I.MỞ ĐẦU
Biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự giúp cho
việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao, nhằm đảm bảo sự hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự bao gồm : bắt, tạm giữ, tạm
giam, cầm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Trong đó tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các
biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị
cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền
của công dân.
II.TẠM GIAM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.Khái niệm
“Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cao phạm tội nghiêm trọng,
phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ Luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm
và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Tạm giam thể hiện sự bắt buộc của nhà nước đối với bị can bị cáo và được đảm
bảo bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, do các cơ quan có chức năng thẩm quyền
thực hiện. Ngoài ra, tạm giam còn thể hiện việc hạn chế các quyền tự do của người
bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Vì thế biện pháp tạm giam trong
Tố tụng hình sự thể hiện rõ tính chát của một biện pháp ngăn chặn.
Là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là
hình phạt tù. Tạm giam cũng khác với “giam giữ hành chính” là một biện pháp
phạt đối với người vi phạm hành chính. Các cấp thẩm quyền áp dụng biện pháp
giam giữ hành chính để nhằm giáo dục họ về ý thức tuân thủ pháp luật chứ không
nhằm ngăn chặn tội phạm.
2.Sự phát triển của chế định tạm giam từ 1945 đến nay
Ngay sau Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà để
phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Chính phủ ta đã ban hành các sắc lệnh
quy định về quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở của dân. Đối
với những phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an toàn của Nhà nước, lợi ích hợp
pháp của nhân dân mà cần thiết phải tạm giam thì thủ tục tạm giam và các trường
hợp tạm giữ tạm giam cũng được quy định cụ thể trong các sắc lệnh trên.
Đến 30-4-1975, sau khi giải phóng miền Nam. Chính phủ lâm thời miền Nam
Việt Nam đã ban hành sắc lệnh 02-SL76 ngày 15-03-1976 quy định việc tạm giữ
và bắt giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật. Những quy định trên đây đã góp
phần thực hiện quá trình tiến hành tố tụng được nhanh chóng và có nhiều thuận lợi
hơn, tuy nhiên các văn bản trên cũng chưa nói rõ được những điều kiện cụ thể
được phép tạm giữ tạm giam nên vẫn còn có tình trạng và nhiều trường hợp áp
dụng một cách tuỳ tiện, lạm quyền.
3. Mục đích của việc tạm giam.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của
tố tụng hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội phạm xảy ra nhằm hạn chế và tránh được
những thiệt hại mà các loại tội phạm có khả năng gây ra cho các đối tượng và các
mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ngoài ra ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất
định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện
tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị
can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến
hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu
thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp
cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên
án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
4. Đối tượng áp dụng
Theo điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam
chỉ có thể là bị can, bị cáo. Như vậy, chỉ áp dụng tạm giam đối với những người đã
bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Người
chưa bị khởi tố với tư cách là bị can hay không bị toà án quyết định đưa ra xét xử
thì không thể tạm giam họ.
Việc quy định đối tượng áp dụng của Biện pháp tạm giam là xuất phát từ việc bảo
đảm hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành đúng theo chính sách của
Đảng và pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
nhân dân, tránh được hiện tượng giam người vô tội.
Tuy nhiên, tạm giam không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất. vì thế đối với
những đối tượng là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc
phạm tội do vô ý, không có hoạt động cản trở cho công tác điều tra, truy tố xét xử
thì không cần tạm giam mà có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
5. Các trường hợp tạm giam
Khoản 1 Điều 88 Bộ luật TTHS quy định các trường hợp bị tạm giam như sau:
5.1. Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
Trường hợp này được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định
của BLHS thì mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với tội ấy là trên 15 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt ngiêm trọng) hoặc mức cao nhất
của khung hình phạt là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Để áp dụng
biện pháp tạm giam đối với người thực hiện tội phạm thì người thực hiện tội phạm
phải là người đã bị khởi tố bị can hoặc đã bị Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử với tư cách là bị cáo, và bị can, bị cáo này phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng
5.2. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù từ trên hai năm. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội
thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể bị tạm giam, phạm tội thuộc
khoản có mức hình phạt tù dưới hai năm thì không được tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố. xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào
nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa
vụ của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp
tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kì
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
ràng thì không được tạm giam mà phải áp dụng các biện pháp khác, trừ những
trường hợp sau đây:
• Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
• Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
• Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5.3. Trường hợp tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Tại điều 303 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về việc tạm giam người chưa đủ
tuổi thành niên phạm tội : “1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt,
tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120
của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là thủ tục đặc biệt được áp dụng đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối
với người chưa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai
lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội, Vì
vậy, khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội cần
phải xem xét cân nhắc đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các yếu
tố: tính chất hành vi, độ tuổi, hoàn cảnh sinh sống, môi trường, điều kiện sống,
giáo dục, hoàn cảnh gia đình, thái độ tư tưởng của người chưa thành niên trước và
sau khi phạm tội của người chưa thành niên để ra được quyết định đúng đắn, có
nên áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ hay chỉ cần áp dụng các biện pháp
ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn.
6. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can , bị cáo để tạm giam (quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật
TTHS) thì có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam mà của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến
việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau
khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
7. Thủ tục tạm giam
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, nó đụng chạm đến
quyền tự do và danh dự của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Nếu
như việc tạm giam không được thông báo chính xác kịp thời cho thân nhân người
tạm giam và những người khác sẽ làm cho họ lo lắng, thắc mắc và chính quyền địa
phương sẽ không làm tốt được chức năng phối hợp cho nên thủ tục được đặt ra khi
tạm giam theo khoản 4 điều 70 bộ luật tố tụng hình sự : “Cơ quan ra lệnh tạm giam
phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”.
Mặt khác trong mọi thủ tục tạm giam bị can, bị cáo phải đảm bảo các yêu
cầu pháp lý sau :