TỔNG

QUAN



1.1

Giới

thiệu

về

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật


1.1.1

Định

nghĩa


Hóa chất bảo vệ thực vật là những hợp chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng

hợp hóa học được dùng để phòng và trừ sinh vật gây hại cây trồng và nông sản. Hóa
chất bảo vệ thực vật

gồm nhiều nhóm khác nhau, gọi theo tên nhóm sinh vật gây
hại, như thuốc trừ sâu dùng để trừ sâu hại, thuốc trừ bệnh dùng để trừ bệnh cây…

1.1.2.

Ph ân

loại

[9]


Các

loại

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật


gồm

nhiều

loại,

chủ

yếu

gồm

4

nhóm
chính:

-

Nhóm

Clo

hữu



(organnochlorine)




các

dẫn

xuất

clo

của

một

số

hợp
chất hữu cơ như diphenyletan, cyclodien, benzen, hexan. Nhóm này bao gồm những
hợp chất hữu cơ rất bền vững trong môi trường tự nhiên và thời gian bán phân huỷ
dài (ví dụ như DDT có thời gian bán phân huỷ là 20 năm, chúng ít bị đào thải và
tích luỹ vào cơ thể sinh vật qua chuỗi thức ăn). Đại diện của nhóm này là Aldrin,
Dieldrin, DDT, Heptachlo, Lindan, Methoxychlor

- Nhóm lân hữu cơ (organophosphorus) đều là các este, là các dẫn xuất hữu
cơ của acid photphoric. Nhóm này có thời gian bán phân huỷ ngắn hơn so với nhóm
Clo hữu cơ và được sử dụng rộng rãi hơn. Nhóm này tác động vào thần kinh của
côn

trùng


bằng

cách

ngăn

cản

sự

tạo

thành

men

Cholinestaza

làm

cho

thần

kinh
hoạt động kém, làm yếu cơ, gây choáng váng và chết. Nhóm này bao gồm một số
hợp chất như parathion, malathion, diclovos, clopyrifos…

- Nhóm Carbamat là các dẫn xuất hữu cơ của acid cacbamic, gồm những hoá
chất ít bền vững hơn trong môi trường tự nhiên, song cũng có độc tính cao đối với

người



động

vật.

Khi

sử dụng,

chúng

tác

động

trực

tiếp

vào

men

Cholinestraza
của hệ thần kinh và có cơ chế gây độc giống như nhóm lân hữu cơ. Đại diện cho
nhóm này như: carbofuran, carbaryl, carbosulfan, isoprocarb, methomyl…





3



- Nhóm Pyrethroid là những thuốc trừ sâu có nguồn gốc tự nhiên, là hỗn hợp
của các este khác nhau với cấu trúc phức tạp được tách ra từ hoa của những giống
cúc

nào

đó.

Đại

diện

của

nhóm

này

gồm

cypermethrin,

permethrin,


fenvalarate,
deltamethrin,…

Ngoài ra, còn có một số nhóm khác như: các chất trừ sâu vô cơ (nhóm asen),
nhóm thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ vi khuẩn, nấm, virus (thuốc trừ nấm,
trừ vi khuẩn…), nhóm các hợp chất vô cơ (hợp chất của đồng, thủy ngân, …).

1.1.3.

Tác

hại

của

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật

[9]



Hầu

hết

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật

đều

độc

với

con

người



động


vật

máu
nóng ở các mức độ khác nhau. Theo đặc tính hóa chất bảo vệ thực

vật được chia
làm hai loại: chất độc cấp tính và chất độc mãn tính.


Chất độc cấp tính: Mức độ gây độc phụ thuộc vào lượng thuốc xâm
nhập

vào



thể.



dưới

liều

gây

chết,

chúng


không

đủ

khả

năng

gây

tử
vong, dần dần bị phân giải và bài tiết ra ngoài. Loại này bao gồm các hợp
chất

Pyrethroid,

những

hợp

chất

Phốt

pho

hữu

cơ,


Carbamat,

thuốc


nguồn gốc sinh vật.


Chất độc mãn tính: Có khả năng tích luỹ lâu dài trong cơ thể vì chúng
rất bền, khó bị phân giải và bài tiết ra ngoài. Thuốc loại này gồm nhiều hợp
chất

chứa

Clo

hữu

cơ,

chứa

Thạch

tín

(Asen),

Chì,


Thuỷ

ngân;

đây


những loại rất nguy hiểm cho sức khoẻ.

Hóa chất bảo vệ thực vật có thể thâm nhập vào cơ thể con người và động vật
qua

nhiều

con

đường

khác

nhau;

thông

thường

qua

03


đường

chính:



hấp,

tiêu
hoá và tiếp xúc trực tiếp. Khi tiếp xúc với hóa chất bảo vệ thực vật, con người có
thể

bị

nhiễm

độc

cấp

tính

hoặc

mãn

tính,

tùy


thuộc

vào

phạm

vi

ảnh

hưởng

của
thuốc.

Nhiễm độc cấp tính: Là nhiễm độc tức thời khi một lượng đủ lớn hoá chất
bảo vệ thực vật thâm nhập vào cơ thể. Những triệu chứng nhiễm độc tăng tỉ lệ với





4



việc

tiếp


xúc



trong

một

số

trường

hợp

nặng



thể

dẫn

tới

tử

vong.

Biểu


hiện
bệnh lý của nhiễm độc cấp tính: mệt mỏi, ngứa da, đau đầu, lợm giọng, buồn nôn,
hoa mắt chóng mặt, khô họng, mất ngủ, tăng tiết nước bọt, yếu cơ, chảy nước mắt,
sảy thai, nếu nặng có thể gây tử vong.

Nhiễm độc mãn tính: Là nhiễm độc gây ra do tích luỹ dần dần trong cơ thể.
Thông thường, không có triệu chứng nào xuất hiện ngay trong mỗi lần nhiễm. Sau
một thời

gian dài,

một

lượng chất độc lớn

tích tụ

trong



thể

sẽ

gây

ra các


triệu
chứng lâm sàng. Biểu hiện bệnh lý của nhiễm độc mãn tính: kích thích các tế bào
ung thư phát triển, gây đẻ quái thai, dị dạng, suy giảm trí nhớ và khả năng tập trung,
suy nhược nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gây tổn hại cho gan, thận và
não.

1.1.4.

Tình

hình

tồn



hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật

trong


rau

quả


Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật, có 23% số hộ nông dân vi ph ạm quy
định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật trên
nông sản. Một s ố loại thuốc trừ sâu độc hại đã bị cấm sử dụng nhưng hiện vẫn có
nhiều người tìm cách đưa về nông thôn. Số mẫu rau, quả tươi có dư lượng hóa chất
bảo vệ thực vật chiếm từ 30-60%, trong đó số mẫu rau, quả có dư lượng hóa chất
bảo vệ thực vật vượt quá giới hạn cho phép chiếm từ 4-16%, một số hóa chất bảo vệ
thực vật bị cấm sử dụng như Methamidophos vẫn còn dư lượng trong rau. [7]

Trong năm 2006, Chi cục bảo vệ thực vật TP Hồ Chí Minh đã kiểm tra 790
mẫu của 52 đơn vị kinh doanh rau an toàn trên địa bàn thành ph ố,

phát hiện 26 mẫu
có dư lượng thuốc trừ sâu, chiếm tỷ lệ 3,29%.

Nấm rơm Trà Vinh, cần tây, cải thìa,
xà lách xong, bồ ngót, bông c ải xanh (súp lơ), rau dền, cần là những loại rau ăn lá
có tỷ lệ dư lượng thuốc trừ sâu cao (3,94%). Đặc biệt là tình trạng vượt nhiễm thuốc
trừ sâu đối với các loại rau củ quả, trái cây nhập khẩu từ Trung Quốc. Kết quả kiểm
tra của Chi cục bảo vệ thực vật TP.HCM cho thấy, có 5 trong tổng số 26 mẫu hàng
Trung Quốc được kiểm tra có kết quả lượng thuốc trừ sâu tồn dư cao, chiếm tỷ lệ
đến 19,23%. [3]





5



Đầu năm 2009, Cục Bảo vệ thực vật đã lấy 25 mẫu rau và năm mẫu quả tại
các tỉnh phía Bắc (TP Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc) để kiểm định. Kết quả có 11 mẫu
rau có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ở mức độ khác nhau. Ở các tỉnh phía Nam,
trên 35 mẫu rau và 5 mẫu quả lấy ở TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tiền Giang, kết
quả trên 50% mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ở mức độ khác nhau. [11]

Tại TP Hồ Chí Minh, trong sáu tháng đầu năm 2009, qua kiểm nghiệm hơn
2.200 mẫu rau, quả tại ba chợ đầu mối (Bình Điền, Hóc Môn, Thủ Đức), phát hiện
50 mẫu dương tính (tỷ lệ 2,4%), cao hơn so với cùng kỳ năm 2008 là 1,3%. Còn tại
Bình Dương, phân tích gần 310 mẫu rau lấy ở các chợ, vùng sản xuất, bếp ăn tập
thể trong tám tháng đầu năm 2009 có gần 80 mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật. [11]

Trên

thế

giới,

tại

Ấn

Độ,

Cuộc


điều

tra

được

Bộ

Nông

nghiệp

Ấn

Độ

tiến
hành

trong

một

năm

từ

tháng


11

năm

2007

đến

tháng

10

năm

2008

trên

toàn

đất
nước Ấn Độ. Kết quả là 18% rau và 12% hoa quả nội địa và nhập khẩu của Ấn Độ
đều có dư lượng thuốc trừ sâu, kể cả những loại thuốc trừ sâu bị c ấm, trong đó 4%
lượng rau và 2% lượng hoa quả có dư lượng thuốc trừ sâu cao hơn mức cho phép.
Khoảng 18% (664 mẫu) trong tổng số 3.648 mẫu rau như mướp tây, cà chua, bắp
cải và súp lơ đều có dư lượng thuốc trừ sâu. Các loại rau như bắp cải, súp lơ và cà
chua có dư lượng thuốc trừ sâu lớn nhất. Các loại thuốc trừ sâu tìm thấy trong các
loại quả chủ yếu là chlorpyriphos, monocrotophos, profenophos và cypermethrin.[1]

1.1.5.


Tình

hình

ngộ

độc

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật


Theo thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO, trên thế giới, hàng năm


trên

40.000

người


chết



ngộ

độc

rau

trên

tổng

số

2

triệu

người

ngộ

độc.

Tại
Việt


Nam,

con

số

người

bị

ngộ

độc

cũng

không

nhỏ.

Từ

năm

1993

-

1998,


hàng
chục ngàn người bị nhiễm độc do ăn phải rau quả còn dư lượng thuốc trừ sâu. Nặng
nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, năm 1995 có 13.000 người nhiễm độc, trong đó
có 354 người chết. [8]






6



Năm 1990, một thống kê quý của Tổ chức y tế thế giới (WHO) cho thấy có
khoảng

25

triệu

lao

động

trong

ngành

nông


nghiệp

bị

nhiễm

độc hóa

chất

bảo

vệ
thực vật mỗi năm. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có những con số ước tính trên
phạm vi toàn cầu, nhưng hiện có đến 1,3 tỷ lao động trong ngành nông nghiệp và có
thể hàng triệu ca nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật vẫn đang xảy ra hàng năm. [2]

Năm 2000, Bộ y tế Braxin ước tính trong một năm nước này có 300.000 ca
nhiễm độc và 5.000 ca tử vong do hóa chất bảo vệ thực vật. Trong một nghiên cứu
ở Inđônêxia, 21% trong số các ca liên quan đến hóa chất bảo vệ thực vật có những
dấu hiệu hay triệu chứng về tâm thần, hô hấp và tiêu hoá. Trong một cuộc khảo sát
của Liên hợp quốc, 88% nông dân Campuchia sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đã
từng có triệu chứng nhiễm độc. [2]

1.2.

Giới

thiệu


về

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật

nhó m

carbamat


1.2.1.

Giới

thiệu

chung


Thuốc


trừ

sâu

carbamat



các

dẫn

xuất

của

acid

cacbamic



tính

độc

trừ
sâu. Các thuốc carbamat thường không có tính độc vạn năng như thuốc lân hữu cơ.
Nhiều


hợp

chất

trong

nhóm

tuy



hiệu

lực

cao

với

sâu

hại

nhưng

không




tác
dụng trừ nhện hoặc chỉ có tác dụng trừ một số thuộc nhóm này mà không trừ được
nhóm sâu khác. Một số thuốc trong nhóm còn có cả tác dụng trừ tuyến trùng.

Về cơ chế tác động của thuốc trừ sâu carbamat tương tự như các thuốc trừ
sâu

lân

hữu

cơ.

Các

thuốc

carbamat

kìm

hãm

men

cholinesteraza

bằng


cách
cacbaryl hóa các vị trí hoạt động của toàn men. Quá trình cacbaryl hóa cũng là quá
trình

thuận

nghịch.

Nhưng

sự liên

kết

giữa

các

thuốc

carbamat

với

cholinesteraza
thường không bền, nên có trường hợp sâu hại phục hồi được. Các thuốc lân hữu cơ
chỉ kết hợp với các gốc hoạt động của men, nên các thuốc lân hữu cơ có độ thủy
phân càng mạnh, càng dễ gây độc cho côn trùng ; ngược lại các thuốc carbamat chỉ
ức chế được men cholinesteraza khi toàn bộ phân tử c ủa chúng gắn được lên bề mặt
của


men.

Các

chất

carbamat

càng

bền,

càng

ức

chế

men

cholinesteraza

mạnh.

Cả
lân

hữu






carbamat

đều

kìm

hãm

vị

trí

men

tác

động,

dẫn

đến

hệ

thần


kinh




7



không kiểm soát được, làm mất khả năng phối hợp giữa các cơ quan, giải phóng quá
mức hormon, sinh vật mất nước và chết.

Các thuốc carbamat an toàn với cây, ít độc đối với cá hơn các thuốc lân hữu
cơ; không tồn lưu quá lâu trên nông sản và môi trường sống. Độ độc của thuốc đối
với động vật máu nóng rất khác nhau, tùy thuộc vào loại thuốc.

Các

chất

chủ

yếu

thuộc

nhóm

bao


gồm:

carbaryl,

methiocarb,

pirimicarb,
oxamyl, carbendazim, propoxur, aminocarb, aldicarb…

1.2.2.

Carbofuran

[13]


Carbofuran là một trong những thuốc trừ sâu nhóm carbamat độc nhất, có tên


2,3-dihydro-2,2-dimethyl-7-benzofuranyl

methylcarbamate,

tên

thương

mại



Furadan, Curater.



Công thức phân tử:

C12H15NO3.

M = 221,25g/mol.

t
nc
=

151

C.


d = 1,18g/cm
3
.


Carbofuran



một


trong

những

thuốc

trừ

sâu



độc

tính

cao

đối

với

con
người.





thể


xâm

nhập

vào



thể

qua



hấp,

qua

miệng



qua

da.

Triệu
chứng khi bị ngộ độc carbofuran: buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, giảm tầm nhìn…
Ở liều cao có thể gây tử vong. Chỉ cần uống 1ml carbofuran cũng có th ể dẫn tới tử

vong.

Theo

WHO,

mức

hấp

thụ

hàng

ngày

cho

phép

(ADI)

của

carbofuran


0,01mg/kg trọng lượng cơ thể. Liều gây chết trung bình đối với chuột qua miệng là
LD50 = 5mg/kg.








8



1.2.3.

Carbaryl

[20]


Carbaryl có tên là 1-naphthyl methylcarbamate, tên thương mại là Sevin, là
một loại thuốc trừ sâu nhóm carbamat. Carbayl là tinh thể màu trắng, tan kém trong
nước nhưng tan nhiều trong dung môi phân cực như đimethyl sulfoxide và đimethyl
formaldehyde.


Công thức phân tử C12H11NO2.

M = 201,2g/mol.

t
s
=


145

C.


d = 1,232g/cm
3
.


Carbaryl là một chất ức chế men cholinesteraza và có độc với con người. Nó
được xếp vào loại chất gây ung thư đối với con người. Carbaryl là một chất rắn, có
màu

trắng

hoặc

xám

tùy

thuộc

vào

độ

tinh


khiết

của

nó,

tinh

thể

không

mùi.
Carbaryl là một thuốc trừ sâu có độc tính trung bình. Khi tiếp xúc với carbaryl có
thể gây ra ngộ độc c ấp và mãn tính với các triệu chứng như: buồn nôn, chuột rút dạ
dày, tiêu chảy. Các triệu chứng khác ở liều lượng cao bao gồm đổ mồ hôi, làm mờ
của tầm nhìn, và co giật, ảnh hưởng đến phổi, thận và gan.

Mức hấp thụ hàng ngày tối đa cho phép ADI của carbaryl là 0,1mg/kg trọng
lượng



thể.

Đối

với


chuột,

liều

gây

chết

trung

bình

qua

miệng

LD50

=

250


850mg/kg, liều gây chết trung bình qua hô hấp LC50 = 0,005 – 0,023mg/kg.

1.2.4.

Fenobucarb

[21]



Fenobucarb



tên



2-(1-Methylpropyl)phenol

methylcarbamate,



một
loại thuốc trừ sâu nhóm carbamat.










9





Công thức phân tử: C12H

17NO2

M = 207,3g/mol

t
s
=

32

C


d = 1,035g/cm
3


Fenobucarb

tan

kém

trong


nước,

tan

tốt

trong

các

dung

môi

Acetone,
Benzene, Toluene, xylene. Fenobucarb được sử dụng làm thuốc trừ sâu trên lúa và
bông, rất độc hại đối với con người, nó ảnh hưởng đến hệ thần kinh, bộ phận sinh
sản, gây ung thư và ngộ độc cấp tính. Liều gây chết trung bình qua miệng đối với
chuột là 410mg/kg.

1.2.5.

Propoxur

[22]


Propoxur




tên

theo

IUPAC



2-isopropoxyphenyl

methylcarbamate,


một dẫn xuất của carbamat và được sử dụng làm thuốc trừ sâu.




Công thức phân tử: C11H15NO3

M = 209,2g/mol

t
s
=

91

C





Propoxur có độc tính cao đối với ruồi, muỗi, gián và bọ chét. Nó là chất có
độc tính cao với con người, nó có thể xâm nhập vào cơ thể qua hô hấp, qua đường
miệng và qua da. Triệu chứng ngộ độc propoxur: buồn nôn, đau bụng, ra mồ hôi,
tăng huyết áp, mắt mờ, mệt mỏi, khó th ở. Propoxur nhiễm độc mãn tính đối với con
người gây ung thư, ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản và hệ thần kinh trung ương.







10
số

quốc

gia.

[6]




Đối với chuột, liều gây chết trung bình qua miệng là 90 – 128mg/kg, qua da
là 800 – 1000mg/kg. Theo WHO, mức hấp thụ hàng ngày tối đa cho phép ADI của

propoxur là 0,02mg/kg trọng lượng cơ thể

1.2.6.

Giới

hạn

cho

phép




lượng



phần

còn

lại

của

hoạt

chất,


các

sản

phẩm

chuyển

hóa



các
thành phần khác có trong thuốc, tồn tại trên cây trồng, nông sản, đất, nước sau một
thời gian dưới tác động của hệ sống và điều kiện ngoại cảnh. Dư lượng của thuốc
được tính bằng mg thuốc có trong 1kg nông sản, đất hay nước.

Mức



lượng

tối

đa

cho


phép

(MRL)



giới

hạn



lượng

của

một

loại
thuốc,

được

phép

tồn

tại

về


mặt

pháp



hoặc

xem

như



thể

chấp

nhận

được


trong hay trên nông sản, thức ăn gia súc mà không gây hại cho người sử dụng và vật
nuôi khi ăn các nông sản đó.

Bảng 1.
Mức




lƣợng

tối

đa

cho

phép

sử

dụng

thuốc

trừ

sâu

carbamat



một























1.3.

Các

phƣơng

pháp

xác

định



1.3.1.

Phƣơng

phá p

cực

phổ








11

Quốc gia

Đối tượng
Carbofuran

(mg/kg)
Carbayl

(mg/kg)

Propoxur

(mg/kg)
Fenobucarb

(mg/kg)
Nhật Bản
Xoài
0,3
3,0
1,0
0,3
Việt Nam

(Quyết định
46/2007/QĐ-
BYT)

Táo, nho, lê


5,0

3,0


Cà chua, cà rôt

0,1



0,05

EU
Trái cây
0,1
1
0,05




Trong

phương

pháp

này,

người

ta

phân

cực

điện


cực

giọt

thủy

ngân

bằng
một

điện

áp

một

chiều

biến

thiên

tuyến

tính

với

thời


gian

để

nghiên

cứu

các

quá
trình khử cực của chất phân tích trên điện cực đó. Vì vậy, thiết bị cực phổ gồm hai
phần chính là máy cực phổ và hệ điện cực bao gồm điện cực giọt thuỷ ngân và điện
cực so sánh. Đường cực phổ biểu diễn sự phụ thuộc của chiều cao cường độ dòng
với nồng độ chất phân tích. Để xác định các lượng nhỏ chất thường dùng cực phổ
cổ điển (10
-3
– n.10
-5
). Để xác định các lượng chất cực nhỏ thường dùng các phương
pháp cực phổ hiện đại như cực phổ sóng vuông, cực phổ xung vi phân. [5]

A. Guiberteau , T. Galeano Diáz, F. Salinas và J.M. Ortiz [12] đã xác định
carbaryl và carbof uran bằng phương pháp cực phổ xung vi phân. Phương pháp được
ứng

dụng

xác


định

các

mẫu

nước

sông.

Các

mẫu

nước

sau

khi

xử



sẽ

được

xác

định

bằng

phương

pháp

cực

phổ

xung

vi

phân

với

các

điều

kiện

sau:

tốc


độ

quét
20mV/s (bước nhảy thế: 5mV, khoảng thời gian 0,25s), biên độ xung 50mV trong
khoảng từ + 0,4V đến + 0,8V. Khoảng tuyến tính của carbaryl từ 5.10
-7
10
-4
M và
của carbofuran từ 5.10
-7
– 5.10
-5
M với độ lệch chuẩn tương đối tương ứng là 1,62 và
1,86%.

1.3.2.

Phƣơng

phá p

qua ng

phổ

hấp

thụ


phâ n

tử


Các tác giả Urmila Tamrakar, Vinay K. Gupta và Ajai K. Pillai [32] đã xác
định đồng thời 3 loại thuốc trừ sâu nhóm carbamat bằng phương

pháp quang phổ
hấp thụ phân tử. Phương pháp dựa trên sự tạo mầu của carbamat với thuốc thử p-
aminoacetanlide. Khoảng nồng độ tuân theo định luật Lambert - Beer của carbaryl,
propoxur và carbosulfan tương ứng là 0,04 – 0,36µg/ml, 0,032 – 0,32µg/ml và 0,08


0,64µg/ml.

Phương

pháp

đã

được

áp

dụng

để


phân

tích

thuốc

trừ

sâu

nhóm
carbamat trên các mẫu rau, đất, thức ăn, nước … với hiệu suất thu hồi khoảng 95%.

Tác giả L. Alvarez-Rodriguez [26] đã xác định thuốc trừ sâu carbamat như
carbaryl, bendiocarb, carbofuran, methiocarb, promecarb và propoxur bằng phương
pháp quang phổ hấp thụ phân tử tại bước sóng 510nm. Các thuốc trừ sâu được thủy
phân trong môi trường kiềm nhẹ tạo thành 1-naphtol hoặc phenolate, sau đó nó sẽ




12



tạo mầu với diazo trimethylanilin có chứa mixen natri dodecyl sunfat. Giới hạn phát
hiện của phương pháp trong khoảng 0,2 – 2mg/ml.

Phương


pháp

xác

định

carbosulfan

bằng

phương

pháp

quang

phổ

hấp

thụ
phân

tử

đã

được

các


tác

giả

Y.Koteswara

Rao,

K.

Lokanath

Swaroop,
P.Chiranjeevi,

B.

Rangamannar

[35]

đề

cập.

Carbosulfan

được


thủy

phân

trong
môi trường kiềm tạo thành hợp chất phenolic và tạo cặp với 2, 4-dimethoxy aniline
trong

môi

trường



chứa

chất

oxi

hóa

K2Cr2O7

để

tạo

thành


một

hợp

chất

mang
màu cyanogen. Chất cyanogen này được chiết vào chloroform tại pH=3,5 và đo phổ
tại

bước

sóng

430nm.

Khoảng

nồng

độ

tuân

theo

định

luật


Lambert

-

Beer

của
carbosulfan là 0,1 – 1,0ppm. Độ thu hồi của phương pháp trên các mẫu nước uống,
gạo và lúa mì đều trên 93%.

Tác

giả

O.

Bhargavi



cộng

sự [31]

đã

phát

triển


một



thuật

quang

phổ
hấp thụ phân tử đơn giản và nhạy xác định carbofuran trong các mẫu nước và mẫu
hạt. Carbofuran được thủy ph ân trong môi trường kiềm và tương tác với mu ối diazo
4,

4-azo-bis-3,

3’,

5,

5’-tetrabromo

aniline

tạo

thành

chất

mầu


đỏ



xác

định

tại
bước sóng 470nm. Khoảng tuân theo định luật Lambert - Beer của carbofuran là 0,1
– 16,0µg/ml .

Các

phương

pháp

quang

phổ

hấp

thụ

phân

tử


chỉ

phân

tích

được

một

loại
carbamat nào đó hoặc phân tích đồng thời một số carbamat. Hơn nữa, phương pháp
có độ nhạy kém. Do đó, hiện nay phương pháp này rất ít được ứng dụng để phân
tích carbamat.

1.3.3.

Phƣơng

phá p

phâ n

tích

dòn g

chảy


(flow

injectio n

analysis



FIA)


Phân tích dòng chảy là một kĩ thuật phân tích động, trong đó mẫu phân tích ở
dạng lỏng được bơm vào dòng chất mang chuyển động liên tục. Sau đó trong vòng
phản ứng chất phân tích sẽ ph ản ứng với thuốc thử có trong dòng chất mang, hay
được bơm trực tiếp vào đầu vòng phản ứng, để tạo ra một sản phẩm có thể phát hiện
được theo một tính chất hóa lí nào đó nhờ một loại detector phù hợp. Các tính chất
hóa lí đó thường là: sự hấp thụ quang phân tử UV-VIS và nguyên tử, tính chất phát




13



xạ của nguyên tử, tính chất huỳnh quang, sự thay đổi chiết suất, tính chất điện hóa.
Ứng với mỗi tính chất người ta có một loại detector. [4]

Tác giả Ana M. García-Campana và cộng sự [23] đã phát triển phương pháp
mới để xác định carbaryl trong thực phẩm thực vật và nước tự nhiên bằng kĩ thuật

phân

tích

dòng

chảy.

Đối

với

mẫu

nước,

lọc

qua

màng

lọc

0,45µm

rồi

tiến


hành
phân

tích.

Đối

với

mẫu

quả,

tiến

hành

chiết

mẫu

bằng

etylacetat



làm

sạch


qua
các loại cột chiết pha rắn như nhôm oxit, SAX, C18, silica. Hiệu suất chiết tốt nhất
khi sử dụng cột nhôm oxit. Carbayl chỉ phát huỳnh quang khi có của chất oxi hóa
KMnO4 trong

môi

trường

kiềm

nhẹ.

Hệ

thống

phân

tích

dòng

chảy

để

xác


định
carbaryl gồm 3 kênh chứa 3 dung dịch khác nhau: NaOH, luminol và KMnO4. Tại
các điều kiện tối ưu, khoảng tuyến tính carbaryl từ 5 – 100ng/ml và giới hạn phát
hiện là 4,9ng/ml. Đây là một phương pháp đơn giản, nhanh và dễ dàng kết hợp với
phương pháp sắc ký lỏng để xác định đồng thời một số carbamat.

Một

phương

pháp

xác

định

carbaryl

bằng



thuật

phân

tích

dòng


chảy

sử
dụng detector UV – Vis đã được các tác giả Karim D. Khalaf, A. Morales-Rubio và
M. de la Guardia [25] nghiên cứu. Mẫu được chiết với xylen và bơm vào hệ thống
phân tích dòng chảy. Tại đây, carbaryl sẽ phản ứng với naphtholate và dung dịch p-
aminophenol 50pg/ml trong sự có mặt c ủa dung dịch KIO4 0,004M để tạo thành hợp
chất

mang

màu

iodophenol.

Chất

này

được

xác

định

bằng

detector

UV




Vis

tại
bước sóng 596nm. Hệ thống phân tích dòng chảy gồm 4 kênh: p-aminophenol, IO4-,
H2O và NaOH. Phương pháp có giới hạn phát hiện 26,5ng/ml với tần suất bơm mẫu
110 lần/giờ. Độ thu hồi carbaryl trên các nền mẫu khác nhau khá cao từ 95 – 102%.

Một phương pháp phân tích dòng chảy sử dụng detector huỳnh quang để xác
định

carbofuran

đã

được

đề

cập.

Phương

pháp

dựa

trên


phản

ứng

của

carbofuran
với

KMnO4



luminol

trong

môi

trường

kiềm

nhẹ

sẽ

tạ


thành

hợp

chất

màu.
Carbofuran

bị oxi hóa tạo thành anion 3-aminophthalate – dạng kích thích bền và
được

xác

định

bằng

detector

huỳnh

quang.

Khoảng

tuyến

tính


của

carbofuran

từ







14



0,06



0,5µg/ml,

giới

hạn

phát

hiện


0,02µg/ml.

Phương

pháp

đã

ứng

dụng

thành
công

xác định dư lượng carbofuran trong mẫu rau diếp.[24]

Phương pháp phân tích dòng chảy có ưu điểm là nhanh, thiết bị phân tích dễ
kiếm



rẻ

tiền.

Tuy

nhiên,


phương

pháp

không

thể

xác

định

đồng

thời

các

chất
carbamat. Do vậy, phương pháp cũng ít được ứng dụng để phân tích carbamat.

1.3.4.

Phƣơng

phá p

điện

di


mao

quản


Ling

Wang



cộng

sự

[34]

đã

tách



xác

định




lượng

thuốc

trừ

sâu
carbamat

bằng

phương

pháp

điện

di

mao

quản

đẳng

áp.

Cột

mao


quản



đường
kính

75µm

được

nhồi

hạt

ODS

3µm.

Pha

động

bao

gồm

30%


acetonitril



70%
dung

dịch

đệm CH3COONH4

5mM

(pH=6,5)

chứa

1mM

SDS



0,01%
trietylamine (TEA). Tại các điều kiện tối ưu, 10 carbamat đã được tách nhanh trong
vòng 20 phút. Các mẫu rau được làm sạch qua SPE. Phương pháp có giới hạn phát
hiện từ 0,05 – 1,6mg/kg

và hiệu suất thu hồi từ 51,3 – 109,2% với độ lệch chuẩn
RSD < 11,4%. Phương pháp đã được áp dụng để xác định 10 loại carbamat trong

một số loại rau.

Xác định dư lượng fenoxycarb trong lúa mì bằng phương pháp điện di mao
quản khô và phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao. Các mẫu bột mì được chiết
với

aceton

rồi

được

làm

sạch

bằng

cách

chiết

lỏng-lỏng

với

diclometan.

Phương
pháp


HPLC

sử

dụng

detector

UV

tại

bước

sóng


=

199nm,

cột

C18



pha


động



MeOH

:

H2O

=

6

:

4

(theo

thể

tích).

Phương

pháp

điện


di

sử

dụng

mao

quản
đường kính 50µm x 48,5cm x 48cm chiều dài hiệu dụng, thế giữa hai đầu là 30kV,
dung

dịch

đêm

CH3COONH4

20mM

(pH=9)

trong

95%

MeOH.

Cả


hai

phương
pháp đều có giới han phát hiện thấp 0,008mg/kg đối với HPLC và 0,024mg/kg đối
với điện di mao quản khô và hiệu suất thu hồi cao trên 85%. Hai phương pháp đã
được ứng dụng để xác định fenoxycarb trong các mẫu lúa mì.[28]

Phương pháp sắc ký mao quản điện động học mixen đã xác định đồng thời
aldicarb, carbofuran và một số dạng chuyển hóa của nó trong nước bề mặt. Các mẫu
được được làm sạch qua cột chiết pha rắn có chứa 500mg than hoạt tính. Các chất




15



được tách bằng hệ thống sắc ký mao quản điện động học mixen sử dụng cột mao
quản có đường kính 75µm, chiều dài hiệu d ụng của cột 50cm. Các chất được tách
trong

môi

trường

đệm

natri


borat/acid

clohidric

(20mM,

pH=8)



sử

dụng

natri
dodecyl

sunfat

140mM

làm

chất

hoạt

động

bề


mặt

để

tạo

ra

các

mixen.

Các

điều
kiện

chạy

máy:

điện

thế

tách

23kV,


thời

gian

bơm

mẫu

12s,

nhiệt

độ

cột

tách

25

C



detector

UV

tại


bước

sóng

210nm.

Phương

pháp



giới

hạn

phát

hiện

từ

2


7,4µg/l, độ thu hồi cao từ 77 – 97% với độ lệch chuẩn tương đối 2 – 7%.[15]

Kĩ thuật điện di mao quản là một kĩ thuật mới được phát triển khoảng hơn 10
năm trở lại đây. Đây là một kĩ thuật có thời gian phân tích nhanh, tốn ít dung môi và
hóa


chất.

Việc

xác

định

các

hóa

chất

bảo

vệ

thực

vật

bằng

thiết

bị

này


vẫn

đang
được nghiên cứu và chưa có nhiều loại thuốc trừ sâu được xác định bằng phương
pháp này.

1.3.5.

Phƣơng

phá p

sắc



lỏng

hiệu

năng

cao


Tác

giả


Elvira

Grou



cộng

sự

[16]

đã

xác

định

thuốc

bảo

vệ

thực

vật
carbamat trong đất và nước bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao sử dụng
detector


UV



bước

sóng

254nm.

Các

mẫu

nước

được

chiết

lỏng

lỏng

với
diclometan, các mẫu đất được làm sạch bằng cột florisil. Dịch chiết được đem cô
quay đến cạn, hòa cặn bằng 1ml metanol và đem đo. Giới hạn phát hiện của phương
pháp đối với mẫu nước từ 0,005 – 0,01µg/g, đối với mẫu đất từ 0,05 – 0,1µg/g.

Tác giả Feng Tang và cộng sự [17] đã xác định dư lượng thuốc trừ sâu nhóm

carbamat trong sau bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao HPTLC tại 2
bước

sóng


=

243nm




=

207nm.

Phương

pháp



hiệu

suất

thu

hồi


từ

70,13



103,7% tại nồng độ 1 – 5mg/kg

Phương

pháp

sắc



lỏng

hiệu

năng

cao

sử

dụng

detetor


huỳnh

quang

xác
định

đồng

thời

các

chất

carbamat

như

aldicarb,

propoxur,

carbofuran,

carbaryl


methiocarb trong mật. Mẫu được chiết bằng methanol và cho qua cột florisil để làm

sạch. Sử dụng dung môi diclometan:hexan = 1:1 rửa giải các chất carbamat ra kh ỏi
cột.

Dịch

rửa

giải

đem



quay



40

C

đến

cạn



hòa

cặn


bằng

1ml

acetonitril.

Các




16



chất

carbamat

được

tách



xác

định


đồng

thời

bằng

hệ

thống

sắc



lỏng

với
detector huỳnh quang ghép nối với tiền cột. Phương pháp có giới hạn phát hiện thấp
từ 4 – 5ng/g và độ thu hồi tương đối cao từ 72,02 – 92,02% ứng với nồng độ từ 50 –
200ng/g.[18]

Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao là một phương pháp thông dụng để
xác

định

các

hợp


chất

hữu

cơ.

Phương

pháp

này

đã

được

ứng

dụng

để

xác

định
đồng thời các chất carbamat. Tuy nhiên, phương pháp có độ nhạy kém khi sử dụng
detector UV, còn khi sử dụng detector huỳnh quang, phương pháp có độ nhạy tốt
hơn

nhưng


chỉ



thể

nhận

biết

chất

phân

tích

thông

qua

thời

gian

lưu.

Đối

với

những nền mẫu phức tạp, các chất phân tích rất dễ bị ảnh hưởng bởi nền mẫu, nếu
chỉ dựa vào thời gian lưu sẽ rất khó để có thể khẳng định chất cần phân tích.

1.3.6.

Phƣơng

phá p

sắc



khí


Xác

định

ethylcarbamat

trong

đồ

uống

bằng


phương

pháp

sắc



khí

với
detector bắt điện tử và sắc ký khí khối phổ. Các mẫu được pha loãng bằng ethanol
10% rồi được chiết bằng diclometan. Dịch chiết được đem cô đến gần cạn và đem
đo. Phương pháp này đã được đánh giá ở 5 phòng thí nghiệm với 4 phòng sử dụng
detector

ECD



1

phòng

sử

dụng

detector


MS.

Giới

hạn

phát

hiện

của

phương
pháp thấp, khoảng 5µg/kg đối với detector ECD và 0,5µg/kg đối với detector MS.
[14]

Xác định thuốc trừ sâu carbamat và nhóm nito hữu cơ trong thực phẩm bằng
phương pháp sắc ký khí khối phổ. Phương pháp đã xác định đồng thời 29 loại thuốc
trừ

sâu

trong

một

số

thực


phẩm

như

táo,

khoai

tây,

gạo,

chuối…

Mẫu

được

chiết
bằng

aceton



được

làm

sạch


bằng

3

loại

cột

chiết

pha

rắn

khác

nhau:

cột
diatomaceous, c ột diatomit kết hợp với cột C18, cột florisil. Hiệu suất chiết các mẫu
thực phẩm bằng 3 loại cột đều trên 80%. Sau đó, mẫu được xác định bằng phương
pháp sắc ký khí khối phổ. Chương trình chạy khối phổ được chia làm 7 cửa sổ thời
gian lưu và mỗi cửa sổ có từ 10 – 15 mảnh ion con. Giới hạn phát hiện của phương
pháp thấp từ 0,01 – 0,1µg/ml. [27]




17




Xác định đa dư lượng thuốc trừ sâu trong nước táo bằng phương pháp sắc ký
khí khối phổ. Mẫu nước táo được chiết bằng phương pháp khuếch tán trên nền pha
rắn diatomaceous (tảo cát) và rửa giải bằng dung môi hexan:diclometan = 1:1 tốc độ
5ml/phút.

Phương

pháp



độ

thu

hồi

70



110%



hệ


số

biến

thiên

từ

1,62


18,3% với khoảng nồng độ 0,01 – 0,2mg/kg. [33]

Phương pháp sắc ký khí đã được ứng dụng rộng rãi để xác định các hóa chất
bảo vệ thực vật như các chất clo hữu cơ, lân hữu cơ, pyrethroid và carbamat. Tuy
nhiên phương pháp chỉ phân tích được những chất dễ bay hơi, còn các chất khó bay
hơi thì phải tạo dẫn xu ất nên tốn thời gian và hóa chất. Hơn nữa, để phân tích được
đồng thời các chất thì cần thời gian phân tích dài. Do vậy, phương pháp ít được ứng
dụng để phân tích carbamat.

1.3.7.

Phƣơng

phá p

sắc




lỏng

khối

phổ


Gianni

Sagratini



cộng

sự

[19]

đã

xác

định



lượng

thuốc


trừ

sâu
carbamat và phenylure trong một số loại quả bằng phương pháp vi chiết pha rắn và
sắc



lỏng

khối

phổ.

Điều

kiện

chiết

mẫu

tối

ưu



nhiệt


độ

20

C,

thời

gian

hấp

phụ

mẫu là 90 phút và thể tích mẫu 1ml. Các sợi silica được phủ 3 loại chất hấp phụ:
cacbowax

50µm,

polydimetylsiloxan/divinylbenzen

(PDMS/DVB)

60µm


polyacrylat 85µm. Giới hạn định lượng của phương pháp từ 0,005 – 0,05µg/ml, tùy
thuộc


từng

chất.

Phương

pháp

đã

được

ứng

dụng

để

xác

định

thuốc

trừ

sâu

trong
các mẫu quả.


Xác định đồng thời hóa chất bảo vệ thực vật nhóm carbamat và lân hữu cơ
trong

rau

quả

bằng

phương

pháp

sắc



lỏng

khối

phổ.

Mẫu

được

chiết


bằng
acetonitril, sau đó được tách bằng cách chiết pha rắn khuếch tán (dispersive – SPE)
với chất hấp phụ là primary secondary amine (amin bậc một hai). Hiệu suất thu hồi
cao,

từ

70



110%

với

RSD

<

8%.

Giới

hạn

phát

hiện

thấp


0,5



10ng/ml,

túy
thuộc từng chất. Phương pháp đã được ứng dụng để xác định thuốc trừ sâu trong rau
quả. Trong 25 mẫu rau quả được lấy từ các chợ, gần 70% mẫu chứa một hoặc vài






18



loại thuốc trừ sâu, trên 30% mẫu còn lại chứa nhiều loại thuốc trừ sâu. Tuy nhiên,
tất cả các nồng độ thuốc trừ sâu tìm thấy đếu thấp hơn giới hạn cho phép.[29]

Xác

định



lượng


carbamat

trong

rau

quả

bằng

phương

pháp

khuếch

tán
trên nền pha rắn và sắc ký lỏng khối phổ. Mẫu được chiết trên nền các pha rắn khác
nhau: C8, C18, NH2, CN và phenyl. Hiệu suất chiết tốt nhất trên nền pha rắn C8 đạt từ
64



106%

với

RSD


5



15%.

Giới

hạn

phát

hiện

của

phương

pháp

từ

0,001


0,01mg/kg, thấp hơn giới hạn cho phép của châu Âu từ 10 – 100 lần. Phương pháp
được

ứng


dụng

để

xác

định

carbamat

trong

các

mẫu

rau

quả

tại

các

chợ


Valencian.[30]

Phương pháp sắc ký lỏng khối phổ là một kĩ thuật mới được phát triển trong

những năm gần đây. Về cơ bản, nó là phương pháp sắc ký lỏng sử dụng bộ phận
phát hiện là detector khối phổ. Phương pháp này tuy mới ra đời nhưng nó được ứng
dụng rộng rãi để phân tích đồng thời các thuốc trừ sâu đặc biệt là nhóm carbamat.
Phương pháp có thể phân tích đồng thời từ hàng chục đến hàng trăm các loại thuốc
trừ sâu khác nhau. Phương

pháp có nhiều ưu

điểm như độ chọn lọc cao, giới hạn
phát hiện thấp, thời gian phân tích nhanh, có thể định lượng đồng thời các chất có
thời gian lưu giống nhau mà phương pháp sắc kí lỏng thường không làm được.

Với

những

ưu

điểm

trên,

chúng

tôi

đã

chọn


phương

pháp

sắc



lỏng

khối
phổ để nghiên cứu xác định đồng thời các chất carbamat.























19




Chƣơng

2.

ĐỐI

TƢỢNG



PHƢƠNG

PHÁP

NGHIÊN

CỨU


2.1.


Đối

tƣợng,

mục

tiêu



nội

dung

nghiên

cứu


2.1.1.

Đối

tƣợng



mục

tiêu


nghiên

cứu


Hiện nay, nhiều người nông dân đã lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật làm cho
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong nhiều mẫu rau vượt giới hạn cho phép hàng
chục lần; nhất là các loại rau ăn lá như cải ngọt, mồng tơi, cải bẹ xanh, cải bắp, cải
thảo, rau muống, dưa leo…Dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong các loại rau quả
quá cao đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người, là
nguyên nhân chính gây ra các vụ ngộ độc thực phẩm. Do đó, đối tượng nghiên c ứu
là một số loại rau như rau cải, rau thơm, rau rền, bắp cải, và một số loại quả như
cam, lê, táo, quýt… Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu phương pháp xác định đồng
thời các chất carbamat trong rau quả bằng phương pháp sắc ký lỏng khối-phổ khối
phổ LC/MS/MS.

2.1.2.

Nội

dung

nghiên

cứu


Để đạt được mục tiêu đề ra, cần nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
sau:


2.1.2.1

Xây

dựng

phƣơng

phá p




Khảo sát phương pháp bao gồm:



Điều kiện tách chiết mẫu



Điều kiện chạy máy



Thẩm định phương pháp:




Giới hạn phát hiện LOD, giới hạn định lượng LOQ



Khoảng tuyến tính



Độ chụm (độ lặp lại)



Độ đúng (độ chệch, độ thu hồi)



20



2.1.2.2.

Ứng

dụng

phƣơng

phá p



Áp dụng phương pháp mới xây dựng để xác định tồn dư thuốc bảo vệ thực
vật họ carbamat trong một số loại rau và quả trên địa bàn Hà Nội.

2.2.

Phƣơng

pháp

nghiên

cứu


2.2.1.

Phƣơng

phá p

tách

chiết

mẫu


Đối tượng mẫu phân tích trong luận văn này là các loại rau củ, có nền mẫu
phức tạp. Do đó cần có phương pháp tách chiết mẫu thích hợp để giảm ảnh hưởng

của nền mẫu, tránh làm bẩn detector, tăng khả năng phát hiện.

Trong bản luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp chiết lỏng lỏng
để

tách

chiết



làm

giàu

mẫu.

Thông

thường,

phương

pháp

này

sử dụng

hai


pha
lỏng không trộn lẫn. Tuy nhiên, chúng tôi sử dụng một loại hạt nhồi là kieselguhr
như chất mang trong sắc ký phân bố lỏng – lỏng.

Kieselguhr

hay

còn

gọi



diatomaecous

earth

(đất

diatomit)

hay

Celite,


màu trắng ngà, có khoảng pH làm việc rộng từ 1 – 13. Nó được sử dụng để chiết
lỏng – lỏng các mẫu thực phẩm mà không cần dùng đến phễu chiết. Mẫu sau khi

chiết bằng dung môi phân cực ở dạng lỏng được đưa qua cột đã nhồi hạt kieselguhr


được

giữ

lại



trên

cột.

Sau

đó

chất

phân

tích

được

rửa

giải


bằng

dung

môi
không phân cực.

Sử

dụng

cột

nhồi

hạt

kieselguhr



ưu

điểm

hơn

so


với

chiết

lỏng



lỏng
thông thường như thời gian chiết nhanh hơn, không cần phải mất thời gian để tách
lớp, lượng dung môi sử dụng rửa giải ít hơn nhiều, có độ thu hồi và độ lặp lại cao.

2.2.2.

Phƣơng

phá p

sắc



lỏng

khối

phổ


2.2.2.1.


Nguyên

tắc

chung

về

phƣơng

pháp

HPLC


Sắc ký lỏng là quá trình tách xảy ra trên cột tách với pha tĩnh là chất rắn và
pha động là chất lỏng (sắc ký lỏng - rắn). Mẫu phân tích được chuyển lên cột tách
dưới dạng dung dịch. Khi tiến hành chạy sắc ký, các chất phân tích được phân bố
liên tục giữa pha động và pha tĩnh. Trong hỗn hợp các chất phân tích, do cấu trúc



21



phân

tử




tính

chất



hoá

của

các

chất

khác

nhau,

nên

khả

năng

tương

tác


của
chúng

với

pha

tĩnh



pha

động

khác

nhau.

Do

vậy,

chúng

di

chuyển


với

tốc

độ
khác nhau và tách ra khỏi nhau. Sơ đồ cấu tạo thiết bị HPLC được chỉ ra ở hình 2.1.























Hình 2.1.



đồ

cấu

tạo

hệ

thống

HPLC


Sắc ký lỏng hiệu năng cao bao g ồm nhiều phương pháp có tính đặc thù riêng,
đó là sắc ký lỏng pha liên kết, sắc ký phân bố lỏng – lỏng và sắc ký trao đổi lỏng –
rắn, sắc ký hấp phụ lỏng – rắn…

2.2.2.2.

Ph a

tĩnh

trong

HPLC



Trong HPLC, pha tĩnh chính là chất nhồi cột làm nhiệm vụ tách hỗn hợp chất
phân tích. Đó là những chất rắn, xốp và kích thước hạt rất nhỏ, từ 3

– 7mm. Tuỳ
theo bản chất của pha tĩnh, trong phương pháp sắc ký lỏng pha liên kết thường chia
làm 2 loại: sắc ký pha thường (NP-HPLC) và sắc ký pha ngược (RP-HPLC)


Sắc ký pha thường: pha tĩnh có bề mặt là các chất phân cực (đó là các
silica trần hoặc các silica được gắn các nhóm ankyl có ít cacbon mang
các nhóm chức phân cực: -NH2, -CN ), pha động là các dung môi hữu






22



cơ không phân cực như: n-hexan, toluene Hệ này có thể tách đa dạng
các chất không phân cực hay ít phân cực.


Sắc



pha


ngược:

pha

tĩnh

thường



các

silica

đã

được

ankyl

hoá,
không

phân

cực,

loại


thông

dụng

nhất



–C18H37,

còn

pha

động

phân
cực: nước, methanol, axetonitril Trong rất nhiều trường hợp thì thành
phần

chính

của

pha

động

lại




nước

nên

rất

kinh

tế.

Hệ

này

được

sử
dụng

để

tách

các

chất




độ

phân

cực

rất

đa

dạng:

từ

rất

phân

cực,

ít
phân cực tới không phân cực .

2.2.2.3.

Ph a

động


trong

HPLC


Pha động trong HPLC đóng góp một phần rất quan trọng trong vi ệc tách các
chất phân tích trong quá trình sắc ký nhất định. Mỗi loại sắc ký đều có pha động rửa
giải riêng cho nó để có được hiệu quả tách tốt nhưng nhìn chung phải đáp ứng được
các điều kiện sau:


Pha

động

phải

trơ

với

pha

tĩnh.



Pha

động


phải

hòa

tan

tốt

mẫu

phân

tích,

phải

bền

vững



không

bị

phân hủy trong quá trình chạy sắc ký.



Pha

động

phải



độ

tinh

khiết

cao.



Pha

động

phải

nhanh

đạt

được


các

cân

bằng

trong

quá

trình

sắc

ký,

như

cân bằng hấp phụ, phân bố, trao đổi ion tuỳ theo bản chất của từng loại
sắc ký.

Phải phù hợp với loại detector dùng để phát hiện các chất phân tích.


Pha

động

phải


không

quá

đắt.

Có thể chia pha động làm hai loại:



Pha

động



độ

phân

cực

cao:



thành

phần


chủ

yếu



nước,

tuy
nhiên để phân tích các chất hữu cơ, cần thêm các dung môi khác để
giảm

độ

phân

cực

như

MeOH,

ACN.

Pha

động

loại


này

được

dùng
trong sắc ký pha liên kết ngược.






23

×