Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Rủi ro lãi suất và kiến nghị nhằm giảm tối thiểu rủi ro lãi suất trong hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.71 KB, 81 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu, kết quả nên trong khóa luận là trung thực, xuất phát từ tình
hình thực tế của đơn vị thực tập.
Hà Nội, tháng 05 năm 2008
Sinh viên
Lê Thị Hồng Hạnh
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Thực hiện 31
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ACB: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
CNHN: Chi nhánh Hà nội.
NHNN: Ngân hàng nhà nước.
NHTW: Ngân hàng trung ương.
SCB: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
TCTD: Tổ chức tín dụng.
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Thực hiện 31
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nước ta đã chính thức là thành viên tổ chức thương mại quốc tế WTO
được 1 năm, quá trình hội nhập diễn ra sâu rộng và thị trường ngày càng tự
do. Ta dễ nhận thấy lợi ích của quá trình hội nhập mang lại là cơ hội tiếp cận
thị trường thế giới rộng lớn, luồng vốn nước ngoài hùng hậu, sự tự do thương
mại giúp cho người dân có nhiều lựa chọn hơn…Bên cạnh đó, quá trình hội
nhập cũng đồng nghĩa với việc cạnh tranh trên thị trường sẽ gay gắt hơn, thị


trường sẽ bất ổn hơn. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các thành
phần kinh tế nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng. Chính vì vậy
rủi ro trong hoạt động kinh doanh là vấn đề rất đáng để các ngân hàng quan
tâm. Đặc biệt trong thời gian qua, chúng ta cũng chứng kiến cuộc chạy đua lãi
suất nóng bỏng giữa các ngân hàng, lãi suất tăng nhanh trong thời gian ngắn
đã đưa các ngân hàng đối mặt với lãi suất huy động cao hơn, gây tăng chi phí
giảm thu nhập của ngân hàng.
Trước thực tế đó, em nhận thấy rủi ro lãi suất là vấn đề mang tính thời
sự đối với hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta, và vấn đề này cần được
các nhà quản lý ngân hàng quan tâm hơn nữa. Chính vì vậy mà em chọn đề
tài: “Rủi ro lãi suất và một vài kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro lãi suất
trong hoạt động của SCB-CN Hà Nội”. Rủi ro lãi suất là một vấn đề rất
rộng và công tác quản trị rủi ro lãi suất phải mang tính hệ thống, tuy nhiên
trong phạm vi đề tài này em chỉ muốn đề cập đến sự giảm thu nhập biên của
ngân hàng do biến động của lãi suất. Do hạn chế về trình độ, thời gian nghiên
cứu ngắn và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp nên luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý chân thành từ các thầy cô
giáo, các cán bộ ngân hàng để luận văn được hoàn thành và có ý nghĩa thực
tiễn hơn.
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
1
Khóa luận tốt nghiệp
2.Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của khóa luận là với nền tảng lý luận và thực tiễn rủi ro lãi suất và
công tác quản trị rủi ro lãi suất của các ngân hàng tại các nước tiên tiến, áp
dụng vào phân tích thực trạng rủi ro lãi suất của SCB-CN Hà Nội dựa trên
hoạt động kinh doanh thực tế của ngân hàng, từ dó hình thành những giải
pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể kiểm soát và hạn chế được rủi ro lãi
suất tốt nhất trong khả năng của mình.
3.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi hoạt động của SCB-
CN Hà Nội từ tháng 10/2005 đến tháng 4/2008. Đối tượng nghiên cứu là rủi
ro lãi suất và nguyên nhân của nó trong hoạt động thực tế của chi nhánh trong
thời gian đó.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu dựa trên những phương pháp như: phương pháp Duy
vật biện chứng, Phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê,
bảng biểu để tiến hành phân tích số liệu qua các năm của ngân hàng.
5.Nội dung của đề tài:
Đề tài được bố cục thành 3 phần chính:
Chương 1: Một vài vấn đề về lãi suất và rủi ro lãi suất.
Chương 2: Thực trạng rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại SCB-CN
Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất tại SCB-CN Hà Nội.
Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Tô Kim Ngọc và các anh
chị tại SCB-CN Hà Nội đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo cho em hoàn thành
khóa luận này.
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
2
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
MỘT VÀI VẤN ĐỂ VỀ LÃI SUẤT VÀ RỦI RO LÃI SUẤT
1.1. Khái niệm về lãi suất và rủi ro lãi suất:
1.1.1. Lãi suất:
Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng
tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thừoi gian của tiền tệ. Lãi suất
chính là chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền.
Theo quan hệ thị trường, lãi suất được hiểu là giá của vốn, chi phí phải trả cho
việc thuê vốn. Như vây, lãi suất là tín hiệu của thị trường tham gia vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ vốn một cách hợp lý.

Xem xét chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, lãi suất là công cụ chủ
yếu được NHTW sử dụng nhằm điều chỉnh và ca thiệp vào thị trường giúp
hạn chế và khác phục những yếu kém của nền kinh tế.
1.1.2. Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do sự
thay đổi lãi suất trên thị trường gây ra. Rủi ro này bao gồm sự giảm sút trong
thu nhập và giá trị thị trường của bảng tổng kết tài sản bị giảm đi. Rủi ro lãi
suất gồm ba loại:
 Rủi ro do tái tài trợ tài sản nợ là rủi ro phát sinh khi tài sản nợ của ngân
hàng nhạy cảm với lãi suất hơn tài sản có và lãi suất trên thị trường
tăng lên.
 Rủi ro do tái tài trợ tài sản có là rủi ro phát sinh khi tài sản có của ngân
hàng nhạy cảm với lãi suất hơn tài sản nợ và lãi suất trên thị trường
giảm xuống.
 Rủi ro do giảm giá trị tài sản khi lãi suất thị trường biến động khiến cho
giá trị của các tài sản giảm nhanh hơn giá trị của các khoản nợ, gây
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
3
Khóa luận tốt nghiệp
giảm giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
1.2. Nguyên nhân của rủi ro lãi suất:
Qua những ví dụ và khái niệm về rủi ro lãi suất, ta có thể thấy rủi ro lãi suất
do hai nguyên nhân chính là: sự không cân xứng các kỳ hạn của tài sản nợ đối
với tài sản có và sự thay đổi không dự đoán được của lãi suất trên thị trường.
1.2.1. Sự không cân xứng về kỳ hạn của bảng cân đối:
Chức năng đặc trưng của ngân hàng thương mại là biến đổi kỳ hạn của
tài sản, vì vậy sự không cân xứng vì kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có là
thường xuyên xảy ra, không thể tránh khỏi.
Sự không cân xứng còn do nguyên nhân khách quan là khách hàng
không tôn trọng thời hạn đã cam kết với ngân hàng. Những trường hợp này

xảy ra thường xuyên, đặc biệt là khách hàng gửi tiền rút trước hạn, và hiện
nay ngân hàng không có cơ chế để có thể nghiêm cấm được việc này. Điều
này khiến cho ngân hàng không thể dự đoán chính xác được thời hạn của
nguồn vốn cũng như tài sản của mình.
Xét về sự chênh lệch kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ, ta có:
- Trạng thái trường là trạng thái ngân hàng có kỳ hạn của tài sản có dài hơn
kỳ hạn của tài sản nợ. Với trạng thái này ngân hàng gặp rủi ro khi lãi suất
tăng.
- Trạng thái đoản là trạng thái ngân hàng có kỳ hạn của tài sản nợ dài hơn
kỳ hạn của tài sản có. Với trạng thái này ngân hàng gặp rủi ro khi lãi suất
thị trường giảm.
1.2.2. Biến động không thể dự đoán của lãi suất thị trường.
Trên thị trường tiền tệ có hàng ngàn người tham ra, mọi quyết định của
ngân hàng phải phụ thuộc vào sự cạnh tranh trên thị trường, có nghĩa là ngân
hàng là “người chập nhận giá” chứ không phải là “người định giá”. Hơn thế
nữa, lãi suất trên thị trường chịu tác động của rất nhiều yếu tố như: làm phát
dự tính, thu nhập thực tế của người dân, rủi ro của các công cụ nợ, tính thanh
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
4
Khóa luận tốt nghiệp
khoản của tài sản và chính sách tiền tệ của NHTW…. Các nhân tố đó này
không chỉ tác động riêng lẻ mà còn tổng hòa với nhau làm cho sự dự báo lãi
suất càng khó chính xác.
Việc dự báo lãi suất còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng, trình độ của
những con người trong ngân hàng. Muốn dự báo chính xác về lãi suất đỏi hỏi
người phân tích phải thấu hiểu các mối quan hệ giữa các chính sách, các lực
lượng cung cầu vốn trên thị trường.... Ngoài ra trên thị trường phải có những
chỉ báo chính xác mới có thể giúp cho người phân tích dự đoán được diễn
biến lãi suất trong tương lai.
1.3. Đo lường rủi ro lãi suất:

1.3.1. Mô hình kỳ hạn đến hạn
1.3.1.1.Mô hình.
Với những kết luận về mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu,
chúng ta có mô hình kỳ hạn đến hạn với một danh mục tài sản có và tài sản
nợ. Gọi M
A
là kỳ hạn trung bình của danh mục tài sản có và M
L
là kỳ hạn
trung bình của danh mục tài sản nợ, ta có:
M
A
= W
A1
M
A1
+ W
A2
M
A2
+ … + W
An
M
An
M
L
= W
A1
M
L1

+ W
A2
M
L2
+ … + W
An
M
Ln
Trong đó:
W
Aj
là tỷ trọng của tài sản có j biểu thị theo giá thị trường
W
Lj
là tỷ trọng của tài sản nợ j biểu thị theo giá thị trường
M
Aj
là kỳ hạn đến hạn của tài sản có j
M
Lj
là kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ j
Mức độ chênh lệch: ∆M = M
A
- M
L
Tính chất của ∆M là lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn 0
Ta xét một bảng cân đối tài sản đơn giản như sau
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
5
Khóa luận tốt nghiệp

Bảng 1.1: Bảng cân đối tài sản đơn giản của ngân hàng:
Tài sản có Tài sản nợ
Tài sản có kỳ hạn dài (A) Tài sản nợ có kỳ hạn ngắn (L)
Vốn tự có (E)
Ta có : E = A – L
Khi lãi suất trên thị trường tăng, thì giá trị thị trường của tài sản nợ và tài
sản có đều giảm, song với giả thiết của ví dụ là tài sản có có kỳ hạn dài hơn
tài sản nợ, điều này dẫn đến giá trị thị trường của tài sản có giảm nhiều hơn so
với giá trị thị trường của vốn huy động. Bằng công thức ta có :
∆E = ∆A - ∆L
Công thức trên cho thấy rằng, khi lãi suất tăng làm giá trị của tài sản có
giảm nhiều hơn so với tài sản nợ, để bù đắp lại khoản lỗ này, ngân hàng phải
trích từ vốn tự có của mình. Đây chính là rủi ro lãi suất.
1.3.1.1. Nhược điểm của mô hình kỳ hạn đến hạn:
Việc đo lường rủi ro lãi suất bằng mô hình kỳ hạn chưa tính hết mức độ
rủi ro mà ngân hàng gặp phải khi lãi suất trên thị trường thay đổi. Chúng ta sẽ
dễ dàng thầy rằng: ngay cả trong trường hợp ngân hàng đã cân xứng kỳ hạn
đến hạn của tài sản nợ và tài sản có thì rủi ro lãi suất vẫn xảy ra qua xét
trường hợp đơn giản sau:
Giả sử ngân hàng huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi
với mệnh giá 100$, kỳ hạn một năm với lãi suất đơn là 10%/năm. Nghĩa là
khi đến hạn ngân hàng sẽ thanh toán cho người gửi tiền là 110$. Giả sử ngân
hàng dùng vốn huy động này cho các công ty vay với mức lãi suất là
15%/năm, kỳ hạn đến hạn là 1 năm, hoàn trả cố định các khoản tiền gốc bằng
nhau theo định kỳ 6tháng/1lần. Luồng tiền ngân hàng thu về từ hoạt động tín
dụng lớn hơn hay nhỏ hơn 115$ là phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trong 6
tháng cuối năm.
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
6
Khóa luận tốt nghiệp

Tại thời điểm cuối 6 tháng , ngân hàng thu về 50$ tiền gốc và 7.5$ tiền lãi
Tại thời điểm cuối năm, ngân hàng thu về hai khoản:
Một là :50$ tiền gốc còn lại của khoản tín dụng và 3,75 tiền lãi trên số tiền
gốc còn lại.
Hai là: thu về từ khoản tái đầu tư 57,5 kỳ hạn 6 tháng. Nếu mức lãi suất thị
trường không thay đổi, thì lãi thu từ tái đầu tư kỳ hạn 6 tháng là:
57,5x1/2x 0,15 = 4,312$
Do đó luồng tiền thu được từ tái đầu tư là 61,8125.
Luồng tiền tại thời điểm cuối năm được biểu diễn dưới bảng sau:
Bảng 1.2.Luồng tiền thu được sau 1 năm tại mức lãi suất 15%:
Luồng tiền tại thời điểm cuối nửa năm
Thu tiền gốc
Thu tiền lãi
$57,5
$50,00
$7,50
Luồng tiền tại thời điểm cuối năm
Thu tiền gốc còn lại
Thu tiền lãi từ gốc còn lại
Thu tiền gốc tái đầu tư
Thu tiền lãi từ tái đầu tư
$115,5625
$50,00
$3,75
$57,50
$4,3125
Từ bảng trên cho thấy, mặc dù kỳ hạn của tín dụng và chứng chỉ tiền
gửi đều là một năm nhưng chênh lệch giữa luồng tiền thu về và luồng tiền
phải trả tại thời điểm cuối năm là 0,5625. Nguyên nhân của sự chênh lệch này
là do ngân hàng đã tái đầu tư phần gốc và lãi thu được sau 6 tháng. Bây giờ

giả sử rằng 6 tháng cuối năm, Lãi suất thay đổi, giảm từ 15% xuống 12%.Bây
giờ luồng tiền cuối năm sẽ thay đổi theo bảng sau:
Bảng 1.3. Luồng tiền thu được sau 1 năm tại mức lãi suất 12%
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
7
Khóa luận tốt nghiệp
Luồng tiền tại thời điểm cuối nửa năm
Thu tiền gốc
Thu tiền lãi
$57,5
$50,00
$7,50
Luồng tiền tại thời điểm cuối năm
Thu tiền gốc còn lại
Thu tiền lãi từ gốc còn lại
Thu tiền gốc tái đầu tư
Thu tiền lãi từ tái đầu tư
$114,70
$50,00
$3,75
$57,50
$3,54
Như vậy lãi suất giảm chỉ ảnh hưởng đến khoản tái đầu tư trong 6 tháng
cuối năm, do đó ngân hàng đang từ trạng thái lãi chuyển thành trạng thái lỗ
$0,30.
Ví dụ trên cho thấy ngân hàng lỗ ngay cả khi kỳ hạn của tài sản nợ và
tài sản có đã cân xứng nhau.
Tóm lại: Mô hình kỳ hạn đến hạn là mô hình đơn giản để đo rủi ro lãi
suất đối với ngân hàng.Mô hình cho thấy rằng, với các kỳ hạn đến hạn của tài
sản nợ và tài sản có không cân xứng nhau, có thể đưa ngân hàng và trạng thái

mất khả năng thanh toán cuối cùng. Bởi vì mô hình kỳ hạn đến hạn đã không
tính đến yếu tố thời lượng của các luồng tài sản có và tài sản nợ, cho nên mô
hình này bộc lộ là một phương pháp chưa hoàn hảo để đo lường rủi ro lãi
suất.
1.3.2. Mô hình thời lượng.
Trong mô hình này chúng ta sẽ thấy rằng chênh lệch giữa thời lượng của tài
sản có và tài sản nọ là phép đo rui ro lãi suất chính xác hơn nhiều so với mô
hình kỳ hạn đến hạn, bởi vì nó đề cập đến yếu tố thời gian của tất cả các
luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ và tài sản có.
1.3.2.1. Công thức tổng quát của mô hình thời lượng.
Chúng ta có thể tính thời lượng của bất kỳ một chứng khoản nào có thu
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
8
Khóa luận tốt nghiệp
nhập cố định bằng công thức tổng quát sau:
D =


=
=
n
t
tt
n
t
t
DFCF
DFxtCF
1
1

=


=
=
n
t
t
n
t
t
PV
xtPV
1
1
Trong đó: CF
t
là luồng tiền nhận được tại thời điểm cuối kỳ hạn t.
n là kỳ thứ cuối cùng.
DF
t
là nhân tố chiết khấu và DF
t
=
t
R)1(
1
+
R là mức lãi suất thị trường hiện hành
PV

t
là giá trị hiện tại cua luồng tiền cuối kỳ t và PV
t
= CF
t
x DF
t
Từ đó chúng ta có:
Mối quan hệ giữa thời lượng và kỳ hạn của tài sản: thời lượng tăng lên
cùng với kỳ hạn của tài sản có thu nhập cố định, nhưng với một tỷ lệ giảm
dần. Bằng công thức toán học chúng ta biểu diễn như sau:
M
D
δ
δ
> 0
2
2
M
D
δ
δ
< 0
Điều này có nghĩa là khi M tăng thì D cũng tăng, nhưng D tăng với một
tỷ lệ giảm dần.
Mối quan hệ giữa thời lượng và mức lãi suất hiện hành của thị trường:
Khi lãi suất tăng thì thời lượng giảm. Nghĩa là:
R
D
δ

δ
< 0.
1.3.2.2.Ứng dụng mô hình thời lượng vào xác định mức rủi ro lãi suất đối với
toàn bộ bảng cân đối của ngân hàng.
Để đo được thời lượng, trước hết chúng ta phải xác định thời lượng của
tài sản nợ và tài sản có như sau.
Xác định thời lượng bên tài sản có theo công thức sau:
D
A
= D
A
1
X
A
1
+ D
A
2
X
A
2
+ … + D
A
n
X
A
n
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
9
Khóa luận tốt nghiệp

Trong đó : D
A
là thời lượng của toàn bộ tài sản có.
D
A
i
thời lượng của tài sản thứ I trong tài sản có.
X
A
i
là tỷ trọng của tài sản i trong tài sản có.
Và X
A
1
+ X
A
2
+ … + X
A
n
= 1
Xác định thời lượng của tài sản nợ theo công thức sau:
D
L
= D
L
1
X
L
1

+ D
L
2
X
L
2
+ … + D
L
n
X
L
n
Trong đó: D
L
là thời lượng của toàn bộ tài sản nợ.
D
L
i
thời lượng của tài sản thứ i trong tài sản nợ.
X
L
i
là tỷ trọng của tài sản thứ i trong tài sản nợ.
Và X
L
1
+ X
L
2
+ … + X

L
n
= 1
Chúng ta phân tích một bảng cân đổi đơn giản như sau:
Bảng 1.4. Bảng cân đối tài sản đơn giản của ngân hàng thương mại.
Tài sản có Tài sản nợ
Tài sản có (A) Tài sản nợ (L)
Vốn tự có (E)
Ta có: A = L+E
Và ∆A = ∆L + ∆E
Hay ∆E = ∆L - ∆A (7)
Từ công thức chung của mô hình thời lượng, công thức (6) ta có:
A
A∆
= - D
A
)1( R
R
+

=> ∆A = - D
A
.A.
)1( R
R
+

(8)
L
L∆

= - D
L
)1( R
R
+

=> ∆L = - D
L
.L.
)1( R
R
+

(9)
Từ (7), (8) và (9) ta có:
∆E = (-D
A
.A + D
L
.L)
)1( R
R
+

(10)
∆E = - (D
A
– D
L
.

A
L
).A.
)1( R
R
+

(11)
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
10
Khóa luận tốt nghiệp
∆E = - (D
A
– D
L
.k).A.
)1( R
R
+

(12)
Ta gọi: (D
A
– k.D
L
) là khe hở kỳ hạn.
Từ phương trình (12) ta rút ra kết luận như sau:
• Chênh lệch thời lượng giữa tài sản có và tài sản nợ được điều chỉnh bởi
tỷ lệ đòn bẩy k. Chênh lệch thời lượng được tính bằng năm, phản ánh
sự không cân xứng về thời lượng của hai vế bảng cân đối tài sản. Đặc

biệt nếu chênh lệch này lớn thì tiềm ẩn rủi ro càng lớn.
• Mức độ thay đổi lãi suất càng nhiều thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất đối với
ngân hàng càng cao. Như vậy, chúng ta có thể biểu diễn rủi ro lãi suất
đối với ngân hàng như sau:
∆E= - (chênh lệch thời lượng đã điều chỉnh)x(quy mô tài sản)x(mức thay đổi
lãi suất).
1.3.2.3.Khả năng áp dụng mô hình thời lượng vào thực tế hoạt động ngân
hàng và những hạn chế của nó.
Những nhà phê bình mô hình thời lượng thường phàn nàn rằng rất khó
áp dụng mô hình này vào thực tiễn hoạt động của ngân hàng. Mặc dù vậy,
chúng ta sẽ được chứng kiến trong phần này vieẹc áp dụng mô hình này vào
phòng ngừa rủi ro là rất hiệu quả. Một bằng chứng cho thấy, ở một số nước
như Mỹ, Úc… đã và đang bắt đầu sử dụng mô hình này vào việc giám sát va
quản lý rủi ro lãi suất. Những nhà phê bình thường lập luận rằng: về mặt
nguyên tắc nhà quản trị có thể thay đổi D
A
và D
L
để phòng ngừa rủi ro lãi suất
được tốt hơn, nhưng việc cơ cấu lại bảng cân đối tài sản có một danh mục tài
sản lớn và phức tạp có thể tốn kém thời gian và tiền bạc. Lập luận này chỏ có
thể đúng trong quá khứ, ngày nay với việc mở rộng các nghiệp vụ trên thị
trường như: mua bán vốn, chứng khoán hóa tài sản, và thị trường mua bán lại
nọ đã làm đơn giản, tăng được tốc độ và giảm được chi phí giao dịch rất nhiều
trong việc cơ cấu lại bảng cân đối tài sản. Hơn nữa trong thực tế ngân hàng có
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
11
Khóa luận tốt nghiệp
thể sử dụng mô hình này thông qua các giao dịch nghiệp vụ cộng cụ phái sinh
mà không nhất thiết phải cơ cấu lại bảng cân đối tài sản.

Ở đây ta cũng nhận thấy mô hình này cũng có những hạn chế sau:
Thứ nhất: khi xây dựng mô hình thời lượng, chúng ta đã giả thiết rằng
lãi suất thị trường thay đổi ngay lập tức khi mua trái phiếu. Trong thực tế thì
không phải lúc nào cũng như vậy, mà lãi suất thị trường thì có thể thay đổi bất
kỳ lúc nào trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Điều đó cho thấy rằng việc chênh
lệch thời lượng thực tế gây ra rủi ro lãi suất đã không đồng nhất với tính
chênh lêch thời lượng trong lý thuyết.
Thứ hai là: Mô hình thời lượng chỉ xác định mức độ rủi ro lãi suất khi
lãi suất thị trường thay đổi ở mức nhỏ. Nếu lãi suất thay đổi ở mức lớn hơn thì
mô hình thời lượng trở nên kém tin cậy, vì nó không dự đoán chính xác sự
thay đổi ở mức lớn hơn thì mô hình thời lượng trở nên kém chính xác. Điều
này do mô hình thời lượng đã dự đoán rằng, mối quan hệ giữa sự thay đổi giá
trị chứng khoán với lãi suất là mối quan hệ tuyến tính. Nhưng thực tế chúng ta
thấy rằng khi lãi suất tăng mạnh thì mô hình thời lượng đã dự đoán thì giá của
chứng khoán nhiều hơn thực tế, và khi lãi suất giảm mạnh thì nó dự đoán thị
giá của chứng khoán tăng chậm hơn thực tế. Điều này nói lên rằng mối quan
hệ lãi suất và thị giá chứng khoán là mối quan hệ phi tuyến tính, đặc tính này
được gọi là tính lồi. Từ đó ta có thể thấy mối quan hệ giữa tính lồi và thời
lượng như sau: lãi suất thay đổi càng lớn và tính lồi càng lớn, thì nhà quản trị
phải đối mặt với sai số càng lớn khi sử dụng mô hình thời lượng đo độ rủi ro.
Thứ ba là: Yếu tố lãi suất trong mô hình thời lượng được quy định cố
định tại thời điểm phát hành trái phiếu (hay cấp tín dụng) và được duy trì cho
đến hết hạn. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều trái phiếu ( các khoản tín
dungg) quy định theo mức lãi suất thả nổi. Vậy đối với chứng khoán thả nổi
thì việc xác định thời lượng thế nào? Theo các nhà quản trị ngân hàng hiện
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
12
Khóa luận tốt nghiệp
đại, họ cho rằng: Thời lượng của chứng khoán có lãi suất thả nổi được các
định là khoảng thời gian từ thời điểm mua chứng khoán cho đến thời điểm

điều chỉnh lãi suất lần đầu tiên. Chúng ta gọi thời điểm này là thời điểm định
giá lại chứng khoán.
1.3.3.Mô hình định giá lại:
Nội dung của mô hình đánh giá lại là việc phân tích các luồng tiền dựa
trên nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được
từ tài sản có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời kỳ nhất
định. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản so với mô hình kỳ hạn và mô hình
thời lượng.
1.3.3.1.Tài sản có và tài sản nợ có thể tái định giá và không thể tái định giá.
Tài sản và nợ có thể tái định giá là tài sản và nợ nhạy cảm với lãi suất
tức là nó sẽ được định giá lại trong từng thời kỳ nhất định cho phù hợp với sự
biến động của thị trường.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy có những tài sản có thời hạn danh nghĩa là
dài hạn, như 5 năm nhưng sẽ đến hạn trong 1 tháng tới thì giá trị của nó sẽ
được tái đầu tư trong vòng 1 tháng nữa, nghĩa là nó sẽ phụ thuộc vào lãi suất
trong 1 tháng tới, hay là nó cũng nhạy cảm với lãi suất. Như vậy,ở đây chúng
ta cần xem xét đến thời hạn còn lại của các tài sản chứ không chỉ là thời hạn
danh nghĩa của tài sản. Như vậy:
Tài sản có thể định giá lại bao gồm: Chứng khoán ngắn hạn của chính
phủ và của các tổ chức cá nhân ( hoặc thời hạn còn lại ngắn); Các khoản cho
vay ngắn hạn hoặc thời hạn còn lại ngắn; Các khoản cho vay và chứng khoán
mang lãi suất thả nổi.
Nợ có thể định giá lại bao gồm: Vay trên thị trường tiền tệ; Tiết kiệm
ngắn hạn; Tiền gửi trên thị trường tiền tệ; Tiền gửi mang lãi suất thả nổi; các
khoản tiền gửi dài hạn sắp đến hạn thanh toán.
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
13
Khóa luận tốt nghiệp
1.3.3.2.Công thức chung của mô hình định giá lại.
Gọi GAP là chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm với lãi

suất (Có thể định giá lại); RSA là tài sản có nhạy cảm với lãi suất; RSL là tài
sản nợ nhạy cảm với lãi suất; ∆R là sự biến động của lãi suất; ∆Ni là sự biến
động của thu nhập. Ta có công thức xác định rủi ro lãi suất của mô hình định
giá lại là:
GAP = RSA – RSL (1)
∆Ni = GAP x ∆R (2)
Từ công thức (1) và (2) ta thấy:
Nếu GAP > 0 tức là tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất nhỏ hơn tài sản có
nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi lãi suất thị trường giảm.
Nếu GAP < 0 tức là tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản có
nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi lãi suất thị trường tăng.
Nếu GAP = 0 tức là tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất cân bằng với tài
sản có nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng sẽ không gặp rủi ro lãi suất.
1.3.3.3.Những hạn chế của mô hình định giá lại.
Thứ nhất: Như chúng ta đã biết, sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài
ảnh hưởng đến thu nhập từ lãi suất, còn ảnh hưởng tới giá trị thị trường của tài
sản có và tài sản nợ. Mô hình định giá lại chỉ đề cập đến giá trị ghi sổ của tài
sản chứ không phải là giá trị thị trường của chúng. Do đó mô hình định giá lại
chỉ phản ảnh được một phần rủi ro lãi suất đối với ngân hàng mà thôi.
Thứ hai: Vấn đề phân nhóm tài sản theo một khung kỳ hạn đến hạn đã
phản ánh sai lệch thông tin về cơ cấu các tài sản có và tài sản nợ trong cùng
một nhóm. Giả định trong một nhóm có cùng một kỳ hạn có thể là bằng nhau,
giả sử dưới 1 năm, số lượng tài sản có và tài sản nợ là bằng nhau, theo mô
hình định giá lại thì coi như không có vấn đề gì đối với thu nhập lãi ròng.
Nhưng nếu cơ cấu kỳ hạn tài sản có là từ 5 đến 6 tháng còn cơ cấu kỳ hạn tài
sản nợ là từ 8 đến 9 tháng, rõ ràng là kỳ hạn đến hạn giữa tài sản nợ và tài sản
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
14
Khóa luận tốt nghiệp
có là không cân xứng nhau.

Thứ ba: theo mô hình định giá lại, những khoản tín dụng dài hạn với
lãi suất cố định thì không nhạy cảm với lãi suất, nhưng thường những khoản
tín dụng dài hạn thường được trả góp định kỳ, do đó ngân hàng có thể tái đầu
tư những khoản thu được trong năm với lãi suất thị trường hiện hành, nghĩa là
các khoản thu này cũng là nhạy cảm với lãi suất.
1.4.Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất.
1.4.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng
Mục đích của biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng là hạn chế tới mức
tối đa mọi ảnh hưởng xấu của sự biến động lãi suất đến thu nhập của ngân
hàng. Dù lãi suất thay đổi như thế nào thì ngân hàng vẫn luôn mong muốn đạt
được mức thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định.
Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng cần phải tập trung vào những bộ
phận nhạy cảm nhất với lãi suất trong danh mục tài sản và nợ. Thông thường
đó là các tài sản sinh lời như các khoản cho vay và đầu tư hay các khoản tiền
gửi, khoản vay trên thị trường tiền tệ. Để bảo vệ thu nhập trước rủi ro lãi suất,
ngân hàng duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Tỷ lệ thu nhập lãi
cận biên được xác định như sau:
1.4.1.1.Quản trị khe hở nhạy cảm lãi suất.
Như chúng ta đã thấy ở mô hình định giá lại. Theo mô hình định giá lại,
chúng ta đã đo lường được mức độ rủi ro mà ngân hàng gặp phải khi ngân
hàng duy trì tài sản có nhạy cảm với lãi suất không cân xứng với tài sản nợ
nhạy cảm với lãi suất. Đây chính là khe hở nhạy cảm với lãi suất.
Vậy: Khe hở nhạy cảm lãi suất là khoảng chênh lệch giữa tài sản có
nhạy cảm với lãi suất và tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất.
Khi tài sản có nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản nợ nhạy cảm với lãi
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
15
Thu nhập từ lãi
NIM =
Tổng tài sản sinh lời

Khóa luận tốt nghiệp
suất tức là khe hở lãi suất dương hay khe hở nhạy cảm tài sản.
Khi tài sản có nhạy cảm với lãi suất nhỏ hơn tài sản nợ nhạy cảm với
lãi suất tức là khe hở lãi suất âm hay khe hở nhạy cảm nợ.
Chúng ta có thể thiết lập nên một khe hở nhạy cảm lãi suất tương đối:
Tỷ lệ nhạy cảm với lãi suất =
RSL
RSA
Bảng 1.5.Mối quan hệ 3 chỉ tiêu đo độ nhạy cảm lãi suất.
Một ngân hàng nhạy cảm tài sản có Một ngân hàng nhạy cảm tài sản nợ
Khe hở tuyết đối dương
Khe hở tương đối dương
Tỷ lệ nhạy cảm lãi suất lớn hơn 1
Khe hở tuyệt đối âm
Khe hở tuyệt đối âm
Tỷ lệ nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn 1
Vậy, chỉ khi tài sản nhạy cảm lãi suất cân bằng với nợ nhạy cảm lãi suất
thì ngân hàng được coi là không có rủi ro lãi suất. Khe hở nhạy cảm lãi suất
của ngân hàng bằng 0, tỷ lệ thu nhập cận biên được bảo vệ dù lãi suất thay đổi
thế nào. Hiện nay, có nhiều phương pháp mà các nhà quản trị đưa ra trong
việc áp dụng khe hở nhạy cảm với lãi suất trong việc quản trị rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng. Tuy nhiên, mọi phương pháp đều đòi hỏi các nhà quản lý
ngân hàng phải đưa ra một số quyết định trên các phương diện sau:
 Nhà quản trị phải lựa chọn “thời kỳ mục tiêu” cho việc quản lý chỉ tiêu
thu nhập cận biên (NIM) để làm cơ sở cho việc xác định những giá trị
kỳ vọng và độ dài của những giai đoạn thành phần, cấu thành “thời kỳ
mục tiêu”.
 Nhà quản trị cần phải chọn lựa giá trị tỷ lệ thu nhập lãi cận biên mục
tiêu, nghĩa là duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên hiện tại hoặc làm tăng
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7

16
GAP
GAP
tương đối
=
Quy mô của ngân hàng
Khóa luận tốt nghiệp
chỉ tiêu này.
 Nếu nhà quản lý mong muốn nâng cao NIM, họ phải dự báo chính xác
lãi suất và cách phân bổ lại danh mục tài sản sinh lời và nợ nhằm tăng
thu nhập từ lãi cho ngân hàng.
 Nhà quản trị phải xác định giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất và giá trị
nguồn vốn nhạy cảm lãi suất mà ngân hàng phải nắm giữ.
Tùy theo từng tình hình hoạt động của từng ngân hàng mà nhà quản trị cần
phải quyết định đối phó rủi ro này bằng những chiến lược phòng ngừa rủi ro
nào? Ta sẽ xem xét các chiến lược phòng rủi ro sau:
a. Chiến lược quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất tích lũy (cumulative gap).
Khe hở nhạy cảm lãi suất tích lũy là tổng mức chênh lệch giữa tài sản
có nhạy cảm với lãi suất trong một giai đoạn nhất định.
Khe hở tích lũy là một khái niệm hữu ích bởi vì với một mức thay đổi
lãi suất nhất định, ngân hàng có thể tính gần đúng mức ảnh hưởng đối với tỷ
lệ thu nhập cận biên do những thay đổi lãi suất gây ra.
Thay đổi trong thu nhập lãi= thay đổi trong lãi suất x quy mô khe hở tích lũy
Nói chung, các ngân hàng có khe hở nhạy cảm lãi suất tích lũy âm sẽ
có lợi khi lãi suất giảm nhưng sẽ phải chịu tổn thất khi lãi suất tăng. Ngược
lại, ngân hàng có khe hở nhạy cảm dương sẽ có lợi khi lãi suất tăng và bị tổn
thất khi lãi suất giảm.
b.Chiến lược quản lý khe hở năng động.
một số ngân hàng thường xuyên thay đổi khe hở nhạy cảm lãi suất, đặt
ngân hàng vào trạng thái nhạy cảm tài sản hoặc nhạy cảm nọ dựa trên khả

năng tin cậy đối với các dự báo về lãi suất của ngân hàng. Chiến lược này gọi
là chiến lược quản lý khe hở năng động. Chiến lược này dựa vào khả năng dự
báo lãi suất của ngân hàng. Nếu lãi suất ngân hàng dự báo là chính xác, ngân
hàng tiết kiệm được chi phí, nâng cao thu nhập cải thiện chỉ số thu nhập lãi
cận biên của ngân hàng. Tuy nhiên, chiến lược này cũng buộc ngân hàng đối
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
17
Khóa luận tốt nghiệp
mặt với rủi ro không nhỏ. Nếu lãi suất trên thị trường biến động không đúng
như ngân hàng dự báo thì có thể làm tăng tồn thất cho ngân hàng. Thực tế cho
thấy rằng khả năng dự đoán đúng về sự vận động của lãi suất là rất thấp.
Chính vì vậy mà trong thực tế các nhà quản trị ngân hàng đều dựa vào việc
phòng ngừa rủi ro chứ không dựa vào việc dự đoán lãi suất.
c.Chiến lược quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất mang tính bảo vệ.
Nhìn chung, đây là chiến lược mà rất nhiều ngân hàng áp dụng. Chiến
lược này giúp ngân hàng đề ra chiến lược quản lý khe hở mang tính bảo vệ
bằng cách thiết lập khe hở nhạy cảm lãi suất gần bằng 0, tới mức tối đa có thể
để giảm thiểu sự bất ổn định trong thu nhập của ngân hàng.
d. Chiến lược quản lý khe hở theo hệ số nhạy cảm lãi suất.
Đây là chiến lược quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất trong đó có tính
đến xu hướng thay đổi của lãi suất và sự vận động lên xuống của chu kỳ kinh
doanh. Thông thường, bên tài sản, hệ số nhạy cảm lãi suất của khoản mục đầu
tư chứng khoán cao hơn so với khoản mục cho vay chính phủ hoặc cho vay
các ngân hàng khác. Những khoản cho vay, cho thuê có lãi suất biến động
nhiều nhất với hệ số nhạy cảm lãi suất cao hơn cả hai khoản mục trên. Bên
nguồn vốn, lãi suất tiền gửi và một số khoản vay trên thị trường tiền tệ (như
vay NHTW) thường thay đổi chậm hơn lãi suất trên thị trường.
Với phương pháp này chúng ta chỉ việc nhân mỗi khoản mục trong
bảng cân đối kế toán với hệ số nhạy cảm thích hợp, đóng vai trò như một
trọng số. Như vậy sẽ cho chúng ta một trạng thái nhạy cảm lãi suất mơi.

Tóm lại: Quản trị khe hở nhạy cảm là một công cụ phổ biến nhất ngày
nay phục vụ hoạt động quản lý rủi ro lãi suất. Với các ngân hàng lớn, việc sử
dụng máy tính để xác định giá trị tài sản và nợ nhạy cảm với lãi suất nhanh
hơn và chính xác hơn. Từ đó giúp các nhà quản trị ngân hàng điều chỉnh lại
tài sản và nợ nhạy cảm với lãi suất nhằm tránh được rủi ro đối với ngân hàng.
Tuy nhiên, kỹ thuật quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất có nhiều hạn chế không
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
18
Khóa luận tốt nghiệp
nhỏ. Sự lựa chọn các khoảng thời gian để phân tích hoàn toàn phụ thuộc vào
mối ngân hàng. Đồng thời, lãi suất trong hoạt động ngân hàng và lãi suất thị
trường thay đổi với những tốc độ khác nhau. Cuối cùng, ta thấy rằng quản lý
khe hở nhạy cảm lãi suất không nhằm mục đính bảo vệ được giá trị ròng của
ngân hàng. Để làm được việc đó chúng ta phải sử dụng cac kỹ thuật khác như
quản trị khe hở kỳ hạn.
1.4.1.2. Quản trị khe hở kỳ hạn.
Khi ngân hàng đang duy trì một khe hở kỳ hạn dương, nếu ngân hàng
dự đoán lãi suất tăng lên, các nhà quản trị ngân hàng có thể đối phó với sự
tăng lên của lãi suất bằng cách rút ngắn thời lượng của tài sản có, hoặc tăng
thời lượng của tài sản nợ lên. Ngược lại, khi ngân hàng duy trì một khe hở kỳ
hạn âm, nếu ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ giảm xuống, các nhà quản trị ngân
hàng lúc này phải rút ngắn thời lượng của tài sản nợ hoặc tăng thời lượng của
tài sản có. Tất cả việc làm trên nhằm mục đích là đưa khe hở kỳ hạn lãi suất
gần về 0
Tùy theo từng nhà quản trị theo đuổi chiến lược nào mà có thể lựa chọn
những chiến lược quản lý khe hở kỳ hạn khác nhau.
a.Chiến lược bảo vệ danh mục tuyệt đối.
Đây là chiến lược mà các nhà quản trị ngân hàng duy trì khe hở kỳ hạn
bằng 0. Với chiến lược này ngân hàng bảo vệ giá trị ròng của mình trước sự
biến động của lãi suất một cách tuyệt đối. Bởi vì khi lãi suất thay đổi thì sự

thay đổi giá trị thị trường của tài sản và nguồn vốn bù đắp cho nhau, làm cho
giá trị ròng của ngân hàng không đổi.
b.Chiến lược bảo vệ danh mục tương đối.
Đây là chiến lược quản trị năng động hơn, nó cho phép các nhà quản trị
tận dụng cơ hội nâng cao thu nhập bằng cách duy trì khe hở kỳ hạn khác 0.
Chiến lược này dựa vào khả năng dự báo lãi suất của các ngân hàng. Chính vì
vậy mà khi vận dụng chiến lược này trong quản trị rủi ro lãi suất, ngân hàng
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
19
Khóa luận tốt nghiệp
phải đối mặt với những rủi ro ngầm luôn có thể xảy ra khi những dự báo của
các nhà quản trị là không chính xác.
Tóm lại: Quản trị khe hở kỳ hạn là công cụ giúp nhà quản lý ngân hàng
cân đối thời lượng của tài sản và nợ bằng cách điều chỉnh lại thời lượng của
từng loại tài sản và nợ trong danh mục bằng cách thực hiện các nghiệp vụ nội
bảng. Tuy nhiên việc tìm kiếm tài sản và nguồn có thời lượng phù hợp với yêu
cầu của ngân hàng là một vấn đề khó khăn.
Quản trị khe hở nhạy cảm lãi suất và quản trị khe hở kỳ hạn là những
công cụ giúp các nhà quản trị ngân hàng phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng
cách thực hiện những nghiệp vụ trong bảng cân đối nhằm cơ cấu lại bảng
cân dối tài sản của ngân hàng để cân đối lại mức độ nhạy cảm lãi suất và
thời lượng của tài sản và nợ.
1.4.2. Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng
Mục đích của các biện pháp phòng ngừa ngoại bảng là sử dụng các
công cụ phái sinh có xu hướng thu lời từ thay đổi lãi suất ngược với bảng cân
đối, nghĩa là sử dụng thu nhập của các công cụ phái sinh để bù đắp cho những
tổn thất trong bảng cân đối do thay đổi lãi suất gây ra. Trong thực tế các công
cụ phái sinh được sử dụng để bảo đảm một cách tổng hợp đối với toàn bộ tài
sản hoặc được sử dụng một cách có chọn lọc với hy vọng đạt được mức lợi
tức cao hơn. Để thấy rõ các công cụ phái sinh được sử dụng trong phòng ngừa

rủi ro lãi suất thế nào chúng ta sẽ đi nghiên cứu từng công cụ sau:
1.4.2.1.Hợp đồng kỳ hạn.
a. Một số khái niệm:
Hợp đồng giao ngay ( Spot contract): Hợp đồng giao ngay là sự thỏa
thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t = 0, khi người bán đồng ý
giao tài sản cho người mua và người mua đồng ý thanh toán cho người bán
trong vòng hai ngày kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Hợp đồng kỳ hạn (Forward contract): là sự thỏa thuận giữa người mua
và người bán tại thời điểm t = 0 rằng người mua sẽ thanh toán cho người bán
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
20
Khóa luận tốt nghiệp
theo giá kỳ hạn đã thỏa thuận tại thời điểm t = 0 và người bán sẽ trao hàng
cho người mua tại thời điểm xác định trong tương lai.
b. Hợp đồng kỳ hạn trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Giả sử nhà quản trị ngân hàng đang nắm giữ trên bảng cân đối tài sản 1
triệu USD các trái phiếu có kỳ hạn 10 năm. Tại thời điểm t = 0 thì thị giá trái
phiếu P = 97 USD. Giá sử ngân hàng nhận dự báo rằng lãi suất dự tính sẽ tăng
2% từ 12,5428% lên 14,5428% trong thời hạn 3 tháng tới. Như vậy nhà quản
trị có thể dự tính khoản lỗ hay sự sụt giảm giá trái phiếu (∆P) theo phương
trình thời lượng như sau:
P
P∆
= - D
)1( R
R
+

Thay số ta có ∆P = - 103427,32 USD.
Tức là giá trị trái phiếu giảm 10,66% (∆P/P) tại thời điểm 3 tháng sau.

Tại thời điểm này giá trái phiếu là 86,657USD. Lúc này, ngân hàng sẽ ký hợp
đồng kỳ hạn 3 tháng bán 1 triệu USD mệnh giá trái phiếu này tại thời điểm t =
0 với giá hợp đồng kỳ hạn là 970000USD. Tại thời điểm 3 tháng sau, giả sử
lãi suất thực sự giảm xuống 2 %, nhà quản trị ngân hàng có thể mua 1 triệu
USD mệnh giá trái phiếu có kỳ hạn 10 năm trên thị trường giao ngay với giá
là 866573 USD và giao số trái phiếu có kỳ hạn 10 năm trên thị trường giao
ngay với giá là 866573USD và giao số trái phiếu cho đối tác theo hợp đồng
kỳ hạn. Do đó lợi nhuận thu được từ hợp đồng giao dịch kỳ hạn là : 970000 –
866573 = 103427 USD. Do đó, sự thua lỗ trên bảng cân đối tài sản được bù
đắp đầu đủ bởi lợi nhuận thu được từ hợp đồng kỳ hạn (ngoại bảng). Như vậy
rủi ro của ngân hàng được bảo đảm.
c.Các nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn của ngân hàng.
Kỳ hạn tiền gửi (FFD): Nghiệp vụ kỳ hạn tiền gửi là sự thỏa thuận giữa
2 bên tại thời điểm t
0
. Theo đó bên cam kết nhận và bên bán cam kết gửi một
số tiền nhất định trong khoảng thời gian nhất định trong tương lai với một
mức lãi suất thỏa thuận.
Lê Thị Hồng Hạnh NHC-K7
21

×