Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Các giải pháp nhằm tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.06 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm qua nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đó
không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên ngoài. Để đạt
được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn hạn chế, các
nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác
nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay nợ
dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và vay
thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài đã giúp
nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát triển và chuyển sang phát triển bền vững.
Nợ nước ngoài phải được sử dụng một cách có hiệu quả để đáp ứng các nhu cầu
đầu
tư, đồng thời phải thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn trả nợ,
đảm
bảo phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, cũng có không ít quốc gia không
những
không cải thiện được một cách đáng kể tình hình kinh tế mà còn lâm vào tình trạng nợ
nần, khủng hoảng nợ và kinh tế suy thoái. Nguyên nhân của những thất bại trong việc
vay nợ nước ngoài cũng có rất nhiều, trong đó phải kể đến buông lỏng quản lý nợ nước
ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết yếu trong chính
sách tài chính quốc gia.
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1993 khi nước
ta chính thức thiết lập lại quan hệ hợp tác đa phương với các tổ chức tín dụng lớn trên thế
giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) và Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB). Song, cũng từ đó các cam kết hỗ trợ vốn ODA của các nước công nghiệp
phát triển và các tổ chức tín dụng quốc tế cho nước ta ngày càng tăng dần về số lượng vay,
số khoản vay, tính đa dạng của hình thức vay và trả nợ, vì thế việc theo dõi và quản lý
nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng bức thiết.
Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng
cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam và quá trình toàn cầu hoá. Năm 2006, nước ta
chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu một cột mốc quan


trọng vào quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của nước ta. Tăng cường hội nhập với nền
kinh tế thị trường toàn cầu, đặc biệt là các cam kết mở cửa dịch vụ tài chính của Chính
phủ, sẽ đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng
quốc tế.
Đối với hệ thống quản lý nợ nước ngoài, điều này cũng có ý nghĩa việc ứng dụng các
phương pháp, kỹ thuật và kỹ năng phân tích nợ trong nền kinh tế thị trường để cập
nhật,
giám sát và kiểm tra được việc vay và trả nợ nước ngoài trở nên hết sức bức
thiết. Đặc
biệt do kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường của
nước ta chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong quá trình hoàn
thiện, nên nhu cầu nghiên cứu và xây dựng năng lực về mặt này càng lớn.
Khủng hoảng là một đề tài rộng lớn và có nhiều tác động đến nhiều nước, không
chỉ
ở mặt kinh tế mà ở các mặt xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục… Có thể nói khủng
hoảng
kinh tế là một mãng vấn đề được cấu thành bởi nhiều khía cạnh khác nhau. Và khủng
1
hoảng nợ là một trong nhiều bộ phần cấu thành nên khủng hoảng kinh tế.
Để đảm bảo không rơi vào khủng hoảng nợ như các Mỹ Latinh trong thập niên
những năm 80 hay khủng hoảng nợ ở một số nước châu Âu trong những năm qua, đòi hỏi
Chính phủ phải có những biện pháp quản lý hiệu quả các nguồn vốn vay nước ngoài.
Chúng tôi nhận thấy rằng nợ nước ngoài có thể xem như là một “con dao hai lưỡi”, các
nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhưng nếu các nước sử
dụng không hợp lý “nguồn vốn ngoại sinh” đó sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến quá
trình phát triển kinh tế bền vững.
Do đó, một vấn đề bức thiết đặt ra lúc này là đòi hỏi
Chính phủ phải có những
“bước đi” hợp lý, đặc biệt trong việc vay, quản lý và trả nợ
nước ngoài để tránh “bước

nhầm những vết xe đã đổ” của các nước đi trước

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình làm bài, và không
thể nào tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được được sự góp ý chân thành của thầy và các
bạn nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hệ thống quản lý nợ hiện
hành và phân tích thực trạng quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam thông qua các chỉ số kinh tế
và chỉ số nợ nước ngoài trên giác độ vĩ mô.
Mục đích nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài tập trung vào công tác
quản lý nợ nước ngoài, các biến số và các chính sách có ảnh hưởng đến tính bền vững
của nợ nước ngoài giai đoạn 2005-2010.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Thu nhập thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau.
 Thống kê, tổng hợp những thông tin thu thập được.

Phân tích những thông tin thu thập được. Từ đó đưa ra những kết luận cụ thể
cho từng vấn đề ở mỗi thời kỳ.
Trong đó, phương pháp chính là thống kê: mô tả và phân tích phù hợp
mục tiêu nghiên
cứu.
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
 Chương 1: Tổng quan về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.
 Chương 2: Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.
 Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài ở Việt
Nam.
2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIỆC NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Định nghĩa về nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau. Do
đó để hiểu
được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái
niệm cơ bản.
Nợ là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức hoặc một cá nhân khác. Nợ
phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các tài sản tài chính khác. Một khoản nợ
được tạo ra khi người cho vay đồng ý cho người đi vay một lượng tài sản nhất định.

Nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xoá sổ
khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.
Với hai khái niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước ngoài? Và
đi sâu nghiên cứu nợ nước ngoài dưới góc độ “nợ không an toàn”.
Lịch sử kinh tế thế giới là một minh chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm kịch nợ không an
toàn, đó là các cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế giới.
Hơn nữa, trong
những năm vừa qua thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn
cầu. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, năm 2011 tiếp tục là
một năm đầy những khó khăn và thử thách cho kinh tế thế giới do tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó khủng hoảng nợ là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế.
Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm
công tác
liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau: “Tổng
nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không
phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm
trong tương lai, do đối tương cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm
này, khái niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối tượng cư trú.

1.1.2. Phân loại nợ nước ngoài
 Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ công/nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh và nợ tư
nhân.
Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh: Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ
của các khu vực công và bao gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu
vực công bảo lãnh.
Nợ tư nhân: Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực công
của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân
tự vay, tự trả.
 Phân loại theo thời hạn vay: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian đáo hạn ngắn,
khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối tượng quản lý một cách
chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ
thống ngân hàng.
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã gia hạn kéo dài
3
trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản thanh toán cuối cùng. Nợ
dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng tác động lớn đến nền tài chính
quốc gia.
 Phân loại theo loại hình vay: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay thương
mại
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và
Phát triển (OECD), hỗ trợ
phát triển chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa
các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng
giá trị chuyển khoản là cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại nợ có nhiều điều kiện
ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát
triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính
thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển

thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi của vay hỗ
trợ phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm
theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên đáng kể.
Vay thương mại: Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả
về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính
quốc tế và
thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại
thường có giá khá cao
và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận
trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác.
 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương.
Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như
OPEC và liên chính phủ. Trong khi đó, nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các
nước thuộc tổ chức OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một
Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.1.3. Phân loại các nước theo mức độ nợ nước ngoài:
Nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
nghèo
phải vay của nước ngoài để có tiền trang trải cho đầu tư phát triển đất nước và một phần để tiêu
dùng, ngoài ra còn một số trường hợp đặc biệt, như phải chi dùng cho chiến tranh.
Để đánh giá mức độ nợ của các quốc gia, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra một số tiêu
chuẩn để đánh giá nợ nước ngoài của các quốc gia đó:
Căn cứ vào GNI bình quân đầu người, chia các nước ra thành một số nhóm:
Các nước có thu nhập thấp (dưới 761 USD/năm), các nước có thu nhập trung bình thấp (từ 761 đến
3030 USD/năm), các nước có thu nhập trung bình cao (từ 3031 đến 9360 USD/năm), các nước có
thu nhập cao (trên 9360 USD/năm). Các nước có thu nhập cao thì khả năng trả nợ cao, hoặc không
là nước đi vay mà còn là nước cho vay.
Căn cứ vào khả năng thanh toán, thì chia ra: Các nước có khả năng thanh toán là đảm bảo

việc trả nợ gốc khi đến hạn và trả nợ lãi đều đặn; các nước không có khả năng thanh toán là các
nước không trả được nợ gốc khi đến hạn, do đó phải thương lượng lại cơ cấu nợ, tiến độ trả nợ
và kèm theo một ân hạn trong thời gian đó. Thậm chí có nhũng nước không có khả năng trả nợ,
4
dẫn đến vỡ nợ và các nước chủ nợ không có cách nào khác ngoài việc xoá nợ, như một số nước
châu Phi đã được nhóm nước G8 phải xoá nợ tới trên 30 tỷ USD.
Việc phân loại theo mức độ nợ này có chủ ý chỉ ra rằng các nước nếu rơi vào các
nước nợ
quá nhiều thì khả năng trả nợ là rất khó khăn, thậm chí trong đó các nước
không có khả năng
trả nợ. Liên Hợp Quốc đã lập danh sách các nước nghèo, nợ nần quá nhiều (HIPCs) trên toàn thế
giới, bao gồm 24 nước, hầu hết ở châu Phi và một số nước ở khu vực Mỹ Latinh. Với không ít
nước thuộc nhóm nợ vừa phải, nhưng cũng không có khả năng thanh toán, thì các nhà tài chính
và ngân hàng của các nước này phải thay mặt Chính phủ để đi thương lượng nhằm kéo dài thời
gian trả nợ, có thể xin giảm bớt lãi suất…
1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài
1.1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài
Để đánh giá mức độ nợ của nước ngoài, các chỉ tiêu thường được các tổ chức quốc tế
thường dùng là:
 Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài
Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ nợ nước
ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Những khó khăn khi sử
dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ
biến động từ năm này sang năm khác, ngoài ra
cũng có những phương án khác để
nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài mà không
nhất thiết phải tăng xuất khẩu.
 Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia

Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc dân được tạo ra.
Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. Thông thường các nước
đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới
làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh giá đúng
mức.
 Tỷ lệ trả nợ
Tổng nợ phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ nợ (nợ gốc và
lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng,
phản ánh quan hệ giữa
nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ của quốc gia đi vay.
 Tỷ lệ trả lãi
Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ lãi hay tỷ lệ
giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải thanh toán lãi với mức lãi
5
suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này được trích từ thu nhập xuất
khẩu.
1.1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ. Thông
thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ song phương cao.
Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:
 Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong
thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn.
 Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ.
 Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít
ưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phuơng trong tổng nợ phản ánh
tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt.
1.1.5. Vai trò của nợ nước ngoài:
Nợ nước ngoài đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư:
Để thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế

xã hội, nhu cầu vốn đầu tư của các
nước đang phát triển rất lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của
quốc gia. Vay nước ngoài
là nguồn bổ sung phổ biến mà các nước đang “thiếu vốn” thường hay
sử dụng. Nợ
nước ngoài cũng có thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế bằng việc đầu tư vào
các
ngành mũi nhọn, tạo đà cho nền kinh tế phát triển.
Nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực quản lý:
Bên cạnh
việc dùng các nguồn lực tự có để nhập khẩu các máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công
nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước ngoài góp phần bổ sung thêm nguồn vốn để nhập các
máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến cùng với kỹ năng quản lý nước ngoài.
Nợ nước ngoài ổn định tiêu dùng trong nước: Khi có những cơn sốc đột ngột giáng vào nền kinh
tế, sản lượng bị thiếu hụt nặng nề và tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong
những trường hợp như vậy, bên cạnh các khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ nước ngoài
khẩn cấp đóng vai trò là biện
pháp ổn định tiêu dùng trong nước trong ngắn hạn, trong khi nền
kinh tế được hồi
phục.
Vay nợ nước ngoài bù đáp cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do
điều kiện bất lợi tạm thời trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn khi giá hàng xuất khẩu các sản
phẩm của một nước bị giảm sút mạnh so với giá hàng nhập khẩu, nước đó cũng có thể sủ dụng
biện pháp vay nợ nước ngoài để duy trì tiêu dùng trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giải pháp này thường
có rủi ro cao, vì không có gì chắc chắn rằng các nước đi vay sẽ có thu nhập khá hơn khi
đến hạn phải trả nợ. Thêm vào đó, các khoản vay nợ để bù đắp cán cân thương mại
thường là ngắn hạn.
6
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1. TÌNH HÌNH VAY NỢ VAY NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM

2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển ,Chính phủ cần phải huy động
các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho quá trình xây dựng và phát
triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba nguồn chủ yếu sau đây:
+ Nợ ODA(Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi
trong khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA)
+ Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.
+ Phát hành trái phiếu quốc.
Trong tổng số vốn ODA cam kết mà chúng ta nhận được giai đoạn 1993 - 2007, khoảng 15
- 20% là viện trợ không hoàn lại, còn phần lớn là vốn cho vay ưu đãi đối với Chính phủ. Nguồn
vốn ODA huy động được sử dụng để bổ sung cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chiếm khoảng
12% tổng đầu tư toàn xã hội, bằng 28% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) bằng
50,5% vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trong số 51 nhà tài trợ thường xuyên cho Việt Nam, có 28 nhà tài trợ song
phương và 23
nhà tài trợ đa phương, có 3 nhà tài trợ cung cấp chủ yếu là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB)
và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng 80% tổng giá trị ODA đã ký kết.
Mức cam kết ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều này thể hiện sự tin
tưởng, ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam. Đó vừa là thuận lợi nhưng cũng đầy thử thách cho các nhà hoạch định
chính sách vĩ mô, đặc biệt là Chính phủ, đòi hỏi các vị lãnh đạo phải có một kế hoạch đúng đắn
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Nguồn vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã
hội. Các
lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA là giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông (28,06%), năng
lượng và công nghiệp (21,78%), nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo
(15,66%). Nhờ tập trung vốn ODA quy mô lớn nên hầu hết các lĩnh vực đều có bước phát triển
nhất định, hàng loạt các dự án được thực hiện, hỗ trợ đáng kể cho việc hoàn thành các mục tiêu
kinh tế - xã hội của Chính phủ. Đối với nước tiếp nhận viện trợ, ODA được xem như một nguồn

lực thực sự nếu
nó được kết hợp hiệu quả với các nguồn lực trong nước khác để đạt được mục
tiêu
quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Đối với các nhà tài trợ, ODA sẽ trở thành nguồn vốn
viện trợ thật sự nếu nó được chuyển giao cho nước tiếp nhận để gián tiếp hay trực tiếp tạo ra các
điều kiện cho phát triển. Từ những tác động của nguồn vốn này trong
thời gian qua, có thể khẳng định ODA ở Việt Nam đã trở thành một nguồn vốn thực sự và hiệu quả
trong tiến trình đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trong thu hút và sử
dụng vốn ODA, còn tồn tại nhiều vấn đề mà Việt Nam cần phải giải quyết để sử dụng nguốn
vốn này có hiệu quả hơn trong tương lai.
7
 Về vay thương mại:
Chính phủ vay nợ nước ngoài về cho vay lại
Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
trong thời
gian qua Chính phủ đã sử dụng một phần vốn ODA vay nợ nước ngoài để cho vay lại đối với
các dự án, các chương trình đầu tư có khả năng hoàn vốn của các Bộ, các địa phương. Tỷ lệ cho
vay lại chiếm khoảng 45% tổng số vốn vay ODA của Chính phủ.
Cho vay lại của Chính phủ được thực hiện chủ yếu thông qua 2 công cụ, Quỹ Hỗ trợ Phát
triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) và các ngân hàng thương mại. Một số dự án được
thực hiện nhờ hoạt động cho vay lại của Chính phủ là dự án phát triển ngành công nghiệp đóng
tàu của Vinashin (750 triệu USD), dự án nâng cao hiệu
suất ngành điện (hơn 30 triệu USD), dự
án tài trợ nông thôn (93,7 triệu USD), điện
Phú Mỹ (71,6 triệu USD) v.v…
Bảo lãnh Chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi vay
nước ngoài
được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh, trong khi nguồn lực có giới hạn. Các doanh nghiệp vay nợ có bảo lãnh gồm các doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) và

các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trong các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện
lực, xi măng, hàng không và dệt. Tính đến hết năm 2006, tổng số vay nước ngoài của các doanh
nghiệp được Chính phủ bảo lãnh là 3,5 tỷ USD, trong đó giải ngân được 2,13 tỷ USD, dư nợ bảo
lãnh khoảng 1,425 tỷ USD.
Các khoản vay nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh đều được thực hiện đúng quy trình và sử
dụng đúng mục đích. Trong cơ cấu nợ vay có bảo lãnh, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng
4,8%), chủ yếu là nợ trung và dài hạn. Nhìn chung nợ có bảo
lãnh đáp ứng được yêu cầu cho
quá trình phát triển trung và dài hạn. Cho đến thời
điểm hiện nay, hầu như các dự án vay nợ
nước ngoài có bảo lãnh đều trong quá trình xây dựng hoặc mới đưa vào sử dụng nên chưa phát
sinh nợ quá hạn.
 Vay và trả nợ nước ngoài của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Bên cạnh khoản vay trực tiếp của chính quyền trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khi muốn gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển cũng tiến hành hoạt động vay nợ dưới hai
hình thức, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay nước ngoài. Trên thực tế, vốn vay
nước ngoài của các địa phương chủ yếu là vốn ODA trực tiếp cho các dự án đầu tư tại các khu vực
và phần thụ hưởng gián tiếp từ các dự án của các cơ quan trung ương thực hiện trên địa bàn.
Nhìn hình 2.3, ta thấy vốn vay của chính quyền địa phương chủ yếu là ở khu vực
đồng bằng Bắc
bộ (34,4%). Điều này cũng phù hợp với quy hoạch phát triển vùng,
miền trên địa bàn cả nước
vì khu vực này có tiềm năng kinh tế rất lớn nhưng chưa
được khai thác hiệu quả
 Về phát hành trái phiếu quốc tế:
Sau một giai đoạn chuẩn bị, ngày 27/10/2005, Chính phủ đã chính thức phát hành trái phiếu
trên thị trường chứng khoán New York với tổng số vốn huy động được là 750 triệu USD, lãi suất
7,125%/năm, thời hạn 10 năm. Đợt phát hành trái phiếu chính
phủ (TPCP) lần đầu tiên ra thị
trường vốn quốc tế đã giúp Việt Nam đa dạng hoá

nguồn huy động vốn, thiết lập một “thang
chuẩn” để giúp cho các doanh nghiệp và địa phương huy động vốn sau này.
8
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư nước
ngoài trên khắp thế giới. Trong so 255 nhà đầu tư mua trái phiếu có 51% là các quỹ đầu tư tài
chính, ngân hàng là 25%, các công ty bảo hiểm là 17% và 7% là các tổ chức đầu tư khác. Số trái
phiếu này được phát hành rộng rãi ở châu Á (nắm giữa 38%), châu Âu (32%) và châu Mỹ (30%).
Toàn bộ số tiền huy động được giao cho Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
(Vinashin - Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam) sử dụng để đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh.
Việc phát hành trái phiếu quốc tế có thể thực hiện qua 3 hình thức: Chính phủ Việt Nam phát
hành về cho vay lại, Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp,
doanh nghiệp tự trực tiếp phát hành mà Chính phủ không phải bảo lãnh
Trong cơ cấu nợ nước ngoài, chủ yếu là nợ trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư
dài hạn vào cơ sở hạ tầng. Các khoản nợ do Chính phủ bảo lãnh cũng chiếm
tỷ trọng không đáng
kể trong tổng số nợ nước ngoài của Chính phủ (trung bình nợ
Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng
7%).
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
Nhìn chung, nợ của Việt Nam đến thời điểm này không quá lo ngại, do chúng ta đã thành
công trong việc xử lý nợ đến hạn, khống chế được luồng nợ vay ngắn hạn… nhưng còn một số
vần đề trong sử dụng và quản lý nợ ở nước ta còn nhiều vướng mắc cần được giải quyết.Đó là
trong vay nợ và viện trợ, chúng ta chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả theo
quan điểm thúc đẩy
hàng hoá xuất khẩu tạo ra lợi nhuận và có ngoại tệ để trả nợ.
Nhiều cán bộ lãnh đạo của ta khi
nhận được các nguồn vốn ODA vẫn còn cho là “của cho không, biếu không”, họ không có ý thức
vay là phải trả vì thế đã buông lỏng trong quá trình thực hiện các dự án. Ngay cả khi viện trợ không
hoàn lại cũng có cái giá của nó, nước tài trợ đòi hỏi người sử dụng phải dùng vốn vào đúng mục

đích, đúng nơi, đúng chỗ. Thêm vào đó, chúng ta chưa xây dựng được một chiến lược vay và trả nợ
cụ thể rõ ràng cho từng khoản vay, do đó việc ban hành các chính sách và cơ chế quản lý không
khỏi lúng túng. Nhiều cấp cùng quản lý một dự án và có khi một nguồn viện trợ
được phân tán ở nhiều ngành, nhiều địa phương ra những chi phí giao dịch không đáng kể.
Đến năm 2006 tổng dự nớ nước ngoài của Việt Nam bằng 32,5% GDP, giảm so với các
năm truớc đó và chiếm 52,5% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng gần 2 lần
dự trữ ngoại hối.
Năm 2007 tổng nợ ước tính là 32,6% GDP, chiếm 51% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Như vậy,
các chỉ số này đang nằm trong giới hạn an toàn về nợ cho phép theo các chỉ tiêu của Bộ Tài chính
đề xuất, trên cơ sở xem xét các chỉ tiêu về nợ
nước ngoài của WB và IMF, đồng thời nghiên
cứu tình hình vay nợ của các nước
trong khu vực, Bộ Tài chính đã đưa ra các chỉ tiêu giới hạn an
toàn nợ nước ngoài của Việt Nam là:
• Tổng dư nợ nước ngoài/GDP: 50%
• Tổng dư nợ nước ngoài/xuất khẩu là 150%
• Tổng nghĩa vụ trả nợ trên xuất khẩu là 20%
• Tổng nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/thu ngân sách là 12%
Cơ cấu thời hạn vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi ro tài chính.
Nếu một quốc gia chỉ dựa chủ yếu vào vốn vay ngắn hạn thì áp lực trả nợ
khi đến hạn là rất cao,
nợ công và bảo lãnh công chiếm tỷ lệ cao sẽ tạo áp lực cho
Chính phủ đó tạo nguồn để trả nợ.
9

×