Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.76 KB, 27 trang )

Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
MỤC LỤC
I. Giới thiệu chung về nền kinh tế Singapore
1. Vài nét chung:
2. Nền kinh tế Singapore:
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH VỀ ĐẦU TƯ VÀ NHẬP KHẨU
1. Chính sách thu hút đầu tư, phát triển thương mại
2. Thuế
2.1 Tỷ lệ thuế
2.2 Thuế nhập khẩu
3. Thủ tục hải quan
4. Các chính sách khác
4.1 Quy định về nhãn mác
4.2. Chính sách bảo vệ người tiêu dùng và chống gian lận
thương mại
4.3 Hệ thống tiêu chuẩn hang hoá
III. QUAN HỆ VIỆT NAM-SINGAPORE
1.Tổng quát về quan hệ Việt Nam-Singapore:
1.1 Về chính trị:
1.2. Quan hệ ngoại giao
1.3 Quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại
1.4 Hợp tác đầu tư
2. Tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào
Singapore:
2.1. Gạo
2.2. Thuỷ sản
2.3. Cà phê
2.4. Cao su
2.5. Hàng dệt may
3. Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore :
NỘI DUNG


1
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ SINGAPORE
Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển, theo đường lối kinh tế tư bản.
Sự can thiệp của chính phủ vào vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa.
Singgapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính
cao, giá cả ổn định, và là một trong những nước có GDP bình quân đầu người
cao nhất thế giới. xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng điện tử và hóa chất và dịch
vụ là nguồn cung cấp chính cho thu nhập kinh tế và mua được các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và hàng chưa gia công mà trong nước không có. Do vậy có
thể nói Singapore dựa hoàn toàn vào nền kinh tế mở bằng việc mua các hàng hóa
chưa gia công và chế biến chúng để xuất khẩu. Singapore cũng có một hải cảng
chiến lược, có thể cạnh tranh với các nước láng giềng để thực hiện các hoạt động
buôn bấn, xất nhập khẩu. Thành phố hải cảng của Singapore là một trong những
nơi bận rộn nhất trên thế giới, vượt xa Hong Kong và Thượng hải. Thêm vào đó,
thành phố hải cảng của Singapore có cơ sở hạ tầng tốt và lực lượng lao động có
tay nghề cao nhờ các chính sách giáo dục của đất nước trong việc đào tạo kỹ
nghề cho công nhân, nó cũng là nền tảng cho việc phát triển kinh tế của đất
nước.
1. Vài nét chung:
- Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực Đông Nam Á, giữa Malaysia và Indonesia.
- Diện tích: 692,7 km2
- Dân số: 4.492.150 người (ước tính đến tháng 7-2006).
- Ngôn ngữ: Tiếng Hoa (35%), tiếng Anh (23%), tiếng Malay
(14.1%).
- Đơn vị tiền tệ: Dollar Singapore (SGD)
- Nhà lãnh đạo Kinh tế hiện nay: Thủ tướng Lý Hiển Long
2. Nền kinh tế Singapore:
- Singapore có nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ nắm vai trò chủ đạo.
Là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới.

2
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore

Một góc Singapore

Singapore về đêm
- Singapore trở thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng
(cảng biển Singapore là một trong những cảng biển trọng tải lớn tấp nập nhất thế
giới). Sau giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu từ
năm 2001-2003, GDP thực tế năm 2004 của Singapore tăng mức kỷ lục 8%.
Chính phủ đang cố gắng hướng đến việc xây dựng một nền kinh tế ít bị tác động
bởi những biến động bên ngoài và trở thành trung tâm tài chính và công nghệ
cao của Đông Nam Á.
3
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore

Singapore là một trong những cảng biển hàng đầu thế giới
- GDP: 116,3 tỷ (2004), với GDP bình quân đầu người 27.180 USD (2004),
là một trong những nước thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới. Tốc độ
tăng trưởng năm 2005 là 5,7% với GDP là 124,3 tỷ USD, thu nhập bình quần
đầu người là 28.100 USD.
- Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp: 0%, công nghiệp: 3,6%, dịch vụ: 66,4%.
- Lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng từ 0,7% năm 2003 lên 1,7%
năm 2004. Nguyên nhân chủ yếu do giá cả tăng ở dịch vụ y tế (0,6%), giáo dục
(4,2%), dịch vụ giải trí (2,3%), giao thông - viễn thông và quần áo (2%). Năm
2005, Chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống còn 1%.
- Việc làm: Tỷ lệ thất nghiệp là 3,4% (2004) giảm so với năm 2003 nhờ tạo
được 71.400 việc làm trong các ngành sản xuất dịch vụ trong khi số lao động
mất việc là 39.500 người. Năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp ước tính khoảng 3,3%.
- Cán cân thanh toán: Năm 2004, xuất khẩu đạt 179,755 tỷ USD. Năm

2005, xuất khẩu đạt 204,8 tỷ USD. Nền kinh tế Singapore phụ thuộc rất nhiều
vào xuất khẩu, chủ yếu là hàng hóa điện tử, hàng tiêu dùng, hóa chất, nhiên liệu.
Thị trường xuất khẩu chính là Malaysia (15,2%), Hoa Kỳ (13%), Hồng Kông
(9,8%), Trung Quốc (8,6%), Nhật Bản (6,4%),
4
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
Ga xe điện ngầm ở Singapore
Đài Loan (4,6%), Thái Lan (4,3%), Hàn Quốc (4,1%) (năm 2004). Nhập khẩu
đạt 163,982 tỷ USD, năm 2005 là 188,3 tỷ USD, chủ yếu là tài nguyên thiên
nhiên và sản phẩm thô để tinh chế, tinh luyện và xuất khẩu trở lại. Thị trường
nhập khẩu chính là Malaysia (15,3%), Hoa Kỳ (12,7%), Nhật Bản (11,7%),
Trung Quốc (9,9%), Đài Loan (5,7%), Hàn Quốc (4,3%), Thái Lan (4,1%)
(năm2004).
Một đường phố buôn bán nhộn nhịp
- Nợ nước ngoài: Singapore không có nợ nước ngoài.
- Tỷ giá hối đoái: Việc đồng dollar Hoa Kỳ giảm giá nửa cuối năm 2004
làm ảnh hưởng đến tỷ giá đồng dollar Singapore (SGD). Dollar Singapore tăng
giá 4,1% so với đồng dollar Hoa Kỳ và những đồng tiền neo giá vào đồng dollar
5
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
Hoa Kỳ như ringgit Malaysia, dollar Hongkong, dollar Australia. Năm 2005, tỷ
giá hối đoái của SGD so với USD là 1,6644.
- Chi tiêu ngân sách: Năm 2005 tăng hơn so với năm 2004. Thu ngân sách
tăng 6,9% đạt 26,3 tỷ SGD do nền kinh tế phục hồi, chi ngân sách tăng 4,5% đạt
28,4 tỷ SGD. Chính phủ Singapore đang cố gắng cân bằng ngân sách hay đạt
mức thặng dư vừa phải trong trung và dài hạn.
- Chính sách tiền tệ: Do điều kiện kinh tế và áp lực lạm phát tăng, Cơ quan
tiền tệ Singapore quyết định cho phép tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu lực
(NEER) tăng nhẹ và tăng từ từ thay vì duy trì mức tăng bằng 0.
- Cải cách cơ cấu: Để đối phó với thách thức của áp lực cạnh tranh toàn

cầu do những tiến bộ kỹ thuật và toàn cầu hóa mang lại, Singapore đang tiến
hành cải cách cơ cấu để đa dạng hóa, toàn cầu hóa và doanh nghiệp hóa nền kinh
tế hơn nữa. Công nghiệp chế tạo và dịch vụ vẫn là hai trụ cột của nền kinh tế
trên nền tảng khả năng cạnh tranh cao về khoa học, kỹ thuật và chi phí lao động.
Mở rộng quan hệ quốc tế trong khuôn khổ hợp tác đa phương và hợp tác trong
khu vực, hiệp định thương mại song phương (FTA) sẽ kết nối Singapore với thị
trường thế giới và các cơ hội đầu tư. Chính phủ sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát
triển của các doanh nghiệp, và hướng đến một nền kinh tế tri thức tăng trưởng
nhờ đổi mới.
Khu chợ trái cây nhiệt đới
6
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH VỀ ĐẦU TƯ VÀ NHẬP KHẨU
Singapore được xem là một trong những quốc gia có chính sách thương
mại rất cởi mở, thuế đánh lên hàng hóa nhập khẩu vào nước này khá thấp. Chúng
ta sẽ tìm hiểu về thị trường Singapore trên một số phương diện : chính sách thu
hút đầu tư, thuế, thủ tục hải quan, các quy định pháp luật về nhập khẩu và hàng
nhập khẩu.
1. Chính sách thu hút đầu tư, phát triển thương mại
Singapore có một chính sách đầu tư rộng mở, qua đó, đất nước này đã
chuyển thành công từ một hải cảng thương mại thành một nền kinh tế công
nghiệp hiện đại. Chính phủ theo đuổi một chiến lược nhằm nâng cao Singapore
thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ, sáng kiến và tri thức để có thể cạnh
tranh với các nước xuất hàng giá rẻ và gia tăng tính toàn cầu hóa nền kinh tế.
Nhà nước tạo nguồn động viên về tài chính , điều chỉnh luật lệ nhằm
khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Để thực hiện chính sách
rộng mở, Singapore khuyến khích các công ty đa quốc gia (CTĐQG) tiến hành
các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện cho các chuyên gia
nước ngoài đến cư trú và làm việc. Thông qua các CTĐQG, đảo quốc này muốn
trở thành một sân chơi có tầm cỡ thế giới về các lãnh vực điện tử, hóa học, khoa

học về đời sống, kỹ thuật, viễn thông và truyền thông, hậu cần, giáo dục và chăm
sóc sức khỏe. Ngoài ra, Singapore còn muốn lôi cuốn các CTĐQG thiết lập các
"bản doanh" trên đất nước họ để điều hành các hoạt động có tầm mức thế giới
hay khu vực, tác động đến hệ thống ngân hàng nước ngoài và các định chế tài
chính. Tất cả những nỗ lực này nhằm tạo cho Singapore qui chế của một trung
tâm tài chính quốc tế.
Hiện nay, ngoài một GDP chia theo đầu người cao hàng thứ 5 thế giới
(28.620 USD – Căn cứ vào báo cáo năm 1999-2000 của Ngân hàng thế giới),
Singapore cũng được xếp hàng đầu về khả năng cạnh tranh về mặt kinh tế (theo
sự đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong bản "Báo cáo về sự cạnh
tranh toàn cầu-1999"). Theo xu thế mới, việc thu hút đầu tư nước ngoài đang là
chiến lược kinh tế nòng cốt của chính phủ Singapore, qua đó, họ tạo điều kiện
cho các CTĐQG phát triển sản xuất và phối hợp các hoạt động sản xuất, tiếp thị
và phân phối sản phẩm. Khung pháp lý và các chính sách rộng rãi tạo cho nhà
đầu tư một cảm giác thân quen, giúp họ mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào các dự án
kinh tế có chiều sâu. Các chuyên gia nước ngoài có kỹ năng cao được mời tham
gia vào nền kinh tế Singapore với một lực lượng lao động lên đến 2 triệu người.
Các ngành công nghiệp nhằm lôi cuốn đầu tư vào Singapore gồm có: Điện tử
(đặc biệt có liên quan đến chất bán dẫn), Hoá chất, Khoa học về đời sống, Kỹ
thuật, Viễn thông và truyền thông, Hậu cần , Giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
Tại Singapore, các nhà đầu tư nước ngoài không bị đòi hỏi phải tham gia vào các
hoạt động liên doanh hay nhượng quyền kiểm soát quản trị cho quyền lợi địa
phương. Chính quyền Singapore không hạn chế hay làm nản lòng các nhà đầu tư
nước ngoài nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước hay vì bất cứ lý do nào
7
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
khác. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý còn tồn tại trong lãnh vực sản
xuất vũ khí, công nghiệp truyền thanh và thông tin nội địa. Ngoài ra, các cơ hội
đầu tư cũng còn bị hạn chế trong việc sở hữu các tài sản tư. Tháng 4/2000, lãnh
vực viễn thông được tự do hóa hoàn toàn nhằm đảm bảo cho Singapore vị thế

của một trung tâm thông tin và truyền thông quan trọng của châu Á. Những hạn
chế về quyền tư hữu của người nước ngoài cũng được giở bỏ đối với ngành ngân
hàng địa phương, ngành bảo hiểm và các công ty điện lực. Hội đồng phát triển
kinh tế (EDB) đã đề ra nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư; Cơ quan tiền tệ
Singapore (MAS); Ngân hàng trung ương Singapore giám sát việc mở rộng thị
trường và cải tiến các biện pháp áp dụng nhằm mở rộng công tác quản lý ngân
quỹ, phát triển thị trường trái phiếu, cho phép có sự cạnh tranh của người nước
ngoài trong các định chế tài chính và ngân hàng. Từ năm 1978, Singapore đã giỡ
bỏ mọi hạn chế về giao dịch chứng khoán nước ngoài và chuyển dịch vốn, không
giới hạn việc tái đầu tư cũng như chuyển vốn và lãi về nước. Về mặt hợp tác
quốc tế, Singapore đã ký các thỏa hiệp khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các
nước ASEAN, với Liên minh kinh tế Bỉ-Luxembourg, và 19 nước khác, trong đó
có Mỹ. Những thỏa hiệp này có tác dụng bảo vệ công dân hay công ty của mỗi
quốc gia trong một giai đoạn đặc biệt (thường là 15 năm) trong trường hợp chiến
tranh, sung công hay quốc hữu hóa. Nếu sung công hay quốc hữu hóa, chính phủ
nước chủ nhà sẽ bồi thường thỏa đáng cho nhà đầu tư, căn cứ vào giá trị tài sản
trên thị trường tự do. Trên thực tế, đến nay chưa có một trường hợp tranh cãi
đáng chú ý nào xảy ra giữa chính quyền với các nhà đầu tư. Nguy cơ sung công
và quốc hữu hóa vốn đầu tư của người nước ngoài hầu như hoàn toàn không có.
Ngày nay, các thực thể kinh tế trong và ngoài Singapore có đủ tự do thiết
lập và điều hành các xí nghiệp của họ trên đất nước này. Ngoại trừ các văn
phòng đại diện, nơi các công ty nước ngoài chỉ đặt một đại diện của họ mà
không tiến hành những giao dịch thương mại của họ tại địa phương, không có
một hạn chế nào cho việc thực hiện những hoạt động có lợi cho họ. Mọi hoạt
động thương mại tại Singapore phải được đăng ký tại Cơ quan đăng ký các công
ty và doanh nghiệp (RCB). Các nhà đầu tư nước ngoài có thể điều hành doanh
nghiệp của họ dưới một trong những hình thức sau đây:
- Quyền sở hữu duy nhất (sole proprietorship): Một cá nhân hoạt động với tư
cách một thương nhân duy nhất, theo qui định của đạo luật về đăng ký kinh
doanh.

- Hợp tác kinh doanh (partnership): Từ 2 đến 20 người hợp tác kinh doanh, theo
qui định của đạo luật về đăng ký kinh doanh.
- Công ty cổ phần (incorporated company): Gồm không quá 50 cổ đông, hoạt
động như một công ty trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn, theo các điều khoản của
luật công ty.
- Công ty nước ngoài (foreign company): Đăng ký như công ty nhánh của một
công ty mẹ, theo những qui định của luật công ty, nhưng không cổ phần hóa như
một công ty Singapore.
- Văn phòng đại diện (representative office): Văn phòng của những công ty nước
ngoài, đảm trách các hoạt động quảng bá và liên lạc nhân danh công ty mẹ. Hình
8
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
thức tổ chức này không được tham gia vào các hoạt động thương mại như ký
hợp đồng, tư vấn thu phí, chuyển hàng hóa theo tàu, mở tín dụng thư hay thương
thảo về tín dụng thư trực tiếp hoặc nhân danh công ty mẹ.
Trong xu thế hợp tác và phát triển hiện nay, đa số các quốc gia ngày càng
xoá bỏ dần những rào cản kinh tế để tạo điều kiện cho thương nhân trong nước
tham gia tích cực vào công tác xuất khẩu, đồng thời giúp các thương nhân nước
ngoài dễ dàng tiếp cận với thị trường nước mình. Với tư thế một nước ASEAN
dẫn đầu về mặt phát triển kinh tế, Singapore đã vận dụng một bộ máy quản lý
thương mại hữu hiệu để đạt những mục tiêu đề ra. Với sự phát triển không
ngừng của nền công nghệ điện tử, Singapore chủ trương áp dụng những tiến bộ
mới trong khoa học kỹ thuật vào lãnh vực xuất nhập khẩu, với những cải tiến
sau:
- Thương mại không giấy tờ (paperless trading): Bằng việc thiết lập hệ
thống TradeNet, Singapore đã cách mạng hoá các thủ tục quản lý thương mại nói
chung và xuất nhập khẩu nói riêng, tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt động
thương mại. TDB đang nghiên cứu với khu vực tư nhằm giảm thiểu hay xoá bỏ
những thủ tục giấy tờ phức tạp trong thương mại quốc tế.
- Thương mại điện tử: TDB chú tâm đến việc xây dựng một số dự án về

thương mại điện tử nhằm kết hợp những tiến bộ của công nghệ thông tin với
việc thực hiện nhanh chóng các thủ tục thương mại.
- Hệ thống cấp phép tự động: TDB phối hợp với các cơ quan luật pháp
như Cơ quan phát triển truyền thông Singapore (IDA) và Cơ quan thanh tra về
bức xạ (RPI) để tự động hoá hệ thống cấp giấy phép. Từ nay, các thương nhân
Singapore có thể nhận được giấy phép xuất nhập khẩu trong vòng từ 1 đến 3
phút, bất kể ngày hay đêm.
- Ứng dụng chứng chỉ xuất xứ (CO) trực tuyến: Thương nhân Singapore
có thể xin cấp chứng chỉ xuất xứ trên mạng, với một trong bốn cơ quan có thẩm
quyền thuộc hệ thống "Cấp chứng chỉ xuất xứ điện tử” (ECO), đó là: Phòng
thương mại và kỹ nghệ Trung Quốc-Singapore , Liên đoàn kỹ nghệ Singapore,
Phòng thương mại và kỹ nghệ Ấn độ-Singapore và phòng thương mại quốc tế
Singapore. Được thiết lập vào tháng 1.2000, hệ thống ECO tối thiểu hoá các dữ
liệu mà các thương nhân phải đăng ký. Những thương nhân có thành tích tốt có
thể lập tờ khai hàng năm thay vì phải lập hồ sơ mỗi lần cần có CO. Điều này
giúp họ đỡ phải tốn cả thì giờ lẫn tiền bạc.
- Tài chánh và bảo hiểm thương mại trên mạng: Hệ thống tài chính
thương mại (TFS) do TDB kết hợp với một số đơn vị khác để xây dựng, giúp các
thương nhân có thể thông qua mạng Internet để thực hiện một số giao dịch với
các ngân hàng như xin cấp tín dụng thư (LC) chẳng hạn.Ngoài ra, Hệ thống bảo
hiểm thương mại (TIS) cũng bắt đầu hoạt động từ tháng 3.2000, tạo điều kiện dễ
dàng cho việc bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Các thương nhân có thể xin
9
Các chính sách của Singapore khi Việt Nam xuất khẩu hàng hoá vào Singapore
cấp bản dự kê giá từ các hãng bảo hiểm và trả lời qua Internet. Việc mua bảo
hiểm cho hàng hoá nay đã thuận lợi hơn.
Tháo gỡ phần lớn các biện pháp kiểm soát để khuyến khích thương mại
điện tử: Ngày nay, các thương nhân Singapore quan tâm nhiều hơn vào độ tin
cậy của các thông tin thương mại và dữ liệu kinh doanh phổ biến trên mạng
Internet. Sự giảm thiểu hay giải toả những biện pháp kiểm soát sẽ góp phần phát

triển nền thương mại Singapore trong chiều hướng giao thương với nước ngoài
Các luật lệ chung của Singapore bảo vệ và tạo điều kiện dễ dàng cho sự
thủ đắc và phân bố các tài sản hợp pháp. Tuy nhiên cũng có một vài hạn chế về
quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài tại Singapore. Theo đạo luật về
tài sản cư trú, người nước ngoài có thể mua và sở hữu loại nhà condominium
(một khối nhà mà mỗi căn hộ do người ở trong đó làm chủ), nhưng không thể sở
hữu nhà kèm theo đất đai (landed homes hay houses) và những căn hộ trong các
tòa cao ốc dưới 6 tầng, trừ trường hợp được sự chấp thuận của ông Bộ trường tư
pháp Singapore. Những ngoại lệ này được chọn lọc rất kỹ lưỡng; một trường
hợp điển hình là việc một CTĐQG nước ngoài mua nhà cho các viên chức của
họ cư trú. Điều cần lưu ý là không có hạn chế nào đối với quyền sở hữu của
người nước ngoài về các bất động sản sử dụng trong các hoạt động thương mại
và công nghiệp. Tính đến nay, Singapore đã ký thỏa hiệp về đảm bảo đầu tư với
các thành viên khác của tổ chức ASEAN, Liên minh kinh tế Bỉ-Luxembourg và
19 đối tác kinh tế sau đây: Canada,Trung Quốc, Cộng hòa Séc, Ai Cập, Pháp,
Đức, Hungary, Latvia, Mông Cổ, Hà Lan, Pakistan, Ba Lan, Quần đảo Riau,
Slovania, Sri Lanka, Thụy Sĩ, Đài Loan, Vương quốc Anh và Mỹ.
2. Thuế
Tại Singapore, đánh giá của hải quan dựa vào Xác định Brussels về Giá
trị (BDV). Nguyên tắc cơ bản của BDV là giá trị có thể đánh thuế là giá thông
thường hoặc giá nhập khẩu hàng hoá tại cảng hay nơi nhập khẩu với giả định
rằng việc mua bán được tiến hành tại thị trường mở giữa người mua và bán độc
lập. Hàng hoá có thể bị đánh thuế giá trị gia tăng hay tỉ lệ đặc biệt, hoặc cả hai
phương pháp. Một tỉ lệ giá trị gia tăng là phần trăm của giá trị được thẩm định
của hàng nhập khẩu.Một tỉ lệ đặc biệt là một lượng đặc biệt trên mỗi đơn vị
trọng lượng hay đơn vị lượng khác. Chi phí, bao hiểm, vận tải phí giao dịch và
tất cả các phí khác tính trong bán hàng và vận chuyển hàng (bao gồm cả thuế
dịch vụ chung GST) đều được tính khi đánh thuế. Các nhà xuất khẩu được yêu
cầu phải bảo đảm giá trị kê khai với hải quan là chính xác. Nếu hàng thấp hơn
giá trị, phòng thuế và hải quan sẽ tăng giá trị đã kê khai lên. Singapore sẽ áp

dụng hình phạt với nhà kinh doanh nào cố gắng trốn thuế.
Hệ thống thuế ở Singapore là hệ thống thuế trung lập đối với đầu tư nước
ngoài.Những chính sách về khuyến khích về tài chính đặc biệt đều có liên quan
cụ thể đến các công ty đa quốc gia.Ví dụ, chính sách khuyến khích bộ phận điều
hành và thuế trợ cấp thu nhập từ hoạt động ngoài khơi của những cơ quan tài
chính.
2.1.Tỷ lệ thuế
10

×