Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

chủ thể của Luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.55 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan
trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều
chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp
từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần
thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.
Chức năng chính của Luật quốc tế từ khi mới xuất hiện đến nay là điều chỉnh
các mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau, bởi vậy chủ thể chính của luật quốc tế
trong lịch sử phát triển của nó là các quốc gia. Nhưng từ những năm 20 của thế kỷ
XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai trong khuôn khổ của luật quốc tế xuất
hiện một ngành mới là luật về quyền con người. Quyền con người không còn là đối
tượng điều chỉnh của hệ thống luật của từng quốc gia nữa đã làm nảy sinh ra vấn
đề: cá nhân con người có phải là chủ thể của luật quốc tế hay không? Có quan điểm
cho rằng: “Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật
quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật
quốc tế”.
Nhận thấy đây là một đề tài hay, em xin đi sâu phân tích, bình luận để làm rõ
quan điểm nói trên. Vì còn hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm
nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự
thông cảm và góp ý chân thành từ các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
1. Khái niệm chủ thể của Luật quốc tế
Chủ thể chiếm vị trí trung tâm trong luật quốc tế với nhiệm vụ chính là phục
vụ các quyền lợi của chủ thể, điều tiết các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Bản
tính của luật quốc tế gắn liền với tính chất của chủ thể và mối quan hệ đó. Chủ thể
luật quốc tế không những là chủ các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ quốc tế, mà
còn là những chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình thiết lập và thi hành các qui
tắc của luật quốc tế. Như vậy chủ thể của luật quốc tế là những thực thể độc lập
tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ


và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ
thể thực hiện. Quốc gia chính là chủ thể chủ yếu của luật quốc tế, các tổ chức quốc
tế liên quốc gia cũng được thừa nhận là chủ thể phái sinh của luật quốc tế. Đây là
những thực thể được hình thành bởi sự liên kết của các quốc gia độc lập, có chủ
quyền, vì mục đích hợp tác quốc tế đa dạng, đa lĩnh vực và hướng đến lợi ích phát
triển của từng quốc gia cũng như của cộng đồng quốc tế.
Khi nói đến chủ thể của luật quốc tế, chúng cần phải tham gia vào quá trình
thiết lập các quy tắc của luật quốc tế. Và tất nhiên, trong trường hợp đó, cá nhân
không phải là chủ thể của luật quốc tế. Nhưng cũng có thể định nghĩa một cách
khác rằng chủ thể của luật quốc tế là bất kỳ một thực thể nào có quyền và nghĩa vụ
pháp lý từ các điều luật của công pháp quốc tế.
Như vậy, trong luật quốc tế có ít nhất hai dạng chủ thể. Dạng thứ nhất là các
tổ chức không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà còn trực tiếp tạo ra
các điều luật quốc tế, thực hiện các biện pháp để đảm bảo cho việc áp dụng các điều
luật đó trên thực tế. Đó là các quốc gia có chủ quyền- chủ thể chính của luật quốc
tế. Dạng thứ hai là các tổ chức mà các hoạt động của chúng được điều tiết bởi luật
quốc tế nhưng không có những đặc điểm của dạng thứ nhất. Vậy cá nhân có thuộc
dạng chủ thể này không? Hiện nay có rất nhiều quan điểm trái chiều nhau cho rằng
cá nhân là chủ thể của luật quốc tế; cũng có quan điểm cho rằng cá nhân có thể
tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà
thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế có những đặc điểm sau: năng lực pháp luật, năng lực
hành vi và năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp luật là khả năng của chủ
thể luật quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Năng lực hành vi
thể hiện qua sự thực hiện có ý thức các quyền và nghĩa vụ của chủ thể luật quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế có năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm
2
pháp luật quốc tế của mình. Những tính chất trên được gọi là tính chủ thể pháp lý.
Chủ thể của luật quốc tế có tính chủ thể pháp lý chung, tính chủ thể pháp lý ngành
và tính chủ thể đặc biệt.

Tính chủ thể pháp lý chung là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ
thể của luật quốc tế theo ipso facto. Chỉ có các quốc gia có chủ quyền mới có tính
chủ thể chung.
Tính chủ thể ngành là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ thể của
luật quốc tế ở một lĩnh vực nhất định trong quan hệ quốc tế. Ví dụ Tổ chức hàng hải
quốc tế có quyền tham gia vào các vấn đề vận chuyển đường biển quốc tế; hoặc
UNESCO tham gia vào việc điều tiết những vấn đề liên quan đến giáo dục, khoa
học và văn hoá thế giới.
Tính chủ thể đặc biệt là khả năng của chủ thể tham gia hoạt động pháp lý
trong khuôn khổ nhất định ở một lĩnh vực riêng biệt của luật quốc tế. Đó chính là cá
nhân con người. Tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân được công nhận trong
nhiều văn bản, tư liệu của luật quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948
(Điều 6), Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966 (Điều 2), Công
ước quốc tế về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ
1990 (Điều 8).
2. Những quan điểm khác nhau về tính chủ thể của cá nhân trong Công
pháp quốc tế
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài,
đã phủ nhận cá nhân con người là chủ thể của luật quốc tế và chỉ quan tâm đến
những vấn đề có liên quan đến quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại
chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, công pháp quốc tế hiện đại gắn chặt với
vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định một trong những mục
đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhiều điều ước, quốc
tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng cá nhân có là chủ thể của công
pháp quốc tế hay không hiện là một vấn đề đang được tranh cãi. Có quan điểm cho
rằng trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế
nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế.
Em đồng ý với quan điểm này. Sau đây là những điểm cơ bản em tìm hiểu được
dùng để chứng minh cho quan điểm trên:
 Một là, về đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế:

3
Hiện nay, Luật Quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các
quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu
và quan trọng nhất vẫn là chính trị. Xu hướng tất yếu hiện nay đó là tăng cường sự
hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính trị.
Trong khi đó, các quan hệ mà cá nhân tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự
(theo nghĩa rộng) - phi chính trị.
Vì thế có thể nói rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia với các quan hệ
mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.
 Hai là, về các đặc điểm cơ bản để xác định một thực thể là chủ thể của Luật
quốc tế:
Chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào những quan
hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác
các trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. Qua
đó, ta có thể rút ra được các dấu hiệu cơ bản của chủ thể Luật Quốc tế và theo quan
điểm của em thì cá nhân không đáp ứng được các dấu hiệu cơ bản sau đây để trở
thảnh chủ thể của Luật Quốc tế:
Thứ nhất, thực thể đang và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Một số tác giả đã viện dẫn các Điều ước Quốc tế về quyền con người (ví dụ
như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948), về vị thế pháp lý của một số nhóm cá
nhân trong Luật Quốc tế (Công ước Quốc tế về quyền của người tị nạn 1951), hay
quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các Tòa án Quốc tế (Điều 190 Công ước
Quốc tế về Luật Biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia
Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án Quốc tế về biển), khả năng gánh vác
trách nhiệm pháp lý quốc tế (ví dụ như Điều lệ Tòa án binh quốc tế 1945, Công ước
Quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948...). Thực tế cho thấy
rằng cá nhân chỉ có khả năng tham gia “rất hạn hữu” vào một số các quan hệ quốc
tế xác định hoặc tham gia các quan hệ này một cách gián tiếp thông qua Nhà nước.
Điều này xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, vị thế của công dân của

quốc gia.
Thứ hai, chủ thể Luật Quốc tế có ý chí độc lập, không phụ thuộc vào các chủ
thể khác.
Hiện nay, khi tham gia vào tất cả các quan hệ của đời sống xã hội thì cá nhân
vẫn chịu một sự chi phối rất lớn từ ý chí, từ quyền lực chính trị của chủ thể đặc biệt
đó là Nhà nước. Một mặt, cá nhân không được làm trái, đi ngược lại các quy định
4
của pháp luật quốc gia. Đồng thời chủ thể này không thể tự mình tham gia vào một
số các quan hệ quốc tế mà phải thông qua nhà nước.
Thứ ba, được hưởng quyền và các nghĩa vụ pháp lý quốc tế và gánh vác trách
nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi của mình gây ra.
Một số nhà luật học đã dựa vào những căn cứ như trên đã đề cập, họ chứng
minh rằng cá nhân vẫn được hưởng quyền và các nghĩa vụ cũng như gánh vác trách
nhiệm pháp lý quốc tế như các chủ thể khác của luật quốc tế. Họ cho rằng cá nhân
chỉ có thể là chủ thể của các quan hệ pháp lý quốc tế. “Cá nhân do chịu sự cai trị
của quốc gia không thể thay mặt mình hoạt động trên trường quốc tế như một chủ
thể của luật quốc tế – B.M Shurshaloff V.M viết- Tất cả các Công ước quốc tế về
quyền và bảo vệ quyền con người được ký kết giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy
những quyền và nghĩa vụ cụ thể được phát sinh ra từ những Công ước này là dành
cho nhà nước chứ không cho từng cá nhân. Cá nhân được quốc gia bảo trợ, và
những qui tắc của luật quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được thực hiện
chủ yếu qua hoạt động của quốc gia”
Thứ tư, không một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế,
trên nó không tồn tại quyền lực chính trị nào chi phối hoạt động của nó và khi tham
gia vào các quan hệ quốc tế thì các chủ thể có vị trí độc lập, bình đẳng với nhau.
Trong mối tương quan về địa vị pháp lý trong Luật quốc gia thì nhà nước
luôn có quyền tài phán đối với công dân nước mình, phần lớn các quan hệ phát sinh
giữa cá nhân với nhà nước đều được điều chỉnh bởi phương pháp quyền uy, mệnh
lệnh phục tùng. Mặt khác, chúng vẫn có thể bị tài phán bởi các cơ quan quốc tế
khác (ví dụ như Tòa án binh Quốc tế) theo Luật Quốc tế. Vì vậy, khi tham gia vào

các hoạt động, cá nhân luôn bị chi phối ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị và khi
tham gia vào quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế thì chúng khó có thể có
được vị trí độc lập và bình đẳng.
Ngoài quan điểm nói trên, trên thế giới còn xuất hiện các quan điểm của các
nhà luật học khác cho rằng cá nhân chính là chủ thể của Luật quốc tế. Các nhà luật
học ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. Điển hình như bài viết “Cá nhân- chủ thể của
Luật quốc tế” tác giả Nguyễn Đức Lam cho rằng chúng ta có thể tạm thời cho rằng
cá nhân là một trong những chủ thể của Luật Quốc tế. Cá nhân không những có
quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có
quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường
hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó…
Tính chủ thể pháp lý của cá nhân được thể hiện ở chỗ cá nhân cũng gánh vác
trách nhiệm và nghĩa vụ cũng như hưởng các quyền lợi mà Luật Quốc tế quy định,
5

×