Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

đề tài:nghiên cứu sự suy thoái của đất và cách bảo vệ tài nguyên đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 19 trang )

1.3 Hiện trạng sử dụng đất ở nước ta
Diện đất tự nhiên nước ta khoảng 33 triệu ha, được xếp thứ 59/200 nước,
nhưng dân số đông (khoảng 78 triệu người) nên diện tích đất bình quân mỗi người
vào loại thấp (0,5 ha) và xếp vào thứ 159.
Đất vùng đồi núi, dốc chiếm 22 triệu ha (67% diện tích cả nước), đất tốt có
đất bazan 2,4 triệu ha chiếm 7,2%, đất phù sa 3,0 triệu ha chiếm 8,7%. Nhìn chung
đất tốt chỉ được xấp xỉ 20%.
Đất nông nghiệp khoảng 7,36 triệu ha, trong đó 5,9 triệu ha trồng cây ngắn
ngày như lúa, hoa màu, lương thực thực phẩm (số liệu năm 1994). Đất rừng khoảng
9,91 triệu ha. Ngoài ra, có khoảng 13,58 triệu ha chưa được sử dụng trong đó chỉ có
khoảng 400.000 ha có thể sử dụng vào nông nghiệp, còn lại là đồi núi trọc và mặt
nước ao hồ sông suối.
Cơ cấu sử dụng đất ở Việt Nam cũng có xu hướng giống thế giới: tăng đất
nông nghiệp, giảm đất rừng, tăng đất chuyên dùng và đất trống đồi trọc. 55% diện
tích đất tự nhiên được sử dụng vào 4 mục đích cơ bản: nông nghiệp, lâm nghiệp,
chuyên dụng và các khu dân cư. Khoảng 7 triệu ha đất (21,13% diện tích đất tự
nhiên) được sử dụng vào nông nghiệp như trồng cây hàng năm (5,5 triệu ha), trồng
cây lâu năm (1,1 triệu ha), đồng cỏ chăn nuôi (0,35 triệu ha).
Bảng 11. Tình hình sử dụng đất tại Việt Nam (%)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tổng diện tích
đất
: 33.104,22 triệu ha
Đất nông 21,17 22,03 22,20 22,25 22,26 24,09
1
nghiệp
Đất rừng 29,05 28,77 29,12 29,95 32,61 32,84
Đất chuyên
dụng
3,03 3,34 3,35 3,39 3,84 3,93
Đất định cư 2,44 2,34 2,34 2,17 2,50 2,62


Đất chưa sử
dụng
44,31 43,52 42,99 42,24 38,80 36,52
Bảng 12. Diện tích đất nông nghiệp và đất rừng so với diện tích đất tự nhiên
năm 1994 chia theo vùng
Đất
Tự nhiên
(%)
Nông nghiệp
(%)
Rừng
(%)
Cả nước 100 22,3 30,0
Miền núi và trung du Bắc
bộ 100 3,6 6,2
Đồng bằng sông Hồng 100 2,1 0,2
Khu Bốn cũ 100 2,0 5,7
Duyên hải miền Trung 100 1,6 5,6
Tây Nguyên 100 1,9 9,9
Đông Nam bộ 100 2,9 1,5
Đồng bằng sông Cửu
Long 100 8,0 0,9
2
1.4 Những biểu hiện của sự suy thoái đất và thực trạng suy thoái đất hiện nay ở
nước ta
Việt Nam còn khoảng 9 triệu ha đất bị hoang hóa (chiếm khoảng 28% tổng
diện tích đất đai trên toàn quốc), trong đó có 5,06 triệu ha đất chưa sử dụng (Quyết
định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007) và 2 triệu ha đất đang được sử dụng bị thoái
hóa nặng.
Đó là con số do Văn phòng thực hiện Công ước chống sa mạc hóa của Liên

hiệp quốc (UNCCD) tại Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cung cấp Nhân ngày Thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán 17-6 năm nay.
Văn phòng UNCCD Việt Nam cho biết, độ phì nhiêu của đất ở Việt Nam
đang có nguy cơ bị giảm xuống hoặc bị thoái hóa nghiêm trọng do xói mòn, rửa trôi,
đá ong hóa, chua mặn hóa. Tài nguyên rừng cũng bị suy giảm đáng kể. Nếu như
năm 1943 Việt Nam có tỷ lệ che phủ của rừng là 43% thì sau nhiều nỗ lực khắc
phục các nguyên nhân mất rừng suốt 60 năm qua, tỷ lệ che phủ hiện nay mới chỉ là
37,6% (Số liệu công bố tháng 12-2006). Rừng bị mất đã làm tăng diện tích đất
hoang hóa, kéo theo sự giảm sút đáng kể các hệ sinh thái, làm suy thoái vùng đầu
nguồn.
Bảng 1. Đặc điểm xuất hiện ở các cấp tiềm năng thoái hoá đất
Cấp thoái
hoá
Đặc điểm xuất hiện Khả năng phục hồi và sử
dụng
Mạnh và rất mạnh (T3) - Đất tàn tích trên bazan
cổ (N2-Q11) và bazan trẻ
(Q12-Q2) có nền laterit.
- Địa hình chia cắt rất
mạnh, dốc 15-25o.
- Nằm trên các trung tâm
khô hạn hoặc mưa.
- Xói mòn rửa trôi mạnh.
- Khó phục hồi
- Bảo vệ rừng phòng hộ
và trồng rừng
Trung bình (T2) - Đất sườn tích bazan trẻ
(Q12-Q2) hoặc cổ (N2-
- Có thể phục hồi
- Phương thức nông lâm

3
Q11) không có nền
bauxit, các thung lũng
tích tụ.
- Địa hình lượn sóng, dốc
8-15
o
.
- Mùa khô không gay gắt
hoặc mưa lớn không tập
trung.
- Vùng tiếp xúc có điều
kiện xuất hiện laterit
kết hợp
Yếu (T1) - Đất sườn tích trên bazan
trẻ (Q11-Q12) hoặc cổ
(N2-Q11) không có nền
laterit.
- Địa hình bằng, lượn
sóng, dốc nhẹ 0-8
0
.
- Không có cực đoan về
nhiệt ẩm.
Phục hồi bằng các biện
pháp nông học, sản xuất
nông lâm kết hợp
1.4.1 Xói mòn, xói lở
Lượng đất mất do xói mòn là rất lớn và phụ thuộc vào độ dốc, chiều dài sườn
dốc, thực trạng lớp phủ trên mặt đất, dao động từ 100 đến 500 tấn đất/ha/năm. Theo

nghiên cứu về lượng xói mòn trên đất canh tác rẫy ở Tây Bắc của hội Khoa Học Đất
Việt Nam:
Vụ Độ dày tầng đất bị xói mòn (cm) Lượng đất mất (tấn/ha)
Vụ 1 (1962) 0,79 119,2
Vụ 2 (1963) 0,88 134,0
Vụ 3 (1964) 0,77 115,5
Cả 3 vụ gieo 2,44 366,7
Trung bình, lượng chất dinh dưỡng của đất hàng năm bị mất đi là chất hữu cơ
5.600 tấn/năm; nitơ 199,2 kg/năm; lân 163,2 kg/năm; Ca và Mg 33 kg/năm.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, đất đồi núi miền Bắc nước ta hàng năm
mất khoảng 1cm tầng đất mặt (100m
3
/ha), trong đó có khoảng 6 tấn mùn (tương
4
đương khoảng 100 tấn phân chuồng) và 300kg N (tương đương khoảng 1,5 tấn
sunphat amon). Đặc biệt, có nơi như Tây Bắc mất đi khoảng 3cm đất mặt, tương
đương 150 - 300 tấn đất/ha. Mỗi năm nước cuốn ra biển khoảng 250 triệu tấn phù sa
màu mỡ, riêng sông Hồng mất đi khoảng 80 triệu m
3
/năm. Xói mòn làm thay đổi
tính chất hóa lí đất, số liệu thể hiện trong bảng sau:
Chỉ tiêu qua sát Số lượng bị trôi (%)
Cấp hạt lớn hơn 1mm 21,00
Cấp hạt nhỏ hơn 1mm 79,00
N % 0,48
P
2
O
5
% 0,23

K
2
O % 5,80
Mùn 11,00
(Nguồn: “Thổ Nhưỡng học”, Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, 1979
Theo PTS Bùi Đạt Trâm, phụ trách trạm Khí tượng – thủy văn tỉnh An Giang
nạn sụp lỡ đất trước nay chỉ xảy ra nhiều và nghiêm trọng ở dọc sông Tiền: bờ phía
An Giang khoảng 5 – 10 m/năm, phía Đồng Tháp 10 – 20 m/năm. Nhưng những
năm gần đây, sông Hậu có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều bãi bồi mới hình thành,
sụp lỡ đất ven bờ xảy ra nhiều hơn.

Xói mòn đất
Hàng triệu ha đất đồi dốc đang
trong tình trạng xói mòn, rửa trôi
nghiêm trọng do canh tác nương rẫy
và chặt phá rừng
1.4.2 Sa mạc hóa
5
Sa mạc hóa là sản phẩm cuối cùng của thoái hóa đất xảy ra ở vùng khô hạn
và bán khô hạn. Nguyên nhân do tác động qua lại giữa hạn hán và sử dụng môi
trường đất không hợp lý. Việt Nam có sa mạc cục bộ, đó là các dải cát hẹp trải dài
dọc theo bờ biển miền trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận
với diện tích khoảng 419.000 ha và ở đồng bằng sông Cửu Long với diện tích
43.000 ha. Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng
462.000 ha cát ven biển (chiếm khoảng 1,4% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc) và
87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động.
Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm
trọng. Mỗi năm có khoảng 10-20 ha đất canh tác bị lấn bởi cát di động. Ở các tỉnh
duyên hải Nam Trung Bộ, thời tiết đặc biệt khô nóng vào mùa khô, lượng mưa
trung bình hàng năm ở một số nơi chỉ đạt khoảng 700 mm (vùng nóng hạn nhất là

Ninh Thuận và Bình Thuận). Theo kết quả điều tra gần đây nhất của Viện Khoa
học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, trong số 21 triệu ha đất canh tác nông nghiệp
của Việt Nam thì đã có đến 9,34 triệu ha đất hoang hóa.
Ở Điện Biên: Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa mạnh chiếm 14.3% tổng
diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 145674,99 ha, có nhiều thời kì thiếu nước kéo dài
6-9 tháng, thời kỳ khô hạn 4-5 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa trung bình
chiếm 47,22% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 451.546,78ha. Có 6-8 tháng
thiếu nước, thời kỳ khô hạn từ 1-3 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa yếu
chiếm 30,11% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 281.952,87ha, có 4-5 tháng
thiếu nước và 1-3 tháng hạn.Vùng không bị nguy cơ hoang mạc hóa có 75.216,72
ha, chiếm 7.87% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Duyên hải Nam Trung bộ đối mặt với hoang mạc hóa:Hiện các tỉnh duyên
hải Nam Trung bộ có diện tích đất trống đồi núi trọc khá lớn (gần 1,2 triệu ha đất
hoang đồi núi và hơn 60.000 ha đất hoang đồng bằng trên tổng diện tích đất tự
nhiên hơn 3 triệu ha), đất đai khô cằn, xói mòn thoái hóa và hoang mạc hóa diễn ra
trên phạm vi nhiều địa phương.
6
Vùng duyên hải Nam Trung bộ cũng đã hình thành những dải cồn cát kéo
dài khá liên tục từ Đà Nẵng đến Bình Thuận góp phần gây nên sa mạc hóa, nhất là
phân bố ở các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, nhưng điển hình là 2 tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận. Ở Bình Định, tổng diện tích đất tự nhiên là 602.506
ha, có 425.835 ha đất xám bạc màu, trong đó diện tích đất cát 15.968 ha, đồi núi
dốc 375.000 ha; diện tích hoang mạc hóa hiện nay của Bình Định là 786 ha.
Theo các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp duyên
hải Nam Trung bộ, địa hình của dãy Kon Tum và hướng gió thổi gần song song
với hướng địa hình ven biển đã ảnh hưởng và làm cho khu vực Ninh Thuận, Bình
Thuận trở nên khô nóng quanh năm, nhất là ở Ninh Sơn (Ninh Thuận), Tuy Phong
và Bắc Bình (Bình Thuận). Tại đây có chế độ khí hậu bán khô hạn và được xem là
vùng khô hạn nhất nước, đã tạo thành vùng cát hoang mạc hóa trên diện tích hơn
131.000 ha.

Hai huyện Tuy Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang
hóa khoảng 35.000 ha phân bố trên chiều dài 50 km bờ biển. Riêng các đồi cát di
động ở đây có diện tích khoảng 5.000 ha và hiện là nguy cơ suy thoái hàng đầu
trong khu vực.
Với điều kiện khô hạn và gió mạnh, đã thường xuyên tạo ra những cơn bão
cát đe dọa chôn vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp Quốc lộ 1A trên một phạm vi
rộng hàng ngàn hécta. Nghiêm trọng nhất là khu vực cát di động ở xã Chí Công,
Liên Hương, Bình Thạnh (Tuy Phong - Bình Thuận) ảnh hưởng lớn đến sản xuất
nông nghiệp của khu vực.
Nghiên cứu thực trạng hạn hán, hoang mạc hóa ở Ninh Thuận, GS-TS Lê
Sâm và cộng sự (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) đã ghi nhận: tổng số diện
tích đất hoang mạc ở Ninh Thuận là hơn 41.000 ha, chiếm 12,21% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh. Và cho đến hiện nay, tình trạng hoang mạc hóa vẫn tiếp tục có
chiều hướng gia tăng.
7
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Xúc tiến phát triển cộng đồng và bảo vệ
môi trường (Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) cho biết: trong
tổng số khoảng hơn 852.000 ha đất trống đồi núi trọc và hoang hóa của vùng
duyên hải Nam Trung bộ thì diện tích đã và đang chịu tác động mạnh bởi hoang
mạc hóa vào khoảng 45%.

Cát lấn ở ven biển duyên hải Nam Trung Bộ
Cánh đồng bị sa mạc hóa
1.4.3 Ô nhiễm đất
Môi trường đất có thể bị ô nhiễm dẫn đến thoái hóa do nhiều tác nhân như:
nhiễm mặn, nhiễm phèn, gley hóa, ô nhiễm dầu, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại
nặng, chất hữu cơ, chất phóng xạ
8
Theo kết quả các công trình nghiên cứu của Bộ Quốc phòng VN được tiến
hành từ năm 2000 - 2004, hàm lượng trung bình của dioxin ở sân bay Đà Nẵng là

35ppb TEQ (phần ngàn tỷ) - cao gấp 35 lần cho phép đối với đất phi nông nghiệp
được quy định ở Mỹ.
Kết quả nghiên cứu của Công ty Tư vấn Môi trường Hatfield (Canada)
cũng cho thấy, mức độ ô nhiễm dioxin cao nhất trong mẫu đất ở sân bay Đà Nẵng
là 365ppb; trong mẫu máu của người dân sống gần sân bay là 1.220ppt và của hai
người dân khác sống ở khu vực lân cận khoảng 600ppt, cao hơn nhiều lần so với
mức cho phép hàm lượng dioxin trong người của các nước công nghiệp phát triển
trên thế giới.
Đất ô nhiễm do đioxin
9
Ô nhiễm đất do chất thải rắn
Ô nhiễm đất do nước thải ô nhiễm hữu cơ và kim loại nặng
Đất bị ô nhiễm dầu
Theo điều tra của Viện Lúa ĐBSCL thì trong 3 vụ lúa hàng năm, nông dân
tại Cần Thơ, Đồng Tháp bón phân hóa học các loại từ 514 - 613kg/ha. Nếu chỉ sản
xuất 2 vụ hè thu và đông xuân trong năm, nông dân bón từ 348 – 435kg/ha. Nông
dân các tỉnh còn lại trong vùng cũng bón với số lượng tương tự. Chỉ tính lượng
phân bón theo mức thấp nhất (348kg/ha) trong 2 vụ lúa đông xuân và hè thu từ
năm 1995 đến nay, mỗi năm ruộng đồng vùng ĐBSCL tiếp nhận từ 1,357 – 1,696
triệu tấn phân hóa học. Còn về nông dược, hiện chưa có số liệu thống kê cụ thể,
nhưng theo các nhà chuyên môn thì mỗi năm đồng ruộng nhận từ 10.000 tấn trở
lên. Đa số nông dân hiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tùy tiện. Điều này dẫn đến
ô nhiễm đất rất nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
10
Đất bị ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật
1.4.4 Laterit hóa
Quá trình laterit hóa (hay đá ong hóa) là quá trình thổ nhưỡng - địa chất chỉ
xảy ra ở vùng khí hậu nhiệt đới, là quá trình rửa trôi và tích tụ tuyệt đối các cation
Fe
3+

, Fe
2+
; Al
3+
; Mn
6+
. Các cation này có sẵn trong môi trường đất nhiệt đới, do sự
tác động của nước mưa, dòng thấm, nước ngầm, chúng bị rửa trôi và tập trung lại
một chỗ trong đất với mật độ cao.
Các cation này hấp thụ vào một
nhóm mang điện tích âm (hạt keo
đất, oxit sắt…) hoặc hấp phụ vào
một tác nhân khác để có thể tạo sự
kết dính giữa các cation đó nhằm
tạo nên những liên kết tương đối
bền vững. Khi nhiệt độ môi trường lên cao, độ ẩm giảm thấp, các liên kết này mất
nước, sẽ tạo nên những oxit kim loại rất cứng chắc.
Qua 2 năm điều tra khảo sát và thu thập số liệu, dữ kiện, chúng tôi có một số
kết luận sau đây (Lê Huy Bá – 1994):
“Quá trình laterit ở miền Đông Nam Bộ nói riêng và đất dốc đồi núi Việt Nam nói
chung đã và đang xảy ra một cách mãnh liệt ở hầu khắp các vùng đất, loại đất.
11
Riêng ở vùng Đông Nam Bộ với diện tích đất 357.176 ha chiếm tỉ lệ 15.14% đất
toàn miền, laterite ở miền Đông đáng báo động khẩn cấp”.
Đất bị laterit hay còn gọi là đá ong có ở nhiều nơi trên vùng đồi núi bazan
và khu vực Bắc bộ. Đá ong tập trung ở một số nơi như An Nhơn (Bình Định), các
dải đồi nằm ven biển ở khu vực bãi Rạn (Tam Quang- Núi Thành- Quảng Nam),
làng Đường Lâm (Hà Nội).
Đá ong đang được khai thác và sử dụng để
xây dựng nhà cửa, các công trình vì đây là loại đá vô

cùng rắn chắc và cũng có giá trị về mặt thẫm mỹ.
Một “mỏ” đá ong được mở ngay trên mép con
đường nối Cảng Kỳ Hà và điểm du lịch bãi Rạn.
1.4.5 Nhiễm mặn
Định nghĩa: Là quá trình xâm nhiễm mặn, tích tụ muối và các kim loại
kiềm trong môi trường đất, biến đất chưa mặn thành đất mặn.
Nguyên nhân: Nước mặn xâm nhập, sự di chuyển của nước ngầm theo mao
quản và sự bay hơi của nước bề mặt làm cho muối tập trung với nồng độ cao, quá
trình mặn hóa diễn ra thường xuyên
Tác hại:
- Năng suất cây trồng giảm mạnh khi nồng độ muối trên 4 g/l
- Nồng độ muối từ 20 – 25 gây chết ở thực vật, đất trở nên nhão và ướt,
nứt nẻ khi khô.
- Dễ dẫn đến nhiễm phèn
Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao,
đất nhiễm mặn
12
Cắt bỏ lúa cháy khô do đất nhiễm mặn
Các loại đất mặn ít và trung bình thường xuyên phân bố ở địa hình trung
bình từ 0,8 đến 1,2 m cách xa biển và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu
đời, mùa khô kiệt bị bỏ trống, chế độ bốc hơi rất mạnh, nên đất đã bị kết vón ở độ
sâu từ 80 – 100 cm (Ba Tri, Thạnh Phú ).
Loại đất mặn nhiều, mặn từng thời kỳ thường phân bố ở địa hình thấp hơn,
khi triều cường nước tràn lên, khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh
vào đầu mùa mưa. Ở tầng đất sâu 50 – 80 cm thường có lớp cát xám xanh của bãi
thủy triều, có chứa mica và nhiều mảnh vỡ vôi gốc biển.
Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố thành dải
dọc ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắm mà ngày nay đã bị tàn phá
nhiều, bị ngập thường xuyên do triều, đất thường có độ mặn rất cao, lầy thụt,
không thuận lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp.

Chiếm diện tích 96.739 ha (tỉ lệ 43,11% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu
hết ở các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Tùy theo mức độ và thời
gian nhiễm mặn, nhóm đất mặn ở Bến Tre được chia thành 4 loại:chiếm diện tích
15.127 ha (tỷ lệ 6,74% diện tích toàn tỉnh) phân bố rải rác trên toàn Bến Tre, từ
vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn.
1.4.6 Nhiễm phèn
Những vùng đất ngập nước, vùng có trầm tích xác bã thực vật nước mặn
tích tụ 4000 - 5000 năm là môi trường thuận lợi hình thành phyrite (FeS
2
) là hoạt
13
chất chủ yếu gây ra phèn hóa đất.
- Dạng phèn tiềm tàng:do đất chứa nhiều FeS
2
(khóang pyrite) do các vật
liệu có S kết hợp với sắt từ oxyt sắt bị oxy hóa à H+ làm đất rất chua
- Dạng phèn hoạt động:
FeS
2
+ O
2
+ H
2
O + K+ → KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)

6
+ SO
4
2-
+ 3H
+
KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
. → 3FeO.OH + K
+
+ 3H
+
+ 2SO
4
2-

FeO.OH → Fe
2
O
3
+ H
2
O
Tác hại:

- pH không thích hợp cho cây trồng
- Ion sắt, nhôm gây độc cho cây
- Giảm động vật và vi sinh vật có lợi trong đất
- Giảm khả năng tự làm sạch của đất

Đất nhiễm phèn
Trên thế giới có khoảng 12 triệu ha đất phèn (Van Wijk và ctv; 1992). Tại
Việt Nam, diện tích đất phèn vào khoảng 1.863.128 ha, bao gồm đất phèn tiềm
tàng là 652.244 ha và đất phèn hoạt động với 1.210.884 ha (Chiểu và ctv, 1996);
trong đó vùng hạ lưu châu thổ sông Mekong chiếm đến khoảng 1,5 triệu ha (Sterk,
1992), phần lớn tập trung trong vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán
đảo Cà Mau và một phần của Tây Nam Sông Hậu. Ở Miền Bắc đất phèn chủ yếu
tập trung ở vùng Kiến An - Hải Phòng
Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào
mùa khô trong vùng đất phèn Đồng
Tháp Mười. Lê Phát Quới, 2005
14
Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang, thuộc
địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú, với tổng diện tích
khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67%.
2. Sử dụng tài nguyên đất lâu dài bền vững
Vấn đề suy thoái tài nguyên đất đang là một vấn đề rất cấp bách có ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người và các sinh vật. Vì vậy, chúng ta
phải quản lý và sử dụng tài nguyên đất trên quan điểm bền vững để đảm bảo cho
sự phát triển bền vững trong tương lai của nhân loại. Chúng ta cần thường xuyên
thẩm định, đánh giá và thống kê hiện trạng tài nguyên đất để biết được những ảnh
hưởng của chúng ta đến môi trường đất như thế nào từ đó tìm ra những biện pháp
thiết thực để sử dụng hợp lý, hạn chế suy thoái đất và cải tạo những vùng đất đã và
đang bị thoái hóa.
2.1 Một số biện pháp hạn chế suy thoái đất

2.1.1 Làm ruộng bậc thang
Ðể xây dựng ruộng bậc thang đất đai phải có các điều kiện sau đây:
- Ðất phải có tầng dày tối thiểu từ 60 cm trở lên, đất càng dày làm ruộng
bậc thang càng thuận lợi, bề rộng của mặt ruộng càng rộng.
- Ðộ dốc có thể xây dựng ruộng bậc thang tốt nhất từ 5- 25
0
, ở những nơi
có độ dốc lớn hơn 25
0
vẫn có thể làm được ruộng bậc thang như ở vùng
Sa Pa, tuy nhiên đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và rất tốn đất.
- Những nơi làm ruộng bậc thang để trồng lúa nước đòi hỏi phải có nguồn
nước hoặc có khả năng giải quyết được nước tưới.
Nguyên tắc thiết kế ruộng bậc thang:
- Ruộng bậc thang phải thiết kế theo đường đồng mức
- Ruộng bậc thang nhất thiết phải có bờ. Mặt ruộng rộng hay hẹp phụ
thuộc vào độ dốc và tầng dày đất.
15
- Ðất bị san làm tầng không vượt quá 2/3 độ dày tầng đất ban đầu, phải
đảm bảo trả lại được lớp đất màu trên mặt, tỷ lệ sử dụng đất phải đạt 65-
70% so với diện tích ban đầu.
MÆt ®Êt ban ®Çu
Bê ch¾n
MÆt thÒm n»m ngang
M
Æ
t

®
Ê

t

b
a
n

®
Ç
u
Vïng ph©n bè dßng xãi
a)Ruéng bËc thang
*Các công trình và thềm đơn giản
Thềm cây ăn quả: là một dạng thềm canh tác không liên tục của dạng thềm
bậc thang hẹp, dốc nghịch. Thềm cây ăn quả có thể làm trên sườn dốc > 30
o
(58%). Khoảng cách giữa hai hàng cây ăn quả được bảo vệ bằng những băng lớp
phủ thực vật tự nhiên lâu năm hay các cây cỏ, cây họ đậu và các cây bảo vệ đất
khác. Cây trồng chính được trồng theo các bồn riêng.
Thềm sử dụng linh hoạt: là các dạng thềm nằm cách nhau khá xa, xen kẽ là
các dải sườn đồi chưa được xử lý dùng để canh tác hỗn hợp. Thềm để trồng cây
lương thực là chủ yếu, trong khi ở phần sườn dốc chưa xử lý ở giữa thì trồng cây
dài ngày hay cây lấy gỗ.
Thềm tự nhiên: thềm tự nhiên được hình thành sau khi tạo ra các bờ thấp
(dải chắn) bằng đất hay đá có thể thu lượm tại chỗ, hay các dải cỏ dày theo đường
đồng mức trên các sườn dốc thoải. Chúng được thiết kế và thi công sao cho đỉnh
của đê chắn phía dưới cao ngang tâm điểm giữa đoạn sườn dốc tới đê kế tiếp ở phía
trên. Sau vài năm canh tác thềm sẽ được hình thành do sự bồi đắp tự nhiên. Loại
này thường chỉ áp dụng cho sườn dốc 7-12
o
.

16
ThÒm c©y ¨n qu¶
Cá hay
th¶m thùc vËt
b)ThÒm tù nhiªn b¶o vÖ ®Êt
2.1.2 Các biện pháp nông nghiệp
Biện pháp bảo vệ bằng nông nghiệp thực chất là các kỹ thuật đã được áp
dụng qua việc quản lý, sử dụng đất trồng, chúng liên quan chặt chẽ với các quy
trình canh tác bình thường, nhưng được thiết kế hay lựa chọn một cách đặc biệt
nhằm đem lại lợi ích cho công tác bảo vệ đất trồng, chi phí đòi hỏi không lớn và
có thể áp dụng tương đối dễ dàng. Các biện pháp thường được áp dụng trong nông
nghiệp như: canh tác theo đường đồng mức, cày bừa ngang dốc, bố trí đa canh,
trồng cây thành dải, biện pháp phủ bổi, trồng cây bảo vệ đất, làm đất tối thiểu,
trồng các dải cây chắn Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ có thể áp dụng được
trên những sườn đồi núi không dốc lắm (dưới 12
o
), ở những nơi có độ dốc cao hơn
thì cần phải kết hợp giữa biện pháp nông nghiệp với các biện pháp công trình đơn
giản ở trên.
2.1.3 Biện pháp lâm nghiệp
- Giao đất, giao rừng.
- Bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng hành lang, rừng phòng hộ
môi trường.
- Trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc
- Trồng cây có bộ rễ ăn sâu, xen với cây họ đậu.
17
ι
ι
ι
ι

ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
ι
Trồng cây chống sa mạc hóa ở Hà
Tĩnh
Mô hình lạc xen sắn chống bạc màu
đất ở Bình Định
2.1.4 Biện pháp hóa học
Một số nước tiên tiến trên thế giới người ta nghiên cứu các chất kết dính
hóa học (phụ phẩm của ngành chế biến gỗ) đưa vào đất để tạo cho đất có thể liên
kết chống xói mòn. Ngoài ra người ta còn dùng một số chất có khả năng giữ đất
khác như thạch cao, sợi, thủy tinh tạo thành màng bảo vệ trên mặt đất.
2.2 Một số biện pháp cải tạo đất suy thoái
2.2.1 Biện pháp cải tạo đất xói mòn
- Trồng cây xanh là biện pháp tốt nhất để cải tạo đất xói mòn, che phủ
mặt đất bằng xác bã thực vật. Trồng cây có bộ rễ ăn sâu xen với cây họ
đậu để vừa bảo vệ đất vừa cung cấp các chất dinh dưỡng cho đất nhằm

làm cho đất trở nên tơi xốp và màu mỡ hơn.
- Bón phân vi sinh, phân hữu cơ đề tăng hàm lượng dinh dưỡng trong đất
và tăng kết cấu đất.
2.2.2 Biện pháp cải tạo đất mặn
- Bón vôi: Những vùng đất mặn có phèn nên bón vôi nung (CaO) để rửa
mặn, những vùng đất mặn không phèn nên bón vôi thạch cao (CaSO
4
)
với liều lượng khoảng 30-40 kg/1000 m
2
. Bón bằng cách rải đều trên đất
ruộng đã được cày xới và ngập nước, đối với đất liếp phải được cuốc lên
18
trước khi bón vôi. Sau khi rải vôi cần bừa hoặc trục cho vôi trộn đều
trong đất, ngâm nước từ 1-2 ngày rồi rút bỏ nước.
- Xây dựng hệ thống đê biển để nước mặn không xâm nhập vào, đồng
thời dẫn nước ngọt vào để rửa mặn cho đất
2.2.3 Biện pháp cải tạo đất phèn
- Sử dụng nước ngọt để rửa phèn: đất phèn sau khi vỡ hoang, cho ngập
nước một vài vụ đã có thể tiến hành khai thác.
- Bón vôi: giảm độc chất Fe, Al, Mn trong đất, ngăn chặn quá trình suy
thoái đất, phục hồi cấu trúc đất, làm cho đất thông thoáng, thấm nước
tốt, tăng hiệu quả của kết tủa ion sắt, nhôm của phân lân.
- Bón phân lân nung chảy: Khi bón lân, một phần lân kết hợp với Al, Fe
trở thành phốt phát Al, Fe khó tan, ít di động nên hạn chế được ngộ độc
phèn cho các cây trồng. Đối với
đất phèn nặng, lượng lân phải
được bón là 60-80kg/ha. Đối với
đất phèn trung bình thì từ 30-40
kg/ha. Sử dụng lân hữu cơ để bón

lót cho đất phèn nặng từ 350-400
kg/ha, cho đất phèn trung bình
200-300 kg/ha.
19

×