Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

LŨ LỤT Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.09 KB, 15 trang )

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU CÁC HIỆN TƯỢNG LŨ ĐẶC BIỆT Ở VIỆT
NAM
I.PHẦN MỞ ĐẦU
Môi trường khí hậu của chúng ta đang ngày càng bị thay đổi, có rất nhiều
nguyên nhân làm cho môi trường sống của chúng ta bị thay đổi, có thể là do
tự nhiên như sự phun trào núi lửa, động đất, và cũng có thể là do nhân tạo
như do các hoạt đông của con người thải ra môi trường những chất độc hại
và khí thải. Môi trường toàn cầu của chúng ta đang lên tiếng kêu cứu. Những
hậu quả nặng nề của biến đổi khí hậu như hiệu ứng nhà kính, mưa acid,
thủng tầng ozone, hạn hán, lũ lụt, Trong những năm qua, chúng ta có thể
thấy được sự biến đổi khí hậu một cách rõ nét, những trận lũ kinh hoàng xảy
ra thường xuyên hơn với cường độ ngày càng lớn hơn. Ở Việt Nam chúng ta
hiện tượng lũ lụt là thiên tai lớn nhất đang đe dọa, nhất là ở miền núi phía
Bắc vì tổn thất nhân mạng, của cải có thể đến mức độ khủng khiếp. Trong đó
lũ quét - lũ bùn đá hầu như xảy ra ở tất cả 14 tỉnh miền núi phía Bắc. Lũ quét
thường diễn ra đột ngột, sức phá hủy lớn, lại thường tái diễn nhiều lần trên
cùng một khu vực, nên hậu quả là rất nặng nề. Chúng ta tìm hiểu về nguyên
nhân và cơ chế hình thành lũ, một số giải pháp phòng tránh lũ bùn đá , lũ
quét.
II.PHẦN NỘI DUNG
1.GIỚI THIỆU VỀ LŨ ỐNG VÀ LŨ QUÉT
Lũ ống, lũ quét, lũ lụt là hiện tượng thuỷ văn đặc biệt nguy hiểm, nhất là lũ
quét và lũ ống. Vào các tháng mùa mưa có các trận mưa lớn, cường độ mạnh,
nước mưa tích luỹ nhanh, nếu đất tại chỗ đã no nước thì nước mưa đổ cả vào
dòng chảy, dễ gây ra lũ. Lũ quét là sự chảy dồn nước nhanh vào một vùng
tương đối rộng (tới vài chục km2) thường quét theo các triền sông, suối với
cường độ mạnh xảy ra bất ngờ, duy trì trong một thời gian ngắn và có sức
tàn phá rất mạnh, quét sạch hoặc phá huỷ hầu như mọi vật trên bề mặt mà
dòng nước chảy qua. Lũ ống là sự chảy dồn nước bộc phát đột ngột từ cao
xuống thấp với tốc độ rất cao vào một thung lũng suối nhỏ hoặc một khe hẻm
có quy mô nhỏ hơn (từ vài trăm mét đến vài km) theo sườn rất dốc, tạo thành


một khối nước hình ống, thời gian xảy ra rất ngắn và sức tàn phá cũng rất
mạnh. Lũ quét là một dạng tai biến nguy hiểm xếp hàng thứ ba sau động đất,
trượt đất. Lũ quét rất thường xuyên xẩy ra nhiều vị trí ở Tây Bắc Bộ, gây
nhiều thiệt hại về người và tài sản của nhân dân.
2.NGUYÊN NHÂN GÂY RA LŨ ỐNG – LŨ QUÉT
Lũ quét xảy ra chịu ảnh hưởng của các dạng tổ hợp, các điều kiện tự nhiên
và các hình thức hoạt động của con người trên lưu vực. Đi vào bản chất, có
thể phân nhân tố theo 3 nhóm tùy theo tốc độ biến đổi của chúng. Các nhân tố
hình thành lũ quét: Ít biến đổi, biến đổi chậm và biến đổi nhanh. Hoạt động
của con người. Địa chất, địa mạo, địa trình ,chuyển động kiến tạo, phong hóa
thổ nhưỡng, biến đổi khí hậu, địa chất thủy văn, lớp phủ thực vật ,mưa
lớn,động đất ,xói mòn, trượt lỡ, lượng ẩm lưu vực dòng chảy mặt… Các nhân
tố hình thành lũ quét ở Việt Nam. Các hình thức hoạt động của con người
trên lưu vực có thể ảnh hưởng đến cả ba nhóm các nhân tố: biến đổi nhanh,
biến đổi chậm và ít biến đổi. Song biến đổi rõ nhất là các nhóm nhân tố biến
đổi nhanh. Đây là nhóm nhân tố chỉ thị thường được chọn làm các đặc trưng
để phân biệt lũ quét với lũ thường. Nhóm các nhân tố biến đổi chậm tham gia
vào quá trình hình thành lũ quét khi quá trình biến đổi vượt qua một
"ngưỡng" nào đó. "Ngưỡng" của từng nhân tố là một khoảng khá rộng vì lũ
quét hình thành do những tổ hợp khác nhau của các nhân tố.
3. SỰ HÌNH THÀNH LŨ ỐNG – LŨ QUÉT
Lũ quét có thể được hình thành trong các điều kiện như sau: Lớp đất trên
thấm nước, lớp đất dưới lại ít hoặc không thấm nước hoặc lớp đất trên là lớp
sa thạch và lớp dưới là phấn thạch, kết hợp với mưa lớn làm cho dòng chảy
mặt xói mòn mạnh hơn và tạo thành lũ đổ về hạ lưu. Dòng chảy này thường
chuyển động trượt trên sườn dốc đứng với lưu tốc đặc biệt lớn. Vì vậy, lũ có
sức tàn phá ghê gớm, gây thiệt hại lớn cho vùng hạ lưu. Tuy nhiên, lũ không
tự nhiên hình thành mà thường phải có các điều kiện mới hình thành nên lũ.
Đó là sự ảnh hưởng tổ hợp của các điều kiện tự nhiên và hoạt động của con
người trên lưu vực. Các yếu tố tự nhiên có thể là chuyển động kiến tạo của

đất, sự phong hóa thổ nhưỡng, sự biến đổi khí hậu, địa chất - thủy văn, lớp
phủ thực vật Các nhóm nhân tố này đều chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động
của con người trên lưu vực. Yếu tố rừng chỉ còn độ che phủ ít là minh chứng
rõ nét nhất về sự tác động của con người đến thiên nhiên. Trong điều kiện
này, dòng lũ hình thành và mạnh lên, tàn phá mọi vật cản trên đường chuyển
động, tạo ra dòng xói, bồi. Sự hình thành lũ quét trải qua các giai đoạn sau:
- Mưa lớn, cường độ lớn gây hình thành dòng lũ mặt lớn và đặc biệt tràn
ngập trên mặt lưu vực nhỏ vùng núi dốc có độ che phủ rừng ít, bị khai thác
mạnh mẽ, tiềm tàng nhiều điều kiện thuận lợi cho xói mòn, rửa trôi đất đá,
bùn cát, cây cối, song lòng dẫn lại tiêu thoát kém.
- Nước lũ gây xói mòn, rửa trôi, sạt, trượt, sụt lỡ mạnh mặt lưu vực, cuốn
theo các vật chất rắn, dòng lũ khi đó thay đổi căn bản về chất, trở thành dòng
chất lỏng - rắn (gồm nước - bùn đá - cây cối ) tập trung vào sông chính. Lũ
khi đó có tổng lượng lớn hơn hẳn tổng lượng dòng lũ nước sinh ra nó. Dòng
lũ bùn - nước - cây cối tập trung hầu như đồng thời, rất nhanh từ các sườn
dốc lưu vực (thường có độ dốc lớn, trên 20-30%) vào lòng dẫn, đổ vào các
vùng trũng, thung lũng sông ở dạng lũ quét rồi thoát một phần nước - bùn
cát - cây cối ra sông chính. Dòng lũ quét tàn phá mọi vật cản trên đường
chuyển động, tạo ra lòng dẫn mới, xói, bồi lòng dẫn cũ. Bồi lắng bùn cát, đất
đá, cây cối ở các vùng trũng, thấp dọc lòng dẫn (cũ và mới tạo thành trong
trận lũ quét) ở dạng các bãi lầy, bãi bùn cát, đá sỏi, cây cối phủ đầy vườn
tược và cả những khu dân cư, kinh tế vùng thấp. Nếu xét về mặt không gian,
mỗi giai đoạn nêu trên thường những miền hoạt động chính, hầu như mọi
quá trình xảy ra trên toàn bộ lưu vực.
- Khu vực sinh ra lũ là phần thượng nguồn lưu vực sông độ dốc lớn, thường
chiếm 2/3 diện tích lưu vực. Tại đây, các quá trình chính hình thành dòng
chảy mặt, xói mòn, rửa trôi mặt đất xảy ra mạnh nhất. Quá trình tập trung
dòng lũ cũng xảy ra đồng thời, song chưa xảy ra mạnh mẽ.
- Khu vực tập trung dòng lũ quét, nơi còn xảy ra mạnh mẽ quá trình xói sâu,
sạt trượt lỡ đất đá, cuốn trôi cây cối, tắc ứ tạm thời sau vỡ hàng loạt Khu

này bao trùm một phần thấp hơn (thường là phần chân dốc, chân các sườn
núi) của thượng lưu, các đoạn sông suối phần trung tâm lưu vực nơi độ dốc
lòng dẫn còn rất lớn, hợp lưu của nhiều sông suối trước khi dòng lũ đổ vào
thung lũng.
- Khu vực chịu lũ: là nơi thường xảy ra mạnh mẽ nhất là quá trình "quét",
trong đó hiện tượng xói sâu, lở, sạt trượt còn xảy ra ở cường độ cao trên
đoạn đầu của thung lũng, hiện tượng quét, bồi lấp xảy ra mạnh mẽ nhất ở
đoạn cuối của thung lũng trước khi lũ quét thoát được dòng chính.
4.NHỮNG ĐẶC TÍNH CƠ BẢN CỦA LŨ ỐNG – LŨ QUÉT
Tính bất ngờ khoảng thời gian từ khi xuất hiện sự gia tăng mực nước trong
sông đến khi đạt đỉnh lũ là rất ngắn. Do vậy thường khó khăn trong dự báo,
cảnh báo lũ quét một cách hiệu quả ở trình độ chuyên môn và kỹ thuật hiện
nay. Hiểu biết rõ về cơ chế hình thành, những đặc tính và đặc trưng của lũ
quét từ đó có thể có biện pháp dự báo, cảnh báo hiệu quả. Mặc dù vậy, lũ quét
vẫn là thiên tai bất ngờ ngay cả khi đã báo trước được 1-3 giờ. Cần có biện
pháp đặc biệt để giảm tính chất này của lũ quét. Tính ngắn hạn, ác liệt. Lũ
quét thường tồn tại trong thời gian ngắn, thường kết thúc sau 10-18 giờ, rất
ít khi quá 1 ngày, nước lũ lớn xói mòn, rửa trôi khối lượng rất lớn vật chất
rắn từ các sườn núi dốc rồi trở thành dòng bùn - nước - vật rắn tập trung
hầu như đồng thời và rất nhanh. Do đó, lũ quét thường có nhánh lên xuống
rất dốc, khác hẳn lũ thường, lại có đỉnh rất lớn, tổng lượng lớn, hơn hẳn đỉnh
lũ nước (có khi gấp 2-5 lần) trong điều kiện mưa tương đương do cơ chế
hình thành và vận động khác hẳn. Như thế, để giảm hoặc loại trừ tính ngắn
hạn của lũ quét, các biện pháp có lẽ phải hướng vào kéo dài thời gian lũ lên
(là chủ yếu) và lũ xuống mà trên căn bản là hướng vào tăng thời gian tập
trung dòng lũ ở lưu vực, từ đó cũng giảm hẳn tính ác liệt của lũ (giảm đỉnh
lũ, tần suất lũ lên, xuống, lưu tốc dòng sông) Tính hàm chứa lượng vật rắn
rất lớn. Dòng lũ quét khác hẳn dòng lũ nước thường bởi tỷ lệ vật chất rắn rất
lớn. Trong quá trình hình thành và vận động, tỷ lệ vật rắn trong dòng lũ quét
không ngừng tăng lên, tăng mạnh nhất ở khu vực hai - khi chuyển động từ

trên núi cao xuống thung lũng. Lượng chất rắn thường chiếm 3-10%, thậm
chí trên 10% trong dòng lũ để trở thành dạng lũ bùn đá. Một dòng chảy như
vậy, xét về bản chất hình thành và động lực của nó đã khác biệt về chất so với
lũ nước thông thường. Dòng lũ quét là pha trung gian giữa vật thể lỏng và
rắn. Để giảm và hạn chế tác động đặc tính này của dòng lũ quét, hoặc ngăn
ngừa nguy cơ lũ quét, cần phải có biện pháp nhằm vào giảm xói mòn, sạt,
trượt, tức là giảm lượng vật chất rắn trong lũ, có biện pháp cắt bớt lượng vật
rắn trong lũ quét, giảm quá trình chuyển động trượt Những chỉ tiêu cơ bản
xác định của lũ quét. Để thiết kế, thực thi bất kỳ loại biện pháp công trình
nào, ngay cả với biện pháp phi công trình thì các đặc trưng cơ bản của lũ
quét là những cơ sở quan trọng nhất, ngoài những hiểu biết về khu vực hình
thành, vận động, khu vực chịu lũ, đặc tính của lũ quét. Những đặc chỉ tiêu cơ
bản để xác định lũ quét là:
- Thời gian xuất hiện, thời gian lũ lên, xuống và cả trận, quá trình lũ quét.
- Đỉnh lũ và thời gian xuất hiện, biên độ lũ, lưu tốc trung bình và cực đại,
phân bố.
- Cường suất lũ lên, xuống trung bình và lớn nhất.
- Tổng lượng, thành phần vật chất trong lũ (lỏng, rắn), đặc trưng cơ lý của
dòng.
- Thời gian tập trung lũ, thời gian truyền lũ, khả năng chuyển tải của dòng lũ
quét.
- Thành phần chất rắn, thành phần hạt, phân bố hạt trong dòng lũ quét.
- Động lượng của dòng và tác động của dòng khi gặp vật cản. - Kích thước
hình học của dòng.
- Áp lực thủy động khi vỡ đập, và các chỗ tắc ứ tạm thời khi có lũ quét.
- Vận tốc quán tính khi lũ gia tăng và tắt dần tùy theo yêu cấu trúc lũ quét
5.ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Khu vực miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, là địa bàn kinh tế xã hội quan
trọng của cả nước, gồm Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên
Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng

Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang. Trong số các loại tai biến địa chất xảy ra ở khu
vực này, gây thiệt hại nặng nề nhất là hiện tượng trượt lở đất, lũ quét và xói
lở bờ sông. Về phát triển dân cư nông thôn: Vùng núi phía Bắc với dân cư
phân bố phân tán, chủ yếu là các bản làng dân tộc được tổ chức mang đặc
thù văn hoá riêng của từng dân tộc. Đối với khu vực đồi trung du, phân bố
dân cư tập trung hơn, hình thái dân cư phổ biến là dân cư canh tác vườn đồi
theo hình thức trang trại. Các hình thái dân cư chủ yếu trong vùng là bản
làng dân tộc, trung tâm cụm xã, dân cư canh tác vườn đồi. Các tác động thiên
tai chủ yếu trong vùng: Đối với vùng núi phía Bắc là mưa lớn gây lũ, lũ quét,
sạt lở
Miền núi phía Bắc cũng là vùng có mạng lưới thủy văn dày đặc, như sông Mã,
sông Đà, sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm , địa hình núi cao lại bị
phân cắt mạnh nên các dòng sông thường có độ dốc lớn, dòng chảy xiết, hay
gây lũ quét, lũ ống, đặc biệt vào mùa mưa. Tai biến này diễn ra ngày càng phổ
biến với quy mô ngày một lớn, làm mất đi hàng nghìn ha đất canh tác, phá
hủy nhiều nhà cửa, làng mạc dọc theo một số con sông lớn. Bên cạnh yếu tố
địa hình dốc, bị chia cắt mạnh, thì sự phá hoại thảm thực vật của con người
cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều tai biến này.
Điều tra cho thấy tai biến địa chất mạnh thường xảy ra ở những vùng có độ
che phủ thực vật thấp hơn 20% như Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Lạng Sơn.
Đây là những vùng đất trống, đất có cây bụi, hoặc đất trồng cây lương thực.
Vùng núi phía Bắc và Trung du Bắc Bộ (14 tỉnh thuộc Tây Bắc Bộ và Đông
Bắc Bộ là các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Phú Thọ). Với tổng diện tích 25018,3 km2, dân số nông thôn khoảng 23776
nghìn người, với các dân tộc chủ yếu Kinh, Mường, Thái, H’Mông, Tày, Nùng
Mật độ dân số trung bình dao động lớn (150người/km2 đối với khu vực miền
núi phía Bắc. Địa hình khá đa dạng: Vùng núi phía Bắc chủ yếu là đồi, núi cao,
địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, hay gây lũ quét, sạt lở đất.
Trong khi đó vùng Đồng bằng sông Hồng có địa hình tương đối bằng phẳng.

Tiềm năng phát triển kinh tế cũng rất khác nhau giữa các vùng trong khu
vực. Vùng núi phía Bắc chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Vùng Đồng bằng sông
Hồng phát triển mạnh nông nghiệp tổng hợp, công nghiệp và dịch vụ.
6.CƠ CHẾ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LŨ
a. Lũ quét và các dạng lũ quét:
 Lũ quét sườn thường gặp ở khu vực Quảng Ninh và các khu vực xung
quanh dải núi Hoàng Liên Sơn. Lũ quét sườn tương đối phổ biến ở các
khu vực đồi núi Bắc Trung Bộ. Đặc điểm động lực học của lũ quét sườn
là cường suất và tốc độ lũ rất lớn. Lũ đến bất thần ,tàn phá dạng cuốn
trôi nhanh và rút nhanh, dòng lũ chứa ít bùn đá. Lũ phát sinh chủ yếu
do mưa cường độ lớn.
Các sông suối phát sinh lũ quét sườn thường nằm trên các lưu vực có
khả năng tập trung nước nhanh. Cùng lượng mưa lớn như nhau trên
khu vực rộng thì lưu vực nào có khả năng tập chung nước nhiều và
nhanh thì tại cửa ra của lưu vực đó thường xảy ra lũ quét.
Lũ quét xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần ở các lưu vực thường có dạng
hình cánh cung, có mạng sông suối hình nan quạt hoặc cành cây và có
độ dốc lớn. diễn biến lũ quét sườn thường nhanh và đột xuất. Thời gian
xuất hiện lũ sau mưa khoảng 30-60 phút, vận tốc dòng lũ từ 5-7m/s.
 Lũ quét vỡ dòng tự nhiên: Lũ quét vỡ dòng phát sinh do vỡ các hồ tự
nhiên trong các thunh lũng song miền núi . Đặc trưng động lực học của
lũ là có dạng song với tốc độ đực biệt cao. Lũ quét vỡ dòng thường
chưa các hàm lượng bùn đá cao.Tác nhân đưa tới lũ quét vỡ dòng là
trượt lở, động đất, lở băng tuyết, hoạt động của núi lửa.
 Lũ quét vỡ dòng nhân tạo: Đặc trưng của lũ quét vỡ dòng nhân tạo
gần giống với lũ quét vỡ dòng tự nhiên. Điểm khác biệt ở trường hợp
vỡ dòng nhân tạo là do mưa lớn kết hợp với sự cố công trình hồ đập.
 Lũ quét nghẽn dòng tự nhiên: hình thành trong các trận mưa lớn kéo
dài ở các thung lũng bị thu hẹp do đặc thù về địa chất ,địa mạo của
thung lũng. Lũ quét nghẽn dòng tự nhiên đã xảy ra đối với các cụm

dân cư ở các trũng, các cánh đồng giữa núi ở hầu hết các tỉnh miền núi
phía bắc. Đặc trương cơ bản của lũ này là cường suất tương đối cao,
kéo dài (nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày ). Dạng tàn phá chủ yếu là
cuồn trôi và ngập .khu vực bị lũ cuốn trôi mạnh nhất thường tập trung
ở khu đầu vào và khu đầu ra của lũ.Tác nhân chủ yếu dẫn tới nghẽn
dòng tự nhiên là cấu trúc địa chất –địa hình đặc thù và mưa lớn trên
diện rộng.
Điều kiện để hình thành lũ quét nghẽn dòng là lượng nước dồn về qua
cửa thoát bị thu hẹp phải lớn hơn rất nhiều lần khả năng thoát tự
nhiên. Lũ quét nghẽn dòng tự nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần trên một
khu vực nếu phần thu hẹp không được mở rộng.
 Lũ quét nghẽn dòng đột biến: Loại hình lũ này xảy ra tại Sơn La năm
1991 và ở nơi khác miền núi phia bắc. Lũ có diễn biến tương đối giống
với lũ quét nghẽn dòng tự nhiên, xong khác biệt ở các tác nhân phát
sinh và phương thức tác hại. Tác nhân chủ yếu là trượt lở, sập hang.
Đất đá gỗ cây lấp cửa hang. Tác hại chủ yếu là cuốn trôi khi vật cản
được giải phóng.
Thường xảy ra tại các đoạn sông bị trượt lở nhiều và lớn như : sông
suối đổ vào sông Đà thuộc địa phận Lai Châu, Điện Biên.
 Lũ bùn đá:xảy ra nhiều ở vùng Tây Bắc. điển hình là lũ quét tháng 8
năm 1996 tại thị trấn Mường Lay. Tác nhân trực tiếp gây lũ bùn đá là
trượt lở, động đất ….phương thức tác hại đặc trưng là đập vỡ, cuốn
trôi , vùi lấp.
 Lũ quét hỗn hợp: Lũ quét hỗn hợp là sự kết hợp cùng một lúc hai hay
nhiều loại hình lũ quét khác nhau. Diễn biến và tác hại của lũ quét rất
phức tạp và lớn. Tác nhân gây lũ quét hỗn hợp rất đa dạng.
b. Lũ bùn đá: Lũ bùn đá xảy ra trên hệ thống sông suối nhưng
không đồng đều ở các lưu vực, tỉnh, huyện do địa hình của Tây
Nguyên bị phân cắt mạnh và là thượng nguồn của nhiều con
sông lớn. Lũ bùn đá xuất hiện nhiều nhất ở các khu vực miền núi

thuộc Kon Tum, tiếp theo là các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng
và ít nhất là Đắk Nông. Lũ quét-lũ bùn đá thường phát sinh trên
các dòng chảy cấp 1, 2 và 3, còn trên các dòng cấp 4, 5 và cao
hơn phổ biến là lũ lụt.Thời gian xảy ra lũ quét- lũ bùn đá từ
tháng V đến tháng X hàng năm chủ yếu do những cơn mưa lớn đi
kèm bão đổ bộ vào khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Theo
thống kê có > 70 % các trận lũ quét-lũ bùn đá xảy ra vào tháng
IX và tháng X, còn lại xuất hiện vào từ tháng 5 đến tháng 8.
Dòng chảy cấp 1 có chiều dài ngắn từ vài trăm mét đến vài km, độ dốc dòng
chảy tương đương với độ dốc sườn núi hoặc thoải hơn đạt từ 5-15 %, đặc
biệt có dòng cấp 1 đạt > 15 %, số lượng dòng chảy cấp 1 rất lớn;
Dòng chảy cấp 2 phân bố ở độ cao thấp hơn, thường là khe núi dạng chữ V,
chiều dài đạt từ gần 1 km đến 4 km, lớn nhất > 6 km, độ dốc dòng chảy từ 3-
5 %, có dòng chảy > 5 %;
Dòng cấp 3 là dòng chảy lớn có chiều dài từ 2-6 km, lớn nhất đạt trên 9 km,
độ dốc lòng suối từ 1-3% rất ít dòng > 3 %.
c. Lũ ống: Lũ ống là loại lũ thường xảy ra trên các lưu vực nhỏ,
miền núi, nơi có địa hình khép kín bởi các dãy núicao bao quanh
và chỉ thông với bên ngoài bằng các hang, khe hoặc suối nhỏ, hẹp
có bờ dựng đứng (dạng ống). Khi có mưa lớn nước tập trung
nhanh về thung lũng, làm nước dâng cao gây ngập lụt vùng
thung lũng và lũ lớn tại các cửa hang, khe,suối nhỏ hẹp và
chuyển động nhanh chóng về hạ lưu. Lũ ống cũng có thể xảy ra ở
nhưng khu vực núi đá vôi, thường có các hang động, hồ chứa
ngầm được thông với bên ngoài bằng những cửa hang, khe núi
nhỏ hẹp. Khi có mưa lớn, nước tập trung nhanh về phía các hồ,
động ngầm làm nước dâng cao, có áp lực lớn gây ra lũ ống tại
các cửa ra. Lũ ống gây ngập lụt vùng thung lũng, đặc biệt có sức
tàn phá rất lớn khu vực phía dưới cửa ra, quét mọi thứ gặp phải
trên đường đi.

d. Lũ tiểu mãn: Lũ tiểu mãn là loại lũ do mưa rào vào thời kỳ tiết
tiểu mãn (cuối tháng 5) hàng năm gây ra. Do lũ tiểu mãn thường
không lớn, lại hay xảy ra vào thời kỳ nắng nóng, mưa ít, các sông
suối, hồ chứa nước xuống thấp nên lũ tiểu mãn là nguồn cung
cấp nước rất quan trọng cho sông suối, hồ…tuy nhiên lũ tiểu mãn
lớn gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Song mùa lũ hàng
năm cúng biến động cùng với mùa mưa, thậm chí sớm muộn 1-2
tháng so với trung bình nhiều năm.
e. Gió chướng: Việt Namvà các nước Đông Nam Á nói chung nằm
trong vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo. Mỗi năm có hai mùa
rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô thông thường bắtđầu từ
tháng 12 năm trước cho đến đầu tháng 4 năm sau, mùa mưa từ
giữa tháng 5 đến tháng 11. Thời gian của hai mùa gần trùng với
thời gian ảnh hưởng của hai mùa gió mùa là gió mùa Tây Nam
và gió mùa Đông Bắc. Đối với các tỉnh Nam Bộ, nhất là đối với
vùng gần ven biển có những ao hồ nuôi trồng thủy hải sản, cũng
như những vùng chuyên canh sản xuất nông sản thì gió mùa
Đông Bắc thường gây ra nhiều bất lợi cho việc sản xuất. Đối với
vùng biển và ngoài khơi có gió to, sóng lớn, ảnh hưởng đến các
hoạt động trên biển. Mặt khác, trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc
phát triển mạnh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thì trên
thượng lưu sông Mê Kông ở vào thời kỳ kiệt nhất, nguồn nước
ngọt chảy về hạ lưu rất ít, cùng với hướng gió thổi thẳng góc với
mặt cắt ngang của các cửa sông nên sự xâm nhập mặn có khả
năng vào sâu hơn trong các sông. Cũng chính vì những lẽ đó mà
nhân dân Nam Bộ gọi gió mùa Đông Bắc là gió chướng. Như vậy,
“Gió chướng” là tên gọi địa phương của bà con nông dân ở Nam
Bộ đối với gió mùa Đông Bắc và gió tín phong. Sự xâm nhập mặn
là một trong những yếu tố gây trở ngại lớn đến sản xuất nông
nghiệp, thủy sản và ngay cả sinh hoạt của nhân dân. Khi có gió

chướng mạnh có thể làm cho độ mặn tăng đột biến làm thiệt hại
không ít cho sản xuất.
7. Các biện pháp phòng tránh lũ quét được phân ra làm hai loại: biện
pháp công trình và biện pháp phi công trình:
 Các biện pháp công trình:
- Trồng và bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn: Để đề phòng lũ lụt nói chung và
lũ quét nói riêng cần phải tích cực khôi phục rừng phòng hộ đầu nguồn, đặc
biệt là các khu vực thường gây ra lũ quét, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái,
bảo vệ lớp phủ thực vật, tăng khả năng giữ nước của lưu vực, hạn chế khả
năng tập trung dòng chảy lũ.
- Xây dựng hồ chứa điều tiết lũ ở khu vực thường xảy ra lũ quét: Ở các khu
vực thường xảy ra lũ quét cần được nghiên cứu kết hợp với việc quy hoạch
khai thác trị thuỷ, xây dựng các hồ chứa nước nhiều tác dụng như: chống lũ,
tích nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát điện, kết hợp với việc điều hoà
lũ, phòng chống lũ quét.
- Khai thông các đường thoát lũ: Tổ chức khai thông các đường tập trung lũ
ở phía thượng lưu, các khu vực cần bảo vệ nhằm mục đích không để sinh ra
hiện tượng tắc nghẽn dòng chảy, tích tụ nước tạo ra lũ quét nghẽn dòng.
- Xây dựng đê, tường chắn lũ quét: Ở các khu vực có điều kiện xây dựng công
trình ngăn lũ quét có thể nghiên cứu xây dựng các tuyến đê hoặc tường chắn
lũ quét để giữ dòng lũ chảy trong lòng dẫn, ngăn chặn các tác động của lũ
quét đối với khu vực cần bảo vệ.
- Phân dòng lũ: Dựa vào địa hình có thể nghiên cứu phân dòng lũ nhằm làm
giảm tác động của lũ quét vào khu vực cần bảo vệ.
- Xây dựng bổ sung các tràn sự cố ở các hồ chứa nước: Để đề phòng sự cố ở
các hồ chứa nước gây ra lũ quét nhân tạo, cần phải gấp rút xây dựng bổ sung
các tràn sự cố và xây dựng các phương án phòng chống lụt bão để có thể
khắc phục được ngay những sự cố do lũ, bão gây ra.
- Mở rộng khẩu độ thoát lũ của hệ thống cầu cống của đường giao thông:Do
đặc điểm các sông của miền Trung ngắn và dốc, để tránh tình trạng làm cản

dòng lũ gây ra ngập lụt, lũ quét và ách tắc giao thông cần phải tính toán quy
hoạch tiêu lũ của các hệ thống cầu cống trên các hệ thống đường sắt và đường
bộ.
 Các biện pháp phi công trình:
Các biện pháp phi công trình được kết hợp một cách hài hoà với biện pháp
công trình, hỗ trợ biện pháp công trình phát huy hiệu quả cao trong việc đối
phó với lũ quét. Các biện pháp phi công trình bao gồm:
- Lập bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét: Từ kết quả nghiên cứu về nguyên
nhân, cơ chế hình thành, vận động của lũ quét và khảo sát thực tế, cho phép
lập được bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét (nguy cơ cao; nguy cơ trung bình
và vùng ít có khả năng xảy ra lũ quét). Bản đồ này là một trong những căn cứ
quan trọng để đề ra các biện pháp phòng tránh lũ quét.
- Quản lý sử dụng đất: Quy hoạch sử dụng đất hạn chế phát triển trong vùng
nguy cơ lũ quét cao. Đối với các khu dân cư đã phát triển thiếu quy hoạch
trước đây, cần có quy hoạch lại và tái định cư đưa đân ra khỏi vùng có nguy
cơ lũ quét, sạt lở đất cao.
- Điều chỉnh điều kiện mặt đệm lưu vực và các khu trữ lũ: Thực hiện biện
pháp "nông, lâm kết hợp" để chống xói mòn, cải tạo đất, tăng năng suất cây
trồng, phát huy hiệu quả sử dụng đất.
- Sơ tán khỏi vùng lũ quét: Để giảm thiểu thiệt hại do lũ quét gây ra, đối với các
vùng có nguy cơ lũ quét cao, cần có các phương án cụ thể để phòng tránh, cụ thể
cần:
+ Xây bản đồ nguy cơ ngập lụt khu chịu lũ, các phương án sơ tán, các tuyến
đường sơ tán và vị trí tập kết.
+ Chọn các khu vực, vị trí cao không bị ảnh hưởng của lũ quét, xây dựng một
số nhà kiên cố để tập kết các tài sản, lương thực và con người khi có lũ quét.
+ Có phương án sơ tán người lên các vùng cao và những địa điểm an toàn,
nhất là đối với người già, trẻ em.
+ Mỗi người dân cần nắm chắc và sử dụng thành thạo bản đồ nguy cơ ngập
lụt, làm chủ các phương án sơ tán và chủ động trong phòng tránh.

+ Thành lập các đơn vị xung kích cứu nạn để sẵn sàng làm nhiệm vụ giúp dân sơ
tán, tìm kiếm, cứu trợ, cấp cứu người và bảo vệ tài sản của dân trong thời gian
có lũ quét.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×