Đặt vấn đề
I. Lời nói đầu:
Phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của mọi xã hội.Nhân
cách cúa con ngời đợc hình thành trong quá trình giáo dục.Vì vậy việc giáo dục
trẻ ngay từ những ngày đầu tới trờng là một việc làm hết sức cần thiết. Nó là nền
tảng vững chắc ngay từ bớc đầu để trẻ hoàn thiện và phát triển nhân cách một
con ngời. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền đợc chăm sóc và bảo vệ, đợc giaó dục
và học hành. Nghị quyết trung ơng II của Đảng đã sáng suốt đa nền giáo dục lên
quốc sách hàng đầu.Chính vì vậyĐảng và nhân dân ta không ngừng quan tâm và
từng bớc đổi mới quá trình dạy học một cách rõ rệt, để tạo tiền đề đa đất nớc ta
tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
Thời đại hiện nay, việc biết giải toán có lời văn đối với các em, đặc biệt
với học sinh lớp 3 là rất quan trọng. Bớc đầu các em biết vận dụng các kiến thức
kỹ năng giải toán có lời văn (có không quá hai bớc) trong đó có một số dạng bài
toán nh tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần,
so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, bài toán có nội dung hình học
Trong dạy học toán, giải toán có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh tiểu học, giúp học sinh củng cố kiến
thức , kỹ năng về toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những u điểm
thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những u
điểm, khắc phục thiếu sót, có thể coi việc dạy học giải toán là Hòn đá thử vàng
của dạy học toán. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học sinh hình thành và
phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự
hợp lí làm cơ sở cho quá trình dạy học toán ở các lớp cao hơn ngày nay.
Dạy giải toán là giúp học sinh luyện đợc những đức tính và phong cách làm
việc của ngời lao động nh ý thức vợt khó, thói quen xét đoán, tính cẩn thận, chu
đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng
bớc hình thành và rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập,
khắc phục đợc phép tính rập khuôn , xây dựng đợc tính ham thích tìm tòi, sáng
tạo, phát triển t duy giải toán còn là hoạt động gồm những thao tác nh xác lập
đợc mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện
của bài toán. Chọn đợc phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
II. Thực trạng của hai vấn đề nghiên cứu.
1.Thực trạng.
Trên cơ sở lý luận là nh vậy, song qua thực tế giảng dạy ở trờng tiểu học tôi
nhận thấy tình hình thực tế học sinh của lớp 3. Bố mẹ các em đều là công nhân
viên nông trờng, có đời sống vất vả, khó khăn, sự quan tâm, động viên kịp thời
đến việc học tập của con em ở gia đình không thờng xuyên, kịp thời. Bên cạnh
những khó khăn và đặc điểm của địa bàn trờng tôi đóng, tôi còn nhận thấy giải
toán ở học sinh còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chính là do nhầm lẫn các bài
toán giống nhau, rập khuôn theo mẫu hoặc theo mẫu học theo công thức tính mà
không hiểu, không giải thích đợc cách làm, khả năng t duy nhanh để hiểu và tính
toán còn kém. Đặc biệt không nhận thấy đợc mối liên quan giữa các số liệu, dữ
kiện cụ thể của bài toán dẫn đến hiểu sai nội dung bài toán lựa chọn phép tính
không đúng.
Do tính cấp thiết của vấn đề cùng với thực tiễn của đơn vị công tác, tôi
nhận thấy việc Giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3 là vấn đề hết sức cần
thiết. Đây là một nội dung rất khó với học sinh giai đoạn đầu cấp. Vì vậy tự rút
ra từ những năm công tác của bản thân, nhằm giúp cho việc dạy học giải toán
cho học sinh lớp 3 đạt kết quả cao.
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng.
Qua tìm hiểu thực trạng học sinh lớp 3 Trờng tiểu học Thống Nhất. Khi
dạy giải toán cho các em tôi thấy khả năng phép tính đề bài của các em còn kém,
trong trình bày bài giải các câu lời giải cha đúng, cha phù hợp với câu hỏi của
bài, với phép tính. Học sinh còn lúng túng làm sai khi gặp những bài toán có cấu
trúc giống nhau về nội dung những câu hỏi khác nhau.
Sau khi tôi tiến hành khảo sát để phân loại đối tợng học sinh nhằm biết
từng em để tiện theo dõi và giúp đỡ.
Tổng số học sinh tham gia kiểm tra em.
Khả năng
Xếp loại
Khả năng
phân tích đề
Khả năng thiết
lập các dữ kiện
để xây dựng quy
trình
Khả năng nêu
lời giải đúng
Khả năng
trình bày bài
toán
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Từ thực trạng trên để công việc dạy học đạt kết quả tốt hơn, tôi mạnh dạn
đổi mới phơng pháp, đa ra một số giải đáp trong công tác giảng dạy để phù hợp
với đối tợng học sinh.
B. Giải pháp vấn đề.
I. Các giải pháp thực hiện:
Với những trăn trở trên, tôi đã học hỏi đồng nghiệp, tìm một số giải pháp tối u
nhất góp phần nâng cao hiệu quả dạy giải toán có lời văn lớp 3. Đợc sự hớng dẫn
tận tình của Ban giám hiệu nhà trờng, tôi đã tiến hành giảng dạy và hớng dẫn học
sinh giải toán thông qua các trình tự sau:
- Đọc và nghiên cứu kĩ đề bài
- Phân tích và nhận dạng bài toán
- Tìm phơng pháp giải
- Tóm tắt đề bằng phơng pháp thích hợp.
- Thiết lập trình tự và thực hiện bớc tính.
II. Các biện pháp để tổ chức dạy thực hiện:
1. Một số biện pháp hớng dẫn học sinh giải bài toán liên quan đến rút về
đơn vị dạng a: b x c
Dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị đã cho biết giá trị của hai đại l-
ợng và phải tìm một giá trị của một đại lợng trong hai đại lợng đó. Vì vậy việc so
sánh và củng cố kiến thức cũ cho học sinh là việc làm mà giáo viên cần chú ý để
học sinh nắm đợc hai bớc giải toán.
Ví dụ: Bài 2(trang 128, tiết 122 SGK toán 3)
*Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 năm bao đó có bao nhiêu ki lô
gam gạo. Đây là bài toán tơng đối khó do tính lắt léo của bài toán và cũng do
học sinh mới đợc làm quen với dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Để giúp học sinh giải đợc bài toán này giáo viên cần gợi ý cho học sinh
xuất phát từ bài toán đơn giản bằng hai phép tính.
Gọi học sinh tóm tắt và giải bài toán theo cachs đã đợc hớng dẫn:
Tóm tắt:
7 bao: 28kg
5 bao: kg?
- Lập kế hoạch giải bài toán
* Tìm số kg gạo trong mỗi bao( 7 bao có 28 kg)
(1 bao có kg?)
+ Tìm số kg gạo trong 5 bao?
- Thực hiện lập kế hoạch giải bài toán.
+ Biết 7 bao đựng 28 kg gạo, muốn tìm mỗi bao đựng bao nhiêu kg gạo
phải làm phép tính gì: (phép chia)
28 : 7 = 4(kg)
+ Biết mỗi bao đựng 4 kg gạo , muốn tìm 5 bao đựng đợc bao nhiêu ki lô
gam gạo ta làm phép tính gì? (phép nhân)
4 x 5 = 20(kg)
- Trình bày bài giải:
Bài toán giải theo hai bớc:
Số ki lô gam gạo đựng trong mỗi bao là:
28 : 7 = 4(kg)
Số gạo đựng trong 5 bao là:
4 x 5 = 20(kg)
Đáp số: 20 kg gạo.
Sau khi gợi ý và hớng dẫn cho học sinh cách giải giáo viên cần đặt câu hỏi
khắc sâu kiến thức nhận biết bài toán đơn và toán hợp, mối liên quan giữa các
giữ kiện trong bài toán và so sánh cách giải với nhau để các em nắm chắc dạng
bài và phơng pháp giải, giúp học sinh tự đặt vấn đề toán tơng tự và giải.
Ví dụ: Bài 2(trang 129 tiết 132 SGK toán 3)
Có 2135 quyển vở đợc xếp vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có bao nhiêu quyển
vở
Vẫn là bài toán trên giáo viên có thể hớng dẫn học sinh chuyển đề toán trả
lời hai câu hỏi nh sau:
Có 2135 quyển vở đợc xếp vào 7 thùng. Hỏi:
- 1 thùng có bao nhiêu quyển vở?
- 5 thùng có bao nhiêu quyển vở?
Từ đó khắc sâu cho học sinh phơng pháp giải : Khi giải dạng toán này thờng
tiến hành 2 bớc.
Bớc 1: Tìm giá trị một phần (thực hiện phép chia)
Bớc 2: Tìm giá trị nhiều phần (thực hiện phép nhân)
Đây là dạng toán không chỉ hớng dẫn cho học sinh ở phần bài mới mà cần
phải thờng xuyên củng cố cho học sinh ở các tiết luyện tập để hình thành kĩ
năng, kĩ xảo tính toán cho học sinh.
Ví dụ: Bài 3(trang 129 tiết 123 SGK toán 3)
Tóm tắt: 4 xe: 8520 viên gạch.
3 xe: viên gạch?
Khi học sinh đã làm quen và biết cách giải bài toán liên quan đến rút về
đơn vị qua hai bớc tính, giáo viên có thể hớng dẫn học sinh lập đề toán và giải
gộp hai bớc tính thành một dãy tính và trả lời câu hỏi nh sau:
Có 8520 viên gạch đợc xếp đều vào 4 xe cải tiến. Hỏi 3 xe đó xếp đợc bao
nhiêu viên gạch?
Bài giải
Số viên gạch trong 3 xe là:
8520 : 4 x 3 = 6390 (viên)
Đáp số: 6390 viên gạch
Để khắc sâu loại bài này giáo viên đa bài toán về dạng tổng quát:
Gọi số viên gạch xếp vào 4 xe là: a
Gọi 4 xe chở gạch là : b
Và 3 xe chở gạch là : c
Bài toán có dạng: a : b x c
Cho học sinh nắm đợc dạng tổng quát của bài toán, giáo viên cần đặt câu
hỏi:
- Bài toán có dạng gì? ( a : b x c)
- Bài toán đợc giải bằng mấy phép tính? (2 phép tính)
Đó là phép tính gì? (phép chia và phép nhân)
- Có thể giải bài toán theo mấy cách?
Hớng dẫn nh vậy học sinh sẽ khắc sâu kiến thức và không bị nhầm lẫn
giữa các dạng bài toán. Qua đó giúp các em quan sát và phân tích bài tốt hơn.
Trên đây là trình tự quy tắc giải toán hợp giáo viên cần dần dần cho học
sinh làm quen và nhận dạng trong suốt quá trình học tập:
1. Dạng toán có nội dung hình học:
Khi dạy dạng toán giải có nội dung hình học, đây là dạng toán tơng đối
khó mà mới đối với học sinh lớp 3. Vì vậy khi dạy, giáo viên chú ý cho học đến
biểu tợng, hiểu rõ vấn đề cần giải quyết để ngay từ bớc đầu học sinh hiểu đúng
về biểu tợng và khắc sâu kiến thức đó.
Chẳng hạn khi dạy về chu vi hình chữ nhật hoặc chu vi hình vuông giáo
viên cần cho học sinh hiểu tính chu vi là tính tổng độ dài các cạnh của một hình
và nhớ lại đặc điểm của hình đó sau đó mới hình thành kiến thức (quy tắc tính
chu vi) của hình đó.
Ví dụ 1: Tính chu vi hình chữ nhật có:
Chiều dài 10cm, chiều rộng 5cm.
Sau khi học sinh đã nắm đợc bản chất của vấn đề và nắm đợc quy tắc rồi thì
có thể vận dụng vào làm bài tập.
Bài giải
Chu vi hình chữ nhật là:
(10 + 5) x 2 = 30cm
Lúc này giáo viên có thể gợi ý để học sịnh vận dụng kiến thức mới học
vào thực tế.
Ví dụ: Em hãy đo và tính chu vi của cái bàn học của em.
Cho các em khắc sâu kiến thức , để đến khi học về diện tích Hình chữ nhật
hoặc diện tích hình vuông học sinh không nhầm lẫn quy tắc tính và đơn vị đo
giữa diện tích và chu vi.
Ví dụ: Bài 1 trang 153- SGK toán 3.
Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài 4dm, chiều rộng 8cm.
Để giải bài toán này giáo viên nên cho học sinh nêu lai quy tắc tính diện
tích và chu vi hình chữ nhật. Sau đó cho học sinh tự lập kế hoạch và giải bài toán
dựa theo những dữ kiện của bài toán.
Bài giải
Đổi 4dm = 40cm
Chu vi hình chữ nhật là:
(40 + 8) x 2 = 96(cm)
Diện tích hình chữ nhật là:
40 x 8 = 320(cm
2
)
Đáp số: 96cm
320cm
2
Sau khi gợi ý và hớng dẫn cho học sinh cách giải, giáo viên nên đặt câu
hỏi để khắc sâu kiến thức và nhận ra sự khác nhau giữa cách tính chu vi và diện
tích của một hình chẳng hạn: muốn tính chu vi và diện tích của hình chữ nhật ta
phải biết gì?
( Biết chiều dài và chiều rộng ). Nêu lại cách tính chu vi và diện tích hình chữ
nhật?
2. Những phơng pháp sử dụng trong giải các bài toán có lời văn lớp
3.
2.1. Hớng dẫn học sinh phân tích bài toán:
- Đọc kĩ đề bài:
Đây là bớc nghiên cứu đầu tiên giúp học sinh có suy nghĩ ban đầu về ý
nghĩa bài toán. Nắm đợc nội dung bài toán và đặ biệt cần chú ý đến các câu hỏi
của bài. Do đó tôi đã yêu cầu học sinh cầm bút chì và thớc gạch chân dới những
dữ kiện quan trọng của bài toán.
- Xây dựng, thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho bài toán:
Tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí hiệu toán học:
Tóm tắt đầu bài toán hoặc minh hoạ với sơ đồ hình vẽ bằng cách ghi dữ
kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dới dạng cô đọng , ngắn gọn nhất.
Ví dụ: Bài1 (trang 128 tiết 122 Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị
Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên
thuốc?
- Phân tích nội dung:
+ Học sinh đọc đề toán.
+ Giáo viên làm 2 câu lệnh làm việc:
+ Hãy gạch 1 gạch dới cái đã cho
+ Hãy gạch 2 gạch dới câu hỏi của bài toán.
+ Sau khi học sinh đã thực hiện theo hai câu lệnh làm việc của giáo viên,
giáo viên yêu cầu một số học sinh trình bày phân tích nội dung để hiểu rõ nội
dung đề toán.
4 vỉ thuốc có 24 viên
3 vỉ thuốc nh vậy có bao nhiêu viên?
- Lập kế hoạch giải:
Suy luận để tìm cách trả lời các câu của bài toán, cần biết gì? dùng phép
tính gì? Suy luận các số , điều kiện đã có, có thể biết gì? có thể sử dụng phép
tính gì? Phép tính đó trả lời câu hỏi của bài hay không? trên cơ sở đó lập kế
hoạch trình tự để giải toán.
+ Thực hiện các phép tính theo kế hoạch để tìm ra kết quả đúng của bài
toán.
Mỗi bớc giải của phép tính đều phải đợc kiểm tra lại cho đúng, thử lại đáp
số tìm đợc, xem cách giải, lời giải, đáp số có trả lời đúng câu hỏi của bài hay đã
phù hợp với điều kiện của bài toán hay cha? Trình bày giải.
Cũng nh ở ví dụ của bài 1: Trang 128 trên, giáo viên cho học sinh tự đặt
thêm câu hỏi Mỗi vỉ thuốc chứa bao nhiêu viên thuốc?
Bài giải
24 : 4 = 6 (viên)
Số viên thuốc trong 3 vỉ là:
6 x 3 = 18 (viên)
Đáp số: 18 viên thuốc.
2.2. Hớng dẫn học sinh giải bằng nhiều phơng pháp khác nhau:
Nhằm giúp học sinh chọn đợc phơng pháp hay nhất, hiểu sâu cấu trúc của
bài. Giải một bài toán bằng nhiều phơng pháp có tác dụng rèn luyện óc sáng tạo,
hứng thú tìm tòi học tập, giáo dục cho các em ý thức tiết kiệm thời gian, biết tìm
con đờng ngắn nhất để đi tới đích. Vì vậy, cần tổ chức cho học sinh giải theo
nhiều cách khác nhau ( đặc biệt là đối với học sinh khá giỏi) và giúp cho tất cả
các em hiểu đợc cơ sở lý luận của phơng pháp đó.
Ví dụ: Bài3 trang 171, tiết 164 SGK toán 3.
Một kho hàng có 80.000 bóng đèn, lần đầu chuyển đi 38.000 bóng đèn,
lần sau chuyển đi 26.000 bóng đèn. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu bóng đèn
(Giải bằng hai cách khác nhau)
Trớc tiên giáo viên cho học sinh nêu tóm tắt bài toán rồi giải bài toán bằng
nhiều cách khác nhau.
- Lập kế hoạch giải:
+ Cách 1: Tìm số bóng đèn còn lại trong kho sau lần chuyển đầu tiên?
(Kho hàng có 80.000 bóng đèn, lần sau chuyển 38.000 bóng đèn)
(Trong kho còn bóng đèn)
Tìm số bóng đèn còn lại sau khi chuyển lần 2?
- Thực hiên kế hoạch giải:
Trong đó có 80.000 bóng đèn, lần đầu chuyển 38.000 bóng đèn, muốn biết
sau lần chuyển đầu tiên trong kho còn bao nhiêu bóng đèn làm phép tính gì?
(phép trừ)
Trình bày bài giải:
Số bóng đèn còn lại sau khi chuyển lần đầu là:
80.000 38.000 = 42.000 (bóng đèn)
Trong khi còn lại số bóng đèn là:
42.000 26.000 = 16.000 (bóng đèn)
Đáp số: 16.000 bóng đèn
+ Cách 2: Lập kế hoạch giải:
Tìm số bóng đèn, lần 2 chuyển đi ở cả 2 lần
( Lần 1 chuyển 38.000 bóng đèn, lần 2 chuyển 26.000 bóng đèn)
(Số bóng đèn còn lại trong kho sau 2 lần chuyển?
- Thực hiện kế hoạch giải:
Muốn biết số bóng đèn đã chuyển đi tất cả bao nhiêu ta làm tính gì? (tính
cộng)
Muốn tìm số bóng đèn còn lại trong kho sau 2 lần chuyển đi làm tính gì?
(tính trừ)
Trình bày bài giải:
Số bóng đèn đã chuyển đi tất cả là:
38.000 + 26.000 = 64.000 (bóng đèn)
Số bóng đèn trong kho là:
80.000 64.000 = 16.000 (bóng đèn)
Đáp số: 16.000 bóng đèn
2.3. Hớng dẫn học sinh xây dựng một đề toán mới:
Việc cho học sinh tự xây dựng đề toán vừa giúp các em phát triển t duy độc
lập, vừa giúp phát triển tính năng động sáng tạo của t duy. Đây là biện pháp gây
chú ý và hứng thú hoặc tập giúp các em hiểu rõ cấu trúc, cách ghi nhớ dạng bài,
đi sâu tìm hiểu thực tế và phát triển ngôn ngữ thông qua việc tự nêu và giải quyết
vấn đề, phát huy tính tích cực, vai trò trung tâm của các em trong quá trình dạy
học. Có nhiều cách để giúp học sinh tự xây dựng một đề toán, giáo viên cần nêu
vấn đề, yêu cầu và định hớng từ thấp đến cao, từ dễ đến khó.
2.3.1. Đề toán đa ra thiếu số liệu.
Học sinh tìm số liệu trên điền vào rồi giải.
Ví dụ: Đội một có . ngời, đội hai có . ngời. Hỏi cả hai đội có tất cả bao
nhiêu ngời?
2.3.2. Đề toán không đa ra câu hỏi.
Học sinh tự đặt câu hỏi cho bài toán và giải.
Ví dụ: Có 35.000 đồng mua đợc 5 quyển sổ
Em hãy đặt câu hỏi để bài toán có liên quan đến rút về đơn vị rồi giải.
2.3.3. Đặt đề toán dựa vào tóm tắt bằng sơ đồ, hình vẽ.
Ví dụ: Nêu bài toán rồi giải bài toán theo tóm tắt sau:
17kg
Con:
? kg
Mẹ:
2.3.4. Cho biết cách giải bài toán:
Học sinh tự suy nghĩ ra đề toán:
Ví dụ: 18 + 9 x 3 = 15 (cái)
Hãy đặt đề toán có cách giải nh trên.
2.3.5. Đặt một bài toán tơng tự với bài mẫu.
Trong phơng pháp học sinh tự xây dựng đề toán các em thờng mắc các
khiếm khuyết nh: Các số liệu chọn thiếu chính xác, xa thực tế. Giáo viên cần
giúp các em sứa chữa những lỗi đó để giúp các em rèn luyện t duy tính thực tế.
Ví dụ: Hãy đặt một đề toán tơng tự nh bài dới đây và giải.
Một sân vận động hình chữ nhật có chiều rộng 95cm và chiều dài gấp 3
lần chiều rộng. Tính chu vi sân vận động đó
3. Một số đề kiểm tra 15 phút.
Trong dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một việc
làm hết sức quan trọng bởi từ kết quả đó mà giáo viên có thể tự điều chỉnh phơng
pháp, cách tổ chức dạy học và nắm bắt cụ thể từng đối tợng học sinh nhằm giúp
các em học tốt hơn. Các đề kiểm tra phải mang tính vừa sức.
Ví dụ:
+ Đề 1: Có 35 lít dầu hoả đựng đều trong 7 can: hỏi 9 can đó đựng bao
nhiêu lít dầu hoả?
+ Đề 2: Lập đề toán theo tóm tắt sau và giải bài toán đó:
5 thùng có: 1020 gói mì
8 thùng có: gói mì?
+ Đề 3: Có 3 ô tô mỗi ô tô chở 2205. Ngời ta chuyển xuống đợc 400kg rau
từ ô tô đó.
Hỏi còn bao nhiêu kg rau cha chuyển xuống.
C. Kết luận
1. Kết quả thực hiện:
Sau một quá trình dạy học trên thực tế tôi đã khảo sát kiểm tra lại chất l-
ợng học tập của học sinh. Kết quả thu đợc nh sau:
Tổng số học sinh tham gia kiểm tra: em
Khả năng
Xếp loại
Khả năng
phân tích đề
Khả năng thiết
lập các dữ kiện
để xây dựng quy
trình
Khả năng nêu
lời giải đúng
Khả năng
trình bày bài
toán
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Qua các bài kiểm tra và luyện kiểm tra việc học, làm bài tập của học sinh
tôi thấy rằng: Việc đa phơng pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, vai trò
của giáo viên là ngời hớng dẫn đã mang lại kết quả khá tốt. Đa số học sinh của
lớp hiểi đợc cách giải và biết tự trình bày bài giải một cách hợp lý, đặc biệt ph-
ơng pháp giúp khắc phục đợc chất lợng, hạ thấp tỉ lệ học sinh yếu kém.
2. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng những phơng pháp cùng với những kinh nghiệm của
bản thân vào quả trình dạy học môn toán nói chung và giải các bài toán có lời
văn nói riêng. Đặc biệt là hớng dẫn học sinh giải các bài toán có liên quan đến
rút về đơn vị dạng a: b x c ( là nền tảng cho học sinh học giải các bài toán về đại
lợng tỉ lệ thuận ở lớp 4)
Tôi đã rút ra một số bài học cho mình để tích cực góp phần trong việc nâng
cao hiệu quả dạy toán, đối với giáo viên cần làm tốt các vấn đề:
Khi lập kế hoạch phải dự tính trớc đợc lỗi học sinh thờng mắc phải, từ đó
có cách sửa lỗi . Trong giờ dạy không nên áp đặt nặng nề , không nên gay gắt đối
với những em thờng mắc lỗi mà phải nhẹ nhàng để học sinh thấy yên tâm.
Đối với những bài toán có cấu trúc giống nhau trong quá trình giải, học
sinh dễ nhầm lẫn máy móc giữa các bài này với bài khác . Vì vậy phải giúp các
em so sánh và phân biệt từng dạng toán. ở lớp 3 cần tập cho các em so sánh các
bài toán mà nội dung có điểm giống nhau, những câu hỏi khác nhau nên phải
giải bằng số lợng phép tính khác nhau.
Phải giúp học sinh hiểu bài bằng cách giao việc cho các em thông qua gợi
ý hoặc thiết lập hệ thống câu hỏi. Do đó yêu cầu giáo viên phải nắm chắc các dữ
kiện của đề bài, phải tóm tắt đề bài theo cách gọn, dễ hiểu đa ra nhiều cách giải
bài toán và trình tự các bớc, các phép tính giải phải chính xác, khoa học. Chú ý
kiểm tra kết quả của học sinh và chỉ hớng dẫn khi các em thật sự khó khăn, tuyệt
đối không đợc làm thay học sinh.
Cần nghiên cứu kỹ chơng trình để nắm bắt đợc ý đồ của sách giáo khoa,
cấu trúc nội dung sách để có sự so sánh giữa các dạng toán nhằm giúp học sinh
tìm đúng cách giải và để giáo viên tìm đúng phơng pháp dạy tốt hơn.
Vì vậy qua những bài toán giải có lời văn trong chơng trình lớp 3 ở trờng
tiểu học, nó không những rèn luyện cho học sinh ý thức vợt khó, tính cẩn thận,
chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, mà nó rèn luyện thói quen về khả năng
suy nghĩ, tính toán độc lập, phát triển t duy cho học sinh nên tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu này.
Cần kết hợp vận động linh hoạt hệ thống phơng pháp. Khi dạy nội dung
kiến thức mới, giáo viên nên đặt ra các tình huống có vấn đề để học sinh tự phát
hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới.
Giáo viên phải là ngời nắm rõ và phân loại chính xác từng đối tợng học
sinh của lớp mình để có định hớng đúng đắn giúp học sinh giải quyeets yêu cầu
bài học, chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, sáng tạo và có hứng thú trong
học tập.
3. Đề xuất:
Đề nghị phòng giáo dục cũng nh các ban ngành tạo điều kiện về cơ sở vật
chất hơn nữa để giáo viên yên tâm giảng dạy.
Mong các đồng chí góp ý để sáng kiến này ngày càng hoàn thiện hơn.