Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 135 trang )



1

LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế hiện nay của thế giới là tự do hoá thương mại và đầu tư, trong đó,
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí ngày càng quan trọng đối
với cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Khai thác sử dụng đầu tư nước
ngoài một cách có hiệu quả đang là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu của nhiều
nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển.
Kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam ban hành năm
1987, không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn mà nguồn vốn này đã
đóng góp cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nói cách khác, Việt Nam không
thể thiếu nguồn vốn này cho sự phát triển kinh tế nếu muốn hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới và không muốn tụt hậu.
Sau hàng loạt sự kiện xảy ra trong thập kỷ 90, đặc biệt là sự sụp đổ của
các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ và cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á năm 1997, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng hụt hẫng
do mất đi các thị trường truyền thống và sự suy giảm của các hoạt động kinh tế
đối ngoại. Do đó, xuất hiện một yêu cầu mới là cần phải thường xuyên mở rộng
và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác, đầu tư với nhiều nước trên thế giới, nhất
là với những nước phát triển cao, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến như các nước
EU. Tuy nhiên, cho đến nay dù các nhà đầu tư EU đã trở thành một trong ba nhà
đầu tư lớn nhất ở Việt Nam nhưng về tài chính cũng như kỹ thuật, lượng vốn
đầu tư trực tiếp mà họ đưa vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
sẵn có.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động đầu tư
trực tiếp của EU vào Việt Nam, phân tích những thành công cũng như trở ngại
của hoạt động này không những sẽ giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn bức
tranh đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, mà còn góp phần cung cấp những
hiểu biết để đưa ra những chính sách, kiến nghị góp phần tích cực vào việc thúc


đẩy hơn nữa hoạt động này. Đây sẽ là những căn cứ quan trọng để hoạch định
chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các nước EU.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài "Đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU
vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" để nghiên cứu cho khoá luận tốt
nghiệp. Để viết bài, tôi đã sử dụng các phương pháp luận sau: phương pháp


2
phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp và diễn giải,
phương pháp liệt kê,...
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 chương:
Chương I : Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II : Thực trạng thu hút FDI của EU vào Việt Nam
Chương III : Các giải pháp đẩy mạnh FDI của EU vào Việt Nam



















3

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Để phân tích và đánh giá rõ ràng và đầy đủ về tình hình đầu tư trực tiếp
nước ngoài của EU vào Việt Nam, trước hết chúng ta cần hiểu một số vấn đề về
lý luận về đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các hình thức, vai trò,
các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác chúng ta cũng
xem xét các xu hướng vận động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
Thế giới và ở Việt Nam để chuẩn bị cơ sở cho việc phân tích, đánh giá trong
chương sau.
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (ĐTTTNN):
1.Khái niệm đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Trong một vài thập niên trở lại đây, người ta đã được chứng kiến sự bùng nổ mạnh
mẽ của hoạt động đầu tư quốc tế (ĐTQT) trên phạm vi toàn cầu. Nó cùng với thương m
quốc tế là hai xu hướng nổi bật nhất trong nền kinh tế Thế giới. Mặc dù ra đời sau hoạt
động thương mại quốc tế, nhưng hoạt động ĐTQT đã chứng tỏ được vai trò to lớn đối với
sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, và nền kinh tế Thế giới.
Tuy có vai trò và sức ảnh hưởng to lớn như vậy, nhưng khái niệm về ĐTQT
không phải là một khái niệm xa lạ và khó tiếp cận. ĐTQT thực chất là một quá
trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc
gia khác với mục đích sinh lời.
Yếu tố quốc tế trong ĐTQT thể hiện ở chỗ các bên hợp tác đầu tư có quốc tịch khác
nhau, vì vậy mới có sự di chuyển vốn giữa các quốc gia mà các bên mang quốc tịch. ĐTQT
là một quá trình diễn ra trong một thời gian dài, có thể từ 5 đến 20 năm và có thể lên t

50 năm hoặc lâu hơn. Vốn ĐTQT được biểu hiện dưới nhiều hình thức, có thể là tiền mặt,
giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử mặt dụng đất, bằng phát
minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật hay nhãn hiệu hàng hoá, kinh nghiệm quản lý hay danh
tiếng của công ty, v.v… Lợi ích mà hoạt động ĐTQT đem lại cũng rất đa dạng, không chỉ
là lợi ích kinh tế mà còn có cả lợi ích chính trị văn hoá - xã hội, lợi ích về môi trư
ĐTQT được chia ra thành hai loại hình đầu tư cơ bản: Đầu tư gián tiếp và đầu tư tr


4
tiếp. Với phạm vi đề án này, tôi chỉ đề cập đến loại hình đầu tư trực tiếp trong ĐTQT, hay
còn gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN).
ĐTTTNN (Foreign Direct Investment – FDI) là một hình thức di chuyển
vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý
và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Thực chất, ĐTTTNN là việc các công ty nước ngoài đầu tư vốn vào nước sở
tại, nhằm xây dựng các cơ sở sản xuất và làm chủ toàn bộ hoặc từng phần cơ sở
đó. Nói khác đi, đây chính là hình thức mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một
số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, và điều đó cho phép họ trực
tiếp tham gia điều hành dự án đầu tư có toàn bộ hoặc một phần số vốn của họ.
Trong hoạt động ĐTTTNN, nước đi đầu tư được gọi là nước chủ nhà, còn
nước tiếp nhận vốn đầu tư được gọi là nước sở tại.
Hoạt động ĐTQT nói chung và hoạt động ĐTTTNN nói riêng hình thành
không chỉ đơn thuần là do mong muốn của các nhà đầu tư hay của các quốc gia
đi đầu tư, mà đó chính là một tất yếu khách quan.
2. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài
ĐTTTNN hình thành là do sự cần thiết khách quan và khả năng sẵn có
của các quốc gia, thể hiện ở một số điểm sau :
- Do sự gặp gỡ lợi ích giữa các bên trong hoạt động ĐTTTNN:
+ Đối với bên đi đầu tư: Do có nhiều vốn và cạnh tranh khốc liệt nên

tỷ suất lợi nhuận của vốn giảm, ĐTTTNN sẽ giúp họ tìm được nơi đầu tư có lợi
nhuận cao, xâm chiếm thị trường và tránh được hàng rào thuế quan và phi thuế
quan (trong xu hướng bảo hộ mậu dịch). Từ đó hình thành nên những tập đoàn
lớn, đa quốc gia và xuyên quốc gia.
+ Đối với bên tiếp nhận vốn đầu tư: Do thiếu vốn tích luỹ, do nhu
cầu tăng trưởng, nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ và tiếp nhận kinh nghiệm
quản lý tiên tiến... để khai thác tài nguyên, tạo việc làm cho dân cư, và đặc biệt
đối với các nước đang phát triển, thu hút vốn ĐTTTNN còn bảo đảm cho nhu
cầu tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
(CNH - HĐH).


5
- Do nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng công trình
có quy mô và cần hoạt động vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia đòi hỏi
phải có sự phối hợp của nhiều nước, chẳng hạn như việc xây dựng các đường
ống dẫn dầu và khí đốt, xây dựng hệ thống lưới điện xuyên Châu Âu, xây dựng
tuyến cáp quang nối liền nhiều nước Châu Á.
Những nguyên nhân cơ bản trên đây khiến cho hoạt động đầu tư quốc tế
hình thành và phát triển với quy mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, khác với loại
hình đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp trong ĐTQT có xu hướng phát triển mạnh
mẽ hơn rất nhiều. Đó là do những đặc điểm riêng của loại hình đầu tư này.
3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Dựa trên cơ sở phân biệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp trong
ĐTQT, căn cứ vào thực tiễn hoạt động ĐTTTNN trên thế giới, có thể rút ra một
số đặc điểm nổi bật sau đây về ĐTTTNN:
* Các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện việc đầu tư trên nước sở tại nên
ngoài việc phải tuân thủ luật pháp nước chủ nhà, luật pháp quốc tế, còn phải
tuân thủ theo các quy định của pháp luật của nước sở tại đề ra đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động ĐTTTNN

của các nước thường là Luật đầu tư nước ngoài.
* Các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn
pháp định, tùy theo quy định của luật đầu tư của mỗi nước. Vốn pháp định trong
dự án ĐTTTNN là vốn tự có của chủ đầu tư được quy định theo luật đầu tư. Sau
khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia vào việc quản lý
và điều hành dự án đầu tư. Ở Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài quy định tỷ lệ
góp vốn của bên nước ngoài tối thiểu không dưói 30% vốn pháp định và không
quy định giới hạn vốn tối đa. Ở Mỹ tỷ lệ này được quy định là 10%, một số
nước khác là 20%.
* Quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi
bên, và sự hoạt động dưới bất cứ hình thức nào của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại. Chẳng hạn, nếu vốn góp của
nhà đầu tư là 100% thì nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền quản lý doanh
nghiệp, và quyền này sẽ bị giảm đi nếu tỷ lệ vốn góp giảm xuống.


6
* Lợi nhuận mà chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp
định. Phần lợi nhuận này thường được các nhà đầu tư chuyển về nước sau khi đã
nộp một khoản thuế hoặc cũng có thể được sử dụng để tái đầu tư ở nước sở tại.
* Hoạt động ĐTTTNN được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc
mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp vốn với nhau. Hoạt
động ĐTTTNN thực hiện ở nước sở tại, nên toàn bộ quá trình từ đăng ký, triển
khai, đến vận hành và kết thúc dự án ĐTTTNN phải chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật tương ứng, thường là luật đầu tư nước ngoài. Ví dụ ở Việt Nam, hoạt động
ĐTTTNN chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành
năm 1987, ngoài ra còn có trên 90 văn bản dưới luật do Chính phủ và các Bộ
ban hành nhằm quy định chi tiết việc thi hành đầu tư tại Việt Nam, chẳng hạn

như Thông tư số 12/BKH của Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Nghị định 24/CP của
Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2000.
Ngoài ra, hoạt động ĐTTTNN còn mang một số đặc điểm mới sau:
* Hiện tượng đa cực và đa biên trong ĐTTTNN là hiện tượng đặc thù
không chỉ gồm nhiều bên với tỷ lệ vốn góp khác nhau mà còn có các hình thức
khác nhau của tư bản như tư bản tư nhân và Nhà nước cùng tham gia.
* Tồn tại hiện tượng hai chiều trong ĐTTTNN: hiện tượng một nước vừa
tiếp nhận vốn đầu tư từ nước khác, vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận
dụng lợi thế so sánh giữa các nước với nhau.
* Do quyền lợi của chủ đầu tư gắn liền với lợi ích do đầu tư đem lại cho
nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý, tay
nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
* ĐTTTNN liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa
quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
Với những đặc điểm trên ĐTTTNN đã có những tác động rất lớn đối với
cả quốc gia đi đầu tư lẫn quốc gia tiếp nhận đầu tư.
II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI:
ĐTTTNN là một hoạt động có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn và mang
tính hai mặt. Nó không chỉ tác động lên nước đầu tư mà còn ảnh hưởng đối với
nước tiếp nhận đầu tư.


7
1. Vai trò đối với nước chủ nhà:
Đối với nước chủ nhà, ĐTTTNN đem lại cho họ những lợi ích sau:
- Thứ nhất, bằng hoạt động ĐTTTNN các chủ đầu tư có khả năng trực
tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, do đó có thể khai thác hiệu quả số
vốn của họ. Đây là ưu điểm vượt trội so với loại hình đầu tư gián tiếp, trong đó
chủ đầu tư không trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn
ra mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay để kiếm lời qua lãi cho vay hay lợi tức

cổ phần.
- Thứ hai, Thông qua hình thức ĐTTTNN, các chủ đầu tư có thể chiếm
lĩnh thị trường nước ngoài và tiếp cận được nguồn nguyên liệu của nước sở tại
mà không phải chịu chi phí nhập khẩu và chi phí vận chuyển. Thay vì việc xuất
khẩu vào một thị trường nào đó, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sản xuất và cho
tiêu thụ sản phẩm ngay trên thị trường này thông qua ĐTTTNN. Bên cạnh đó,
nhà đầu tư nước ngoài còn tận dụng được nguồn nguyên liệu ở nước sở tại mà
không phải nhập khẩu từ một nước thư ba. Chẳng hạn, Công ty Honda của Nhật
Bản từ khi đầu tư vào Việt Nam đã chuyển hẳn từ việc xuất khẩu trực tiếp xe
máy vào Việt Nam sang sản xuất linh kện và lắp ráp tại chỗ, khiến cho giá thành
một chiếc xe máy giảm đáng kể mà chất lượng vẫn không bị hạn chế.
- Thứ ba, các chủ đầu tư nước ngoài có thể tận dụng được nguồn nhân
công giá rẻ, giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động. Bởi vì, ở
những nước tiếp nhận vốn (thường là nước chậm và đang phát triển) thì mức
sống cũng như mức lương là rất thấp, nguồn lao động lại dồi dào, do đó làm
giảm đáng kể chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp ĐTTTNN. Có thể lấy
trường hợp Nhà máy bia Đông Nam Á (Bia Halida và Carlbergs) của Đan Mạch
tại Việt Nam làm ví dụ. Nhờ nắm bắt được thị hiếu của người Việt Nam nên
Nhà máy đã có doanh thu vượt vốn đầu tư vốn đầu tư ban đầu mặc dù vốn thực
hiên mới chỉ đạt 50%.
- Thứ tư, do xây dựng được các doanh nghiệp trong lòng nước sở tại mà
các chủ ĐTTTNN tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước đó, đồng thời
có thể nắm bắt được thông tin về thị trường, như quan hệ cung cầu, thị hiếu của
khách hàng và kịp thời cải thiện mẫu mã chất lượng sản phẩm. Đây là lợi thế
hơn hẳn so với việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường nước sở tại.


8
- Thứ năm, ĐTTTNN giúp các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ lạc hậu,
gây ô nhiễm môi trường, chuyển giao những máy móc, thiết bị lão hoá sang các

nước đang và kém phát triển. Ví dụ như những nước chuẩn bị chuyển sang sử
dụng công nghệ nguồn như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… thì những nước
chậm và đang phát triển trở thành thị trường nhập khẩu những công nghệ thế hệ
cũ của các nước này.
- Thứ sáu, ĐTTTNN còn giúp nước chủ nhà bành trướng sức mạnh về
kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế... Thường những nước có
tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế thế giới như Mỹ,
Đức, Pháp, Nhật Bản… là những nước đầu tư đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế
giới.
Tuy vậy, ĐTTTNN cũng thể hiện tính 2 mặt của nó ngay cả với nước chủ
nhà. Mặt tiêu cực của hoạt động này thể hiện ở việc làm giảm một nguồn vốn
đáng kể ở nước đi đầu tư. Vốn là 1 nguồn lực quan trọng của mọi quốc gia việc
di chuyển nó ra khỏi biên giới không chỉ khiến cho nước đi đầu tư mất đi nguồn
lực này nà còn làm thâm hụt cán cân thanh toán. ĐTTTNN cũng buộc nước phải
san sẻ 1 phần công nghệ mới và những kinh nghiệm quản lý đã tích góp được
của mình. Đó là chưa kể đến những rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải ở nước tiếp
nhận khi thực hiện hoạt động đầu tư. Nhưng dù có rủi ro đến mức nào đi nữa thì
ĐTTTNN cũng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Lợi ích của nước đi đầu tư thì có thể nhìn thấy một cách rõ ràng như vậy,
tuy nhiên, đứng ở góc độ nước tiếp nhận thì việc đánh giá tác động của việc
ĐTTTNN phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhiều mặt.
2. Vai trò đối với nước sở tại:
2.1. Nước sở tại là nước phát triển:
Hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế đang đổ dồn vào các nước công
nghiệp phát triển như Mỹ và Tây Âu. Những nước này trở thành những trung
tâm thu hút vốn lớn nhất thế giới. Đối với những quốc gia này, ĐTTTNN đã
giúp tái cơ cấu nền kinh tế, hiện đại hoá những ngành công nghiệp quan trọng,
phát triển các ngành mũi nhọn... Và một số những lợi ích cơ bản sau:
* Giúp giải quyết khó khăn về vấn đề kinh tế - xã hội như thất nghiệp và
lạm phát. Đây là 2 vấn đề mà nhiều nước phát triển đang phải đương đầu, khi



9
dòng vốn ĐTTTNN chảy vào, các công ty, các doanh nghiệp mọc lên và thu hút
nhiều lao động trực tiếp, đồng thời tạo ra một đội ngũ lao động gián tiếp hoạt
động trong các ngành dịch vụ, bổ trợ. Bên cạnh đó các công ty, các doanh
nghiệp này sẽ tạo ra một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ phong phú và đa
dạng trên thị trường, góp phần làm giảm nguy cơ tăng giá và kìm chế lạm phát.
* Cứu nguy cho một số xí nghiệp trên bờ vực phá sản thông qua việc mua
lại của các chủ ĐTTTNN. Khi đó, các công ty sẽ thoát khỏi cảnh nợ nần và có
cơ hội phát triển trở lại, giữ vững chỗ đứng và danh tiếng trên thị trường. Đối
với các công ty lớn thì việc bị phá sản sẽ dẫn đến phản ứng dây truyền trên thị
trường và tác động xấu đến thị trường chứng khoán, chẳnh hạn như vụ sụp đổ
của tập đoàn năng lượng Enron và công ty kiểm toán Arthur Anderson của Mỹ
năm 2001.
* Tăng thu ngân sách thông qua việc thu các loại thuế. Chẳng hạn như
thuế thu nhập, thuế chuyển lợi nhuận về nước, thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT…
nhà nhà đầu tư nước ngoài phải nộp cho nước sở tại. Đây là một trong những
nguồn bổ sung lớn vào ngân sách quốc gia của các nước phát triển.
* Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương
mại. Ở các nước phát triển, cơ chế thị trường rất phát triển và có tính cạnh tranh
cao, khi các nhà ĐTTTNN thâm nhập vào sẽ mở rộng thêm sân chơi này, làm
tăng động lực phát triển kinh tế.
* Giúp trao đổi kinh nghiệm quản lý và chiến lược cạnh tranh trong kinh
doanh.v.v... Đó chính là kết quả được tạo ra do mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp nước sở tại và các doanh nghiệp ĐTTTNN. Cũng nhờ đó mà các doanh
nghiệp nước sở tại tích trữ được những kinh nghiệm về đầu tư và thâm nhập thị
trường nước ngoài.
2.2. Nước sở tại là nước chậm và đang phát triển
Bên cạnh dòng vốn đổ xô vào các nước tư bản phát triển, còn có một lưu

lượng vốn lớn chảy vào các nước chậm và đang phát triển. Đối với những nước
này, tác động của hoạt động ĐTTTNN được đánh giá trên hai mặt cơ bản: mặt
tích cực và mặt tiêu cực.
Hoạt động ĐTTTNN ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt
của nó đối với những nước chậm và đang phát triển, thể hiện ở những điểm sau:


10
- Thứ nhất, ĐTTTNN bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển, khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra
thế và lực phát triển mới.
Vốn là một yếu tố quan trọng của tăng trưởng, đặc biệt trong giai đoạn
đầu phát triển kinh tế. Nhiều nhà kinh tế đã giải thích sự nghèo khó của các
nước chậm và đang phát triển thông qua cái "vòng luẩn quẩn" mà các nước này
đang phải đối mặt. Đó là: Do sản lượng và thu nhập thấp, nên tích luỹ và đầu tư
phát triển thấp, do đầu tư phát triển thấp nên trình độ khoa học công nghệ thấp,
dẫn đến năng suất lao động thấp, kết quả là sản lượng và thu nhập thấp... Cái
"vòng luẩn quẩn" này cứ tiếp diễn và quốc gia đó sẽ không phát triển nếu như
không có một "cú huých" từ bên ngoài. Đó chính vốn ĐTTTNN.
Thiếu vốn tích luỹ đã hạn chế quy mô và hạn chế đổi mới kinh tế, gây ra
tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên bị
thâm hụt, thiếu dự trữ ngoại tệ... Vì vậy, ĐTTTNN sẽ thúc đẩy xuất khẩu, nhập
khẩu và làm tăng thu ngoại tệ, cải thiện tình trạng của cán cân thanh toán thâm
hụt. Thực tế cho thấy, trong 3 thập kỷ qua các nước công nghiệp mới (NICs)
Châu Á đã nhận được trên 50 tỷ USD vốn ĐTTTNN, đây là nhân tố quan trọng
giúp các nước này trở thành những con rồng Châu Á (Theo: Giáo trình sau đại
học, môn: Kinh tế quốc tế).
Thông qua vốn ĐTTTNN, nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai,
tài nguyên,…) được khai thác và đưa vào sử dụng tương đối có hiệu quả; đồng
thời, các quốc gia này cũng chủ động hơn trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư; dành

nhiều vốn ngân sách, vốn đầu tư trong nước cho đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội và đầu tư vào những vùng khó khăn, tạo tốc độ tăng trưởng đồng đều
va hợp lý giữa các vùng.
Ở những nước chậm và đang phát triển, một bộ phận vốn lớn đang nằm
trong tay dân cư. Hoạt động ĐTTTNN là động lực huy động được nguồn vốn
này đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các nước này tiếp thu
được cách quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình.
- Thứ hai, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển tiếp cận
và mở rộng thị trường quốc tế nâng cao năng lực xuất khẩu. Các nước này đã sử
dụng nguồn vốn ĐTTTNN như là một lá bài chính trong chiến lược "công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu". Một số nước có tỷ lệ đóng góp của tư bản


11
nước ngoài vào việc xuất khẩu khá lớn, chẳng hạn như Xingapo là 72,1%,
Braxin 32,2%, Mêxicô 32,1%, Đài Loan 25,6%, Hàn Quốc 24,6%, Áchentina
24,9%, Thái Lan 23,7%... (Nguồn: Giáo trình sau đại học, môn: Kinh tế quốc
tế), khi tỷ trọng xuất khẩu trong GDP tăng lên cũng có nghĩa là độ mở của nền
kinh tế tăng lên. Điều đó giúp cho các nước chậm và đang phát triển tham gia
tích cực hơn vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Chẳng hạn ở Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu
vực ĐTTTNN tăng khá nhanh: trong 8 năm 1988- 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD,
thời kỳ 1996-2002 đạt trên 18,775 tỷ USD, tăng hơn 15 lần so với 8 năm trước
và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước (Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài -
Bộ KH & ĐT). Ngoài ra, khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong
nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du
lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho
các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các
thị trường quốc tế.
- Thứ ba, ĐTTTNN góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các nước chậm

và đang phát triển theo hướng công nghệp hoá, hiện đại hoá và đưa nền kinh tế
các nước này tham gia vào phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
Hoạt động ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào các ngành quan trọng của nền
kinh tế, chẳng hạn như các lĩnh vực: công nghiệp chế tạo, công nghiệp lắp ráp
có trình độ công nghệ tương đối cao. Khi tỷ trọng ngành công nghiệp ổn định
trong nền kinh tế đã tăng lên thì các nước này có thể tham gia vào việc phân
công lao động quốc tế thông qua việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng
có lợi thế so sánh đối với phần còn lại của thế giới.
Đối với Việt Nam, hoạt động ĐTTTNN trong những năm đầu (ngoài dầu
khí) tập trung nhiều vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn
phòng cho thuê...), nhưng trong thời kỳ 1996-2002 tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề hợp lý hơn, hướng vào sản xuất,
chế biến xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng; trong đó, ĐTTTNN trong các
ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện
(so với tỷ lệ tương ứng là 52,7% và 56% thời kỳ 1991-1995). Cơ cấu ĐTNN
trong lĩnh vực dịch vụ chuyển dịch mạnh, trong thời kỳ 1996-2002, các dự án
kinh doanh bất động sản giảm 52%, trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kỹ


12
thuật (viễn thông, dịch vụ kỹ thuật) tăng 1,4 lần 8 năm trước (Nguồn: Vụ Đàu tư
nước ngoài - Bộ KH & ĐT).
- Thứ tư, hoạt động ĐTTTNN giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm và phát
triển nguồn nhân ở các nước chậm và đang phát triển.
Thông qua việc đầu tư mới, hoặc mở rộng quy mô của các đơn vị kinh tế,
ĐTTTNN đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho người lao động, qua đó làm
tăng thu nhập của người dân. Chẳng hạn, ở Xingapo, Braxin, Mêxcô, tỷ lệ lao
động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN trong tổng số lao động lần lượt
là: 54%, 23%, 21% (Theo: Giáo trình sau đại học môn: Kinh tế quốc tế), đây là
những tỷ lệ tương đối cao và có ý nghĩa lớn trong việc giảm thất nghiệp ở các

nước này.
Ở Việt Nam, cho đến năm 2002, khu vực ĐTTTNN đã thu hút trên 35 vạn
lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung
ứng dịch vụ.... Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng cao
năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước
ngoài. Qua hợp tác đầu tư, người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp
thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp và
thích ứng dần với cơ chế lao động mới. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp
từng bước được cải thiện. Đội ngũ cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực ĐTNN ngày
một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý.
- Thứ năm, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển tiếp thu
được nguồn công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu
tư nước ngoài.
Phần lớn công nghệ hiện có ở các nước này là công nghệ lạc hậu, năng
suất thấp, bên cạnh đó, khả năng quản lý kém hiệu quả. Hơn nữa, việc nhập
khẩu công nghệ hiện đại của nước ngoài đòi hỏi một khoản ngoại tệ rất lớn.
Trong khi đó, ĐTTTNN có sự quản lý trực tiếp của nhà quản lý đầu tư, do đó họ
sẽ lựa chọn được công nghệ thích hợp và đưa ra phương pháp quản lý hiệu quả.
Như vậy, ĐTTTNN là một kênh chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý
quan trọng đối với các nước chậm và đang phát triển.
Chẳng hạn ở Việt Nam, ĐTTTNN đã góp phần nâng cao năng lực công
nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được du nhập vào nước
ta, nhất là trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ôtô,


13
xe máy,... tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển một số ngành
kinh tế mũi nhọn của đất nước. Ví dụ như công nghệ khai thác dầu khí ngoài
khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rôbốt; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện
tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông tin, cáp điện,...

Nhìn chung trang thiết bị đồng bộ, có trình độ cao hơn hoặc bằng các thiết bị
tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Vấn
đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp ĐTTTNN rất quan tâm. Bên
cạnh đó, các dự án ĐTTTNN sử dụng nhiều lao động được khuyến khích đầu tư,
nhất là trong lĩnh vực gia công, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may,
giày dép, đầu tư vào KCN, KCX,....
-Thứ sáu, ĐTTTNN góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới.
Đối với những nước chậm và đang phát triển, việc thoát khỏi thế cô lập và
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chiến lược hợp lý trong xu thế toàn
cầu hoá nền kinh tế Thế giới. Thông qua hoạt động ĐTTTNN, các nước này có
cơ hội tiếp cận với các nước phát triển, các công ty xuyên quốc gia (TNCs), qua
đó cũng đưa được hình ảnh của mình ra Thế giới. Với vai trò này của ĐTTTNN,
có thể lấy Việt Nam làm một ví dụ điển hình. Cho đến hết năm 2002, đã có trên
70 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án ĐTTTNN ở Việt Nam, và trên 80 TNCs
nằm trong danh sách 500 TNCs hàng đầu trên Thế giới đầu tư ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, ĐTTTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung
với EU, bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại song phương với
Mỹ; tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế).
Chính những đổi mới của nền kinh tế nói chung, về môi trường kinh doanh
trong lĩnh vực ĐTNN nói riêng những năm qua cũng góp phần quan trọng trong
việc khôi phục và gia tăng nguồn vốn ODA cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay
(Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài - Bộ KH & ĐT).
-Thứ bảy, ĐTTTNN giúp các nước chậm và đang phát triển từng bươc
thực hiện việc đầu tư ra nươc ngoài để mở rộng thị trường.
Đây chính là một đặc điểm mới của hoạt động ĐTTTNN hiện nay (như đã
trình bày trong phần I, 2). Tình hình phổ biến trên thế giới hiện nay là các nước
phát triển không chỉ đầu tư ra nước ngoài mà còn là nước tiếp nhận ĐTTTNN



14
lớn nhất (chiếm khoảng 91,5% tổng vốn đầu tư ra ngoài và 73,5% tổng vốn
ĐTTTNN nhận vào); đồng thời, nhiều nước đang phát triển, nhất là các nước
công nghiệp mới cũng từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài (chiếm khoảng
26,5% tổng vốn ĐTTTNN nhận vào và 8,5% tổng vốn đầu tư ra ngoài) (Nguồn:
Vụ Đầu tư nước ngoài - Bộ KH & ĐT). Việc đồng thời tiếp nhận vốn và đầu tư
ra ngoài là xu hướng khách quan của toàn cầu hoá, tạo nên dòng đối lưu trong
luân chuyển vốn quốc tế. Cánh kéo giữa hai dòng đối lưu này phụ thuộc quan
trọng vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia và ngày càng thu hẹp cùng
với trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế.
Đến 31/12/2002, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 72 dự án đầu tư ra 19
nước và vùng lãnh thổ, với số tổng số vốn đầu tư khoảng 181 triệu USD, chủ
yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, dầu khí ngoài khơi, thương mại -
dịch vụ, xây dựng. Tuy số dự án chưa nhiều và quy mô còn nhỏ, nhưng đây là
hướng đi đúng, phù hợp với xu hướng chung, mở ra khả năng đầu tư vào các dự
án có hiệu quả về nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng dân dụng, thủ công mỹ
nghệ, dầu khí,... tại Lào, Campuchia, Liên bang Nga, Hồng Kông, Singapore,
Trung Cận Đông. Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp
Việt Nam có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài. (Xem phụ lục 2)
- Thứ tám, ĐTTTNN giúp hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, thủ
tục hành chính ở các nươc chậm và đang phát triển.
Đây là kết quả của quá trình ban hành và sửa đổi liên tục các đièu luật và
các thể chế, chính sách cũng như cơ nhế hành chính ở nước sở tại, với mục tiêu:
cải tạo môi trường đầu tư để đẩy mạnh khả năng thu hút vốn ĐTTTNN.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản luật pháp, chính sách quan trọng về ĐTNN như: Luật ĐTNN năm
1996, Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN, và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Dầu khí
năm 2000; các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN của Chính phủ (như:

Nghị định 12/CP, Nghị định 10/1998/NĐ-CP, Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Chỉ
thị số 11/1998/CT-TTg và Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ) nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Những chính sách tập trung vào
tháo gỡ khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế cho các doanh nghiệp
ĐTNN (như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, cho dãn, hoãn, tiến độ hoặc thay đổi


15
mục tiêu dự án, giảm chi phí đầu tư); đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng
quyền tự chủ của các doanh nghiệp ĐTTTNN, khuyến khích ĐTTTNN vào
những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần thu hút vốn ĐTTTNN..., được các nhà đầu
tư đánh giá cao.
Mặc dầu ĐTTTNN đem lại những lợi ích lớn cho các nước chậm và đang
phát triển nhưng những lợi ích đó luôn đi kèm với những tác động tiêu cực. Mặt
trái của hoạt động ĐTTTNN thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Một là, ĐTTTNN dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan, huỷ hoại tài nguyên
môi trường nếu như công tác quy hoạch ở nước sở tại kém hiệu quả. Chính phủ
của các nước chậm và đang phát triển có vai trò quyết định trong việc điều tiết
cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng... có lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy
nhiên, việc làm trên đôi khi lại đi trái với lợi ích của các chủ đầu tư ngoại quốc,
vì các dự án ĐTTTNN thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận hơn là những lợi ích
cho xã hội. Do vậy, các nước chậm và đang phát triển phải luôn thận trọng trong
quá trình quy hoạch đầu tư, thẩm định và quản trị các dự án ĐTTTNN.
- Hai là, cơ cấu đầu tư nước ngoài ở các nước chậm và đang phát triển
thường bất hợp lý. Nếu nước sở tại không chủ động điều chỉnh được cơ cấu đầu
tư theo ngành, vùng... theo ý muốn đây sẽ là nguy cơ của sự phát triển không
đều giữa các ngành các ngành, vùng kinh tế.
- Ba là, công nghệ chuyển giao trong ĐTTTNN thường là công nghệ lạc
hậu, cũ kỹ, giá cao, gây ô nhiễm môi trường và được chuyển giao một cách nhỏ
giọt, khiến cho các nước sở tại luôn phải chạy theo công nghệ của nước ngoài,

gây tốn kém thời gian và tiền của.
- Bốn là, khả năng góp vốn của các nước chậm và đang phát triển còn
hạn chế. Đối với các nước này, vốn góp trongliên doanh với doanh nghiệp nước
ngoài thường là giá trị quyền sử dụng đất nên tỷ lệ vốn góp không đáng kể.
Trong khi đó các nước này thiếu cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để
góp vốn liên doanh với nươc ngoài. Do đó, tỷ lệ lợi nhuận phân chia thường là
thấp và ít có quyền lợi và ảnh hưởng trong liên doanh.
- Năm là, môi trường đầu tư ở các nước chậm và đang phát triển thường
kém hấp dẫn. Đây là nguyên nhân mà phần lớn dòng vốn đầu tư đổ dồn vào các
nước công nghiệp phát triển trên thế giới.v.v.


16
- Sáu là, trong các dự án ĐTTTNN, do phía nước tiếp nhận thiếu kinh
nghiệm quản lý nên thường bị thua thiệt. Chẳng hạn việc quản lý tài chính
không rõ ràng dẫn đến tình trạng trốn thuế, làm giải nguồn thu ngân sách. Hơn
nữa tinh trạng chung của các nước chậm và đang phát triển là sự thiếu năng lực
của cán bộ quản lý, gây ra sự kém hiệu quả của hoạt động ĐTTTNN.
Nói tóm lại, những tác động trên đây của ĐTTTNN mới chỉ được nhìn
nhận một cách chung nhất. Đối với mỗi quốc gia thì hoạt động ĐTTTNN lại có
những ảnh hưởng riêng biệt do đặc thù của quốc gia đó. Đôi khi, những tác động
trên lại phụ thuộc vào hình thức ĐTTTNN mà nhà đầu tư lựa chọn ở nước sở
tại.
III. CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
Trong thực tiễn, hoạt động ĐTTTNN có nhiều hình thức tổ chức khác
nhau, trong đó có 4 hình thức phổ biến là:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng;
- Doanh nghiệp liên doanh;
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;

-Hình thức đầu tư theo phương thức BOT, BT, BTO.
Mỗi hình thức có những đặc trưng riêng, cụ thể từng hình thức như sau:
1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay còn gọi là hợp
đồng hợp tác kinh doanh là hình thức mà các bên đối tác (bên nước ngoài và bên
nước sở tại) sẽ hợp tác kinh doanh với nhau theo một hợp đồng kinh doanh.
Hình thức này không hình thành nên một pháp nhân ở nước sở tại, mà nhà
đầu tư nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện của mình. Các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các bên được tiến hành theo nội dung và các điều
lệ của hợp đồng.
Theo Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, Hợp đồng hợp tác kinh doanh
là hình thức đầu tư trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau thực
hiện hợp đồng được ký kết giữa hai bên về việc cùng phối hợp với nhau trong
sản xuất hoặc tiêu thụ một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó với sự quy định rõ
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh


17
doanh. Thông thường, hình thức này chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng số vốn
ĐTTTNN. Do hình thức này khó thực hiện trên thực tế và hiệu quả đem lại
thường không cao.

2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là một tổ chức kinh doanh quốc tế của
các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ ở cùng góp vốn, cùng kinh
doanh, cùng quản lý, và cùng phân phối kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các
cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD phù hợp với khuôn khổ
luật pháp nước sở tại.
Khác với hình thức Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, hình thức
DNLD có một số đặc trưng cơ bản sau:

- Đặc trưng về pháp lý:
+ Trước hết, DNLD là một pháp nhân của nước sở tại. Do đó,
doanh nghiệp này phải hoạt động theo luật pháp của nước sở tại. Hình thức pháp
lý của liên doanh là do các Bên thoả thuận phù hợp với các quy định của Pháp
luật nước sở tại. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ cho phép các DNLD hoạt
động với hình thức công ty TNHH. Ở nhiều nước, DNLD còn được phép hoạt
động dưới hình thức công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp vốn...
+ Bên cạnh đó, quyền quản lý doanh nghiệp còn phụ thuộc vào tỷ lệ
vốn góp, có nghĩa là bên nào có tỷ lệ góp vốn cao thì sẽ nắm vững vị trí chủ chốt
và quan trọng trong bộ máy quản lý.
+ Sau nữa, quyền lợi và nghĩa vụ của các Bên được ghi trong hợp
đồng liên doanh và điều lệ của DNLD.
- Đặc trưng về kinh tế - tổ chức:
+ Về tổ chức, Hội đồng quản trị của DNLD là môi hình tổ chức
chung cho mọi DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực hai ngành nghề
hoạt động. Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của DNLD.
+ Về kinh tế, luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các Bên
trong liên doanh. Lợi nhuận trong DNLD được phân chia theo tỷ lệ vốn góp.
- Đặc trưng về kinh doanh:


18
Trong liên doanh, các Bên đối tác cùng góp vốn, cùng sở hữu nên thường
xuyên phải cùng nhau bàn bạc để giải quyết mọi vấn đề cần thiết và nảy sinh
trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Các quyết định kinh doanh có thể được
đưa ra theo nguyên tắc nhất trí hoặc quá bán.
- Đặc trưng về văn hoá - xã hội:
Trong DNLD cũng luôn có sự cọ xát, gặp gỡ giữa các nền văn hoá khác
nhau, được thể hiện ở sự khác biệt về ngôn ngữ, triết lý kinh doanh, lối sống,
tập quán, ý thức pháp luật... Điều này dễ dẫn đến những mâu thuẫn giữa các bên

đối tác, và có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ DNLD.
Ưu điểm của hình thức này là giúp cho nước sở tại tránh được những sự
kiểm soát của nước ngoài, đồng thời giúp bên đối tác nước ngoài hạn chế được
rủi ro của môi trường kinh doanh và có thể dựa vào liên doanh để xâm nhập thị
trường nước tiếp nhận vốn. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là thường
xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn giữa cac bên trong liên doanh (bên nước sở
tại và bên nước đầu tư) do sự chênh lệch về trình độ, kinh nghiệm và khoảng
cách về văn hóa, ngôn ngữ,… Do đó, hình thức DNLD thích hợp với quá trình
ĐTTTNN ở thời kỳ đầu. Những đặc điểm này hoàn toàn khác biệt với hình thức
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN 100% VNN) là một thực thể
kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân trong đó các nhà đầu tư nước ngoài
góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu hoàn toàn trách
nhiệm về kết kinh doanh của doanh nghiệp.
So với DNLD, DN 100% VNN có một số đặc trưng khác biệt sau:
- Đặc trưng về pháp lý:
+ DN 100% VNN cũng là pháp nhân của nước sở tại, nhưng toàn
bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài.
+ Hình thức hợp pháp của DN 100% VNN là do nhà đầu tư nước
ngoài lựa chọn trong khuôn khổ luật pháp nước sở tại. Ví dụ, ở Việt Nam, hình
thức hợp pháp của DN 100% VNN là công ty TNHH.
+ Quyền quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn
chịu trách nhiệm.


19
- Đặc trưng về kinh tế - tổ chức:
+ Mô hình tổ chức của DN 100% VNN là do nhà đầu tư nước ngoài
lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật nước sở tại

+ Về kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm về mọi kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp và được hưởng toàn bộ kết quả kinh doanh
sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại.
- Đặc trưng về kinh doanh:
Khác với DNLD, nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định mọi
vấn đề trong DN 100% VNN. Môi trường kinh doanh ở nước sở tại thường
xuyên tác động, chi phối rất lớn đến kết quả và quy mô của họat động kinh
doanh của DN 100% VNN.
- Đặc trưng về văn hoá - xã hội:
Trong DN 100% VNN cũng có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hoá
khác nhau, nhưng sự khác biệt chỉ phát sinh trong quan hệ giữa nhà đầu tư nước
ngoài với người lao động là dân bản sứ bên mức độ và tính chất cọ xát ít hơn so
với DNLD.
Với những đặc trưng trên, DN 100% VNN có ưu điểm là hạn chế được
những mâu thuẫn, bất đồng của nhà đầu tư đối với nước sở tại, do đó, nhà đầu tư
có thể độc lập điều hành hoạt động của doanh nghiệp một cách có hiệu quả.
Nhược điểm lớn nhất của hình thức này là nhà đầu tư phải đối mặt với một thị
trường mới lạ, chứa đựng nhiều rủi ro và nhà đầu tư cũng chưa có kinh nghiệm,
kiến thức về phong tục, tập quán, luật pháp cũng như thông tin về bạn hàng và
các mối quan hệ làm ăn. Do vậy, DN 100% VNN thường xuất hiện trong giai
đoạn sau của quá trình ĐTTTNN, khi mà nhà đầu tư đã tích tụ được một số
kinh nghiệm làm ăn ở nước sở tại, đồng thời nước sở tại hoàn toàn có khả năng
kiểm soát đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
4.Hình thức đầu tư theo phương thức BOT
Hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) cùng các
hình thức: hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây
dựng - chuyển giao (BT), thực chất là những dạng đặc biệt của hình thức đầu tư
100% vốn nước ngoài. Đây là các dạng đầu tư đươc áp dụng đối với các công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Với hình thức BOT, các chủ đầu tư chịu



20
trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một tời gian đủ để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công
trình sẽ được chuyển giao cho nước sở tại mà không thu bất cứ khoản tiền nào.
Đối với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công
trình cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại giành cho nhà đầu tư quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có
lợi nhuận hợp lý. Đối với hình thức BT, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư
chuyển giao công trình đó cho nước sở tại, nước sở tại sẽ tạo điều kiện cho nhà
đầu tư nước ngoài để thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi
nhuận hợp lý.
Cả ba dạng đầu tư trên đều đem lại lợi ích lâu dài cho nước tiếp nhận đầu
tư, thông qua những dự án phát triển cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật. Đây là
những dự án đòi hỏi vốn lớn và thời gian tu hồi vốn khá dài. Do đó, nó thường
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn ĐTTTNN. Bên cạnh đó, do hình thực BOT
có lợi cho nhà đầu tư hơn nên các nhà đầu tư thường chọn hình thức này hơn là
các hình thức BTO hay BT. Cũng vì lý do này mà từ đây, các dạng đầu tư trên
gọi chung là hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (hay hình
thức BOT).
Dù hoạt động dưới bất cứ hình thức nào, quá trình ĐTTTNN cũng phải
chịu những tác động, ảnh hưởng to lớn từ môi trường đầu tư ở nước sở tại và ở
các môi trường khác.
IV. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
Những yếu tố tác động đến hoạt động ĐTTTNN có thể là những yếu tố
nằm ngay bên trong nước sở tại (yếu tố chủ quan), cũng có thể là những yếu tố
từ bên ngoài (yếu tố khách quan)
1. Những yếu tố chủ quan
Thực chất những yếu tố chủ quan chính là những yếu tố thuộc về môi

trường đầu tư ở nước sở tại, dưới cách này hay cách khác, chúng tác động một
cách mạnh mẽ lên dòng vốn ĐTTTNN. Nó thể hiện ở những điểm sau:
- Thứ nhất là những yếu tố thuộc về môi trường chính trị, như thể chế
chính trị (thể chế quân chủ, cộng hoà, hay xã hội chủ nghĩa,…); những chính


21
sách phát triển kinh tế (chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách điều chỉnh tỷ
giá hối đoái, chính sách dự trữ ngoại tệ chính sách tài khoá…). Hoạt động
ĐTTTNN phải đối mặt với 3 loại rủi ro về chính trị, đó là: việc tịch thu hành
chính, các quy định không mong đợi, những quy định ngoài ý muốn. Người ta
cũng đã đưa ra được 8 tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị, đó là: sự ổn định của
hệ thống chính trị; sự xung đột nội bộ sắp xảy ra; sự đe doạ từ bên ngoài; mức
độ kiểm soát hệ thống kinh tế; sự tin cậy của quốc gia như một đối tác kinh
doanh; sự bảo đảm hiến pháp; hiệu quả của quản lý hành chính; những mối quan
hệ về lao động.
- Thứ hai là những yếu tố thuộc môi trường kinh tế. Trong đó bao gồm:
chiến lược phát triển kinh tế của nước sở tại; cơ cấu kinh tế; thể chế kinh tế của
nền kinh tế (thể chế kinh tế thị trường, cơ chế tập trung hay nền kinh tế hỗn
hợp); trình độ phát triển kinh tế; quy mô của nền kinh tế (thu nhập bình quân,
GDP…)v.v. Những yếu tố trên có thể tạo thuận lợi, hoặc gây rủi ro cho nhà đầu
tư nước ngoài. Những trường hợp xảy ra rủi ro là do suy thoái kinh tế, lạm phát,
cán cân thanh toán thâm hụt. Vì vậy một môi trường kinh tế phát triển và ổn
định là động lực lớn thu hút vốn ĐTTTNN.
Một trong những yếu tố quan trọng của môi trường kinh tế là thị trường.
Quy mô và khả năng tăng trưởng về thị trường ở nước sở tại có ảnh hưởng lớn
đến quyết định đầu tư của nhà ĐTTTNN. Thông thường, một thị trường lớn với
sức mua cao, tăng trưởng nhanh sẽ đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra lợi
nhuận cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do đó nó sẽ tạo ra sức hút
lớn đối với vốn ĐTTTNN. Một số nước lớn như nước Mỹ, Trung Quốc đã

chứng tỏ được lợi thế về thị trường, và do đó trở thành những trung tâm hút vốn
lớn trên thế giới.
- Thứ ba là những yếu tố thuộc môi trường luật pháp - chính sách. Những
yếu tố này ảnh hưởng đến phương thức thâm nhập thị trường của nhà đầu tư
(xuất khẩu hay ĐTTTNN); ảnh hưởng đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư; ảnh
hưởng đến sự hoạt động an toàn của nhà đầu tư ở nước sở tại… Nguồn luật quan
trọng nhất tác động lên hoạt động ĐTTTNN là luật đầu tư nước ngoài. Các
chính sách liên quan đến lĩnh vực ĐTTTNN, như chính sách thuế, đát đai, tài
chính… cũng có tác động rất lớn đến lĩnh vực này. Vì vậy, các quốc gia không
ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, đặc biệt là luật đầu tư nước


22
ngoài theo hướng có lợi cho nhà đầu tư để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu
tư.
- Thứ tư là các thủ tục hành chính nhà đầu tư sẽ phải trải qua khi thực
hiện hoạt động ĐTTTNN ở nước sở tại. Đó là những thủ tục về cấp giấy phép
đầu tư, thủ tục thẩm định dự án đầu tư, thủ tục cho thuê đất, nhượng quyền sử
dụng đất, thủ tục đăng ký tư cách pháp nhân, chế độ kế toán, đăng ký dịch vụ
Bưu chính viễn thông, đăng ký tài khoản ở ngân hàng, thủ tục đăng ký sử dụng
lao động nước ngoài,...Nói chung mong muốn của nhà đầu tư nước ngoài là các
thủ tục hành chính phải hết sức đơn giản, để có thể nhanh chóng đưa một dự án
ĐTTTNN đi vào triển khai, vận hành. Vì vậy, nếu thủ tục hành chính quá rườm
rà, phức tạp, nhiều cửa sẽ là một yếu tố cản trở dòng vốn ĐTTTNN.
- Thứ năm là cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật ở nước sở tại. Yếu tố này
tạo ra khả năng thực hiện các giao dịch và đưa sản phẩm, dịch vụ tới thị trường,
giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá được thực hiện
một cách nhanh chóng. Nó bao gồm hệ thống giao thông (đường xá, cầu cống,
sân bay, bến cảng), hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới Bưu
chính viễn thông, thông tin liên lạc, dịch vụ bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, dịch

vụ ngân hàng tài chính và các nhân tố cơ bản khác. Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng
tốt sẽ là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng giải thích
tại sao dòng vốn ĐTTTNN lại đổ dồn vào các nước công nghiệp phát triển, như
Mỹ và Tây Âu, nơi có điều kiện về cơ sở hạ tầng rất phát triển.
- Thứ sáu là yếu tốt con người. Đây là nhân tố tham gia trực tiếp và gián
tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một bộ phận
nằm trong đội ngũ cán bộ quản lý, một bộ phận nằm trong đội ngũ lao động.
Nếu như nguồn nhân lực ở nước sở tại có chất lượng thấp thì sẽ gây khó khăn
cho các nhà đầu tư trong việc đào tạo cán bộ quản lý cũng như công nhân. Vì
vậy, một quốc gia có được đội ngũ lao động chất lượng và trình độ cao sẽ trở
thành nơi hấp dẫn đối với các hoạt động ĐTTTNN.
- Thứ bảy là vai trò quản lý của Nhà nước. Yếu tố này thường ảnh hưởng
gián tiếp đến hoạt động ĐTTTNN. Ví dụ như sự can thiệp quá sâu của Nhà nước
luôn tạo ra cảm giác không an toàn cho nhà đầu tư và làm giảm mức độ cạnh
tranh trên thị trường. Chủ đầu tư nước ngoài luôn muốn duy trì sự điều tiết tối
thiểu của Chính phủ nước sở tại đối với các công ty tư nhân. Đồng thời, niềm tin


23
của họ sẽ tăng lên khi chính sách quản ý vĩ mô của Nhà nước ổn định và có thể
dự báo được, vì “luật chơi không thay đổi giữa cuộc chơi”. Bên cạnh đó, một
Chính phủ trung thực và có hiệu quả, có khả năng duy trì trật tự luật pháp của
nước sở tại cũng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho nhà đầu tư. Vì vậy, các
chính sách quản lý vĩ mô khi đưa ra cần phải hợp lý và tạo thuận lợi cho nhà đầu
tư, bảo vệ môi trường cạnh tranh và giảm thiểu tiêu cực trong thi hành luật pháp.
- Thứ tám là độ mở của nền kinh tế so với khu vực và thế giới. Nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào nước sở tại không chỉ với mục đích chiếm lĩnh thị trường
này, mà còn dựa vào nước sở tại như là một điểm tựa để xâm nhập các thị
trường. Vì vậy các nhà đầu tư nước ngoài luôn tìm kiếm những nước có cơ chế
thông thoáng, tự do hoá về mậu dịch và đầu tư. Do đó, các quốc gia hiện nay

luôn hướng đến chính sách tự do hoá một cách toàn diện, hội nhập vào nền kinh
tế thế giới một cách sâu, rộng như là một chiến lược tăng sức hút với vốn
ĐTTTNN.
- Thứ chín là sức mạnh và sự ổn định của đồng nội tệ. Nếu nhà đầu tư đi
đầu tư bằng Đô la Mỹ sau đó định giá bằng đồng nội tệ bị mất giá trị thì sẽ dẫn
đến giảm giá trị vốn đầu tư cũng như lợi nhuận khi chuyển về nước. Vì vậy, nếu
đồng tiền của nước sở tại bất ổn định và dao động nhiều thì sẽ gây rủi ro lớn cho
nhà đầu tư và hạn chế dòng vốn ĐTTTNN. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ Châu Á năm 1997 đã làm cho đồng tiền của các nước Châu Á bị
mất giá so với đồng Đô la Mỹ, và lập tức các nhà đầu tư liên tiếp rút vốn khỏi
các thị trường này, khiến cho vốn ĐTTTNN ở Châu Á giảm liên tục trong
những năm 1996, 1997, 1998.
- Cuối cùng là những yếu tố thuộc môi trường văn hoá. Những yếu tố này
bao gồm các phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, thị hiếu, thẩm mỹ, nghệ
thuật, tôn giáo, ngôn ngữ, lối sống,…Chúng tác động gián tiếp lên hoạt động
ĐTTTNN thông qua thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng, phong cách làm việc của con người.
Bên cạnh những yếu tố chủ quan trên là những yếu tố thuộc môi trường
bên ngoài nước sở tại hay là những yếu tố khách quan.
2. Yếu tố khách quan
Những yếu tố khách quan tác động lên hoạt động ĐTTTNN được xem
xét dưới góc độ của nước sở tại, và bao gồm những điểm sau:


24
- Một là khả năng của nhà đầu tư. Trong giai đoạn suy thoái của nền kinh
tế thế giới, dòng vốn ĐTTTNN đều giảm sút, do hầu hết các nước chủ nhà thay
nhau rút vốn đầu tư về nước vì lý do yếu kém về mặt tài chính. Ngược lại, khi có
nền tài chính vững mạnh thì các chủ đầu tư lại chuyển vốn ra nước ngoài để đầu
tư thu lợi nhuận.
- Hai là sự biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới. Chẳng hạn

như những cuộc khủng hoảng kinh tế tầm khu vực và thế giới luôn có ảnh hưởng
sâu sắc đến hoạt động ĐTTTNN. Điều này là rất rõ ràng, vì khi xảy ra khủng
hoảng thì tiềm lực của các chủ đầu tư cũng như nước sở tại đều suy yếu. Sức
mua của thị trường giảm sút, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng suy giảm. Khi đó,
hiệu quả tất yếu này là sự giảm sút của hoạt động ĐTTTNN trên phạm vi khu vực và
Thế giới.
- Ba là sự cạnh tranh từ các quốc gia khác trong việc thu hút vốn
ĐTTTNN. Xác định được vai trò của ĐTTTNN đối với nền kinh tế nên hầu hết
các quốc gia đều chú tâm đến việc thu hút nguồn vốn này. Điều đó dẫn đến sự
cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút vốn. Sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến
sự giảm sút trong ĐTTTNN ở những nước có môi trường đầu tư kém hấp dẫn.
Hiện nay, Trung Quốc đang nổi lên một hiện tượng hút vốn ĐTTTNN mạnh
trên thế giới, và điều đó có ảnh hưởng đến các quốc gia khác.
- Bốn là các xu hướng vận động của dòng vốn ĐTTTNN trên Thế giới.
Những xu hướng mới trong đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh mẽ tới
dòng vốn ĐTTTNN vào các quốc gia tiếp nhận. Chẳng hạn, xu hướng thay đổi
trong địa bàn đầu tứ sẽ khiến dòng vốn đầu tư chuyển dời sang một trung tâm
hút vốn nào đó, và những quốc gia thuộc khu vực này có cơ hội tiếp nhận một
khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài. Phần này sẽ được nghiên cứu kỹ hơn ở
mục V.
Bên cạnh việc bị chi phối bởi những nhân tố trên, sự vận động của dòng
vốn ĐTTTNN còn chịu sự chi phối của những xu hướng nhất định.
V. CÁC XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TRÊN THẾ GIỚI
Hoạt động ĐTTTNN ngày càng gia tăng và liên tục biến động, đặc biệt là
trong những năm gần đây. Vì vậy, việc định hình xu hướng biến động và dự báo
sự thay đổi của hoạt động này trong tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với việc


25

hoạch định chính sách về thu hút vốn ĐTTTNN của mỗi quốc gia. Sau đây là
một số xu hướng nổi bật.
1. Xu hướng tự do hoá trong đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tự do hoá đầu tư là một xu hướng, trong đó hoạt động ĐTTTNN được
tạo những điều kiện ngày càng thuật lợi cả về mặt pháp lý cũng như mặt hành
chính và về các điều kiện cần thiết khác cho quá trình đầu tư trực tiếp được triển
khai. Nội dung của xu hướng tự do hoá đầu tư là việc Chính phủ áp dụng các
biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện các môi trường pháp lý, ổn định môi trường
kinh tế vĩ mô, cải cách các thủ tục hành chính cũng như áp dụng các đòn bẩy
kinh tế... để khuyến khích hoạt động ĐTTTNN vào một quốc gia nhất định.
Xu hướng tự do hoá ĐTTTNN được thể hiện ở 3 bình diện: quốc gia, khu
vực và quốc tế. Trên bình diện quốc gia là việc giảm dần những hạn chế về hình
thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, về những quy định trong việc góp vốn, về quyền
thuê mướn nhân công, quy định về chuyển giao công nghệ, tỷ hàng hoá xuất
khẩu, tỷ lệ nội địa hoá,... Bên cạnh đó, các quốc gia cũng đưa ra các khuyến
khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các ưu đãi tài chính và
thuế... để kích thích các nhà đầu tư nước ngoài. Trên bình diện khu vực và bình
diện quốc tế, tự do hoá đầu tư là việc hình thành lên những khu vực đầu tư tự do,
ký kết các hiệp định thương mại - đầu tư song phương, và đa phương trong từng
khu vực cũng như trong tổ chức quốc tế nhằm tạo thuận lợi hơn cho hoạt động
ĐTTTNN phát triển.
2. Vai trò ngày càng quan trọng của các tập đoàn xuyên quốc gia
trong việc đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý chính trong ĐTQT. Nếu như năm 1990 có khoảng 37.000 tập
đoàn loại này với khoảng 170.000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài thì đến năm
1995 đã có khảng 39.000 tập đoàn với khoảng 270.000 chi nhánh là cơ sở ở nước
ngoài, nắm giữ 2700 tỷ USD, tương ứng với 10% GDP trên Thế giới (Nguồn:
Giáo trình sau đại học, Môn: Kinh tế quốc tế). Sự thống trị của các tập đoàn này
đã đưa vai trò của chúng lên cao trong nền kinh tế của các nước tiếp nhận vốn đầu

tư.

×