Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.54 KB, 21 trang )

PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự
phồn vinh của đất nước.Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho
tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những
hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục
còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh
(HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền
móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.
Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng
dạy chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với
phương pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học.
Song để đi đến thành công, GD đòi hỏi mọi người phải biết và không
ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư
thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính
GD vừa mang tính nghệ thuật. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã ghi rõ ở
Nghị quyết TW II là “Nâng cao chất lượng toàn diện ở Tiểu học”. Bộ GD
đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng cường hoạt động tích
cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương pháp dạy học ở
tất cả các môn học thông qua việc đổi mới chương trình và sách giáo
khoa từ lớp 1 đến lớp 5 .Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng
GD của nhà trường tiểu học ở trong tình hình hiện nay.
II.PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
-Trong năm học này, tôi đã làm công tác giảng dạy và tiến hành
nghiên cứu 32 em học sinh, bên cạnh đó tôi còn học hỏi kinh nghiệm của
một số anh chị em đồng nghiệp.
- Cụ thể tình hình lớp như sau:
+ Lớp 3A3,Tổng số học sinh: 32 em .Trong đó: 15 nữ ; 3 học sinh
dân tộc; 1 học sinh nữ dân tộc .
- Phần lớn các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, một số bố mẹ


ít quan tâm đến viêc học hành của con cái, đồ dùng sách vở còn
thiếu thốn.

III.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc,
biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học của con
em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý
thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không
ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn
khoăn là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học
sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện
nhanh và đúng cách . Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các
em học sinh nông thôn, dân tộc mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết
cách tự đánh giá việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học
tập của các bạn khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và
biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.

IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1.Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát
hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt Để
phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
2.phương pháp thực nghiệm:
Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn
cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào
vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một
phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa
học.

3 .Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút
kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác,
độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt
tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những
biện pháp khắc phục và đề xuất.
5.Phương pháp đàm thoại:
Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình
thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò
chuyện với một số phụ huynh học sinh.Qua đó chúng ta có thể biết tâm
sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc
học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết
quả tốt nhất.
6.Phương pháp thống kê, tính toán:
Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập
được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính
toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh
thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương
pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.

V.NỘI DUNG:
1.Tình trạng của vấn đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện đề
tài:
a.Tình trạng chung: Hiện nay trình độ dân trí của nước ta nói chung và
dân trí ở các vùng nông thôn và miền núi nói riêng đang còn rất thấp so
với các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới.Vậy làm thế nào
để giải quyết vấn đề đó? Để nâng cao trình độ nhận thức của người dân
thì những người đứng trong ngành giáo dục phải có trách nhiệm khá nặng

nề, mà muốn giải quyết được vấn đề thì đòi hỏi phải đổi mới chương trình
SGK, đổi mới PPDH cũng như hình thức tổ chức dạy học để phù hợp với
đối tượng, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
b.Tình hình địa phương: Xuyên Mộc là một xã nghèo. Trình độ dân trí
ở đây còn thấp, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhất là gia
đình thuộc diện dân tộc Nên sự quan tâm đến việc học tập của con em
trên địa bàn của một số gia đình còn nhiều hạn chế.
c.Tình hình trường, lớp: Trường tiểu học Xuyên Mộc là một ngôi
trường mới được xây dựng lại với cơ sở vật chất khang trang , nằm trên
trục đường giao thông khá thuận lợi cho việc đến trường của các em .
Nhưng với điều kiện gia đình khó khăn nên sách vở còn nhiều thiếu
thốn , thiếu sự quan tâm của phụ huynh, ý thức học tập chưa cao, một số
HS dân tộc còn rụt rè, thiếu tự tin trước đám đông
2.Tính thuyết phục của đề tài:
Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nó
đòi hỏi ở học sinh một yêu cầu cao là học sinh phải độc lập, tự giác, sáng
tạo trong học tập. Qúa trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ hữu cơ với
nhau: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người
giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy với hai chức năng tiếp thu và tự
chỉ đạo, tự tổ chức. Điều cần chú ý trong học tập là phải hoạt động một
cách tích cực chủ động có nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập học
sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai có thể làm
thay được.
Như vậy, dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, thói quen,
năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau nhằm làm cho học sinh
lĩnh hội được những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết,
phát huy được đầy đủ năng lực của các em.Vai trò của giáo viên là truyền
đạt tri thức, là người hướng dẫn, người cố vấn cho học sinh trong việc
học tập. Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa
những tác động bên ngoài của giáo viên, biểu lộ trong việc trình bày tài

liệu chương trình và tổ chức công tác học tập của học sinh với sự căng
thẳng trí tuệ “bên trong” của các em mới tạo được cơ sở của sự học tập có
hiệu quả. Tính tích cực nhận thức của bản thân các em càng cao thì sự cân
bằng năng lượng sinh hoá cơ sở tư duy sẽ càng phong phú và những kiến
thức được lĩnh hội càng sâu sắc, đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
3.Các giải pháp:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng
thú
học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều.Trước
hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu
nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là
những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả,
năng lực sư phạm gồm:
*Năng lực khoa học
*Năng lực hiểu học sinh
*Năng lực ngôn ngữ
*Năng lực tổ chức
*Năng lực phân phối chú ý
*Năng lực trình bày bài giảng
*Óc tưởng tượng sư phạm
Ngoài ra GV muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học
sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích
hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương
pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung
môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh
hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của
học sinh trong học tập,cụ thể là:
1.Phương pháp thuyết minh. 9.Phương pháp trò chơi học tập.
2.Phương pháp đàm thoại. 10.Phương pháp quan sát.

3.Phương pháp thảo luận. 11.Phương pháp thí nghiệm.
4.Phương pháp hỏi đáp. 12.Phương pháp nêu vấn đề.
5.Phương pháp tìm tòi. 13.Phương pháp giải quyết vấn đề.
6.Phương pháp kể chuyện. 14.Phương pháp khảo sát điều tra.
7.Phương pháp động não. 15.Phương pháp thực hành luyện tập.
8.Phương pháp đóng vai. 16.Phương pháp lập luận đề án.
Việc đổi mới PPDH tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học để
tạo một sự tương ứng cần thiết. Sự đa dạng của phương pháp dạy học
trong sự phối hợp của chúng, đòi hỏi phải có một số hình thức tổ chức
dạy học thích hợp.Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực
phát triển học sinh một khía cạnh nào đó. Vì vậy, chúng ta cần phải biết
kết hợp nhiều hình thức tổ chức để phát huy thế mạnh của mỗi hình thức
tổ chức dạy học. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ
chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ lam việc, trao đổi thảo luận
với nhau nhiều hơn, cụ thể là sử dụng các hình thức dạy học sau:
*Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học
sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình
thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài
ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò
chơi, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh,
thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở.
*Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao
vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo
nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp
nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng
thời học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được
công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
- Thảo luận về một vấn đề học tập.
- Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh

một đề tài.
- Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
- Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
- Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
- Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
* Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến
trong dạy học lấy GV làm trung tâm.Trong dạy học lấy HS làm trung
tâm, để xuất hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao
vai trò hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều
tác dụng tích cực, nhưng không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong
một thời gian ngắn, vào những lúc thích hợp của tiết học như vào đầu,
giữa và cuối tiết học.
*Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài
hiện trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn
nuôi, nhà bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông ,hồ, thác
nước
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh.
Học sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được
học trong lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn.Liên hệ
thực tế với bài học HS phát triển kĩ năng quan sát,so sánh, óc tò mò, trí
tưởng tượng, bồi dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
*Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được
trong mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển.Vì vậy tổ chức trò
chơi chú ý những đặc tính: Vui - Khoẻ - An toàn - Có ích; trong đó bao
gồm cả giải trí, thư giản được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh,
có hai đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng
tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây

hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
* Tóm lại: Đổi mới PPDH cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy
học, mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các
vấn đề sau:
- Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho
học sinh chủ động, tích cực , sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
- Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc
tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu
giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự
lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích
cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh
hội thông tin khoa học mới.
- Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày
kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học
sinh, nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các
vấn đề nghiên cứu.
- Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu
quả to lớn trong việc dạy học.Việc dạy học trực quan không những làm
cho quá trình học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư
duy phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau
các hình thức và những biểu hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của
học sinh.
- Cải tiến công tác tự học. Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc
nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và
tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng
sự nghiên cứu của cơ sở lí luận DH của việc tổ chức công tác tự học của
học sinh.
- Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ
giữa GV và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người

GV phải là người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.

4.Cách giải quyết có hiệu quả:
a. Đối với việc học ở nhà:
- Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ
thể
gắn liền với thời gian cụ thể.
- Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các
em cho phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết
hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
- Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá
biệt,
những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin
thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
b.Đối với việc học ở lớp:
- Mượn thư viện của trường: Sách,đồ dùng học tập cho những học sinh
còn thiếu.
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình
thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
- Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị DDHT của các
em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
- Có hình thức nhắc nhở , khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động
viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em
lười học và không chú ý trong giờ học.
- Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba
đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
- Thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động và thảo luận theo
nhóm, tổ chức trò chơi hoặc sắm vai tuỳ theo môn học, bài học.
- Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các
tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân

- Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
* Đối với môn toán:
- Khi hướng dẫn HS trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn,
nắm vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc làm bài tập có liên quan đến
kiến thức đã học, hoàn thành bài với phép tính dễ hiểu với bước giải
nhanh nhất.
- Khi hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài
tập ở nhà trước, đọc và tập làm một số bài tập trong sách giáo khoa. Qua
vở dặn dò, phụ huynh có thể theo dõi việc học của HS kĩ hơn.
-Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như : Trực quan, dàm
thoại , thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em
là trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Do đó, GV phải sử dụng
triệt để các DDDH. Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS
thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em.
Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
-Tạo hứng thú cho các em bằng cách : Tổ chức thi giải toán nhanh; đố
vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa
các cá nhân , giữa các tổ, nhóm Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét,
đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng.
*Đối với môn tiếng việt:
-Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả
lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức
độ hoàn thành từ 50% trở lên.
- Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
+ với phân môn tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách
đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Đối với phân môn chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết,
tập chép bài đó vào vở ở nhà. Khi viết cần lưu ý những chữ hay sai để
hôm sau khi viết sẽ nhớ để viết đúng.
+ Đối với phân môn Tập làm văn: Yêu cầu HS đọc đọc phần gợi ý và

tập trả lời các câu hỏi trên giấy nháp trước.
+ Đối với phân môn Luyện từ và câu : Yêu cầu HS đọc đọc phần bài
tập và chuẩn bị bài trước ở nhà.
- Khi dạy bài mới: GV sử dụng triệt để các ĐDDH có liên quan đến
bài học, sử dụng phương pháp: Trực quan; đàm thoại; giảng giải; hỏi đáp;
thực hành; phân tích; tổng hợp; tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm và
hoạt động sắm vai
Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm
vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông
hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp
các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các
em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa
các cá nhân, giữa các nhóm, tổ qua các trò chơi học tập
5.Kết quả áp dụng đề tài :
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp tôi đang nghiên cứu nói
riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy
học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi
học tập ) đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và
sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong
lớp . Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng
say phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến
thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ huy động được năng lực,
nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ
cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho
các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
VI. PHẦN TỔNG KẾT:
1. Bài học kinh nghiệm:
Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là
những giờ lên lớp giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài
học bổ ích.

Dạy học vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nghệ thuật. Muốn
dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và
Nhà nước. Đòi hỏi người GV phải nổ lực ,sáng tạo, không ngừng cải tiến
phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.Thực hiện tốt chủ đề năm
học: “Môi trường thân thiện ; Học sinh tích cực”.
a . Về công tác giảng dạy:
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng
dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống
câu hỏi:
- Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
- Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
- Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ,
lô gic của bài dạy.
- Sử dụng tối đa DDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng
môn học.
- GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
- GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri
thức.
- Thực hiện tốt chỉ thị “Hai không” của Bộ GDDT; bám sát chủ đề năm
học để lên kế hoạch tháng, tuần cho phù hợp và khoa học.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác
định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có
lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao.
Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã
hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về
mọi công việc như: DDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ
càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn
ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài

một cách dễ dàng.Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo
của HS khá ,giỏi.
b.Về công tác chủ nhiệm:
GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm
thường là người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều
hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong
phạm vi lớp mình phụ trách, nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai
trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường với
đời sống xã hội.
Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người
GV phải rèn cho mình những năng lực sau :
- Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh, yêu thương học sinh.
- Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
- Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy, nề
nếp của trường, lớp.
- Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong

ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu
giáo dục học sinh.
Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là
GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan
trọng đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.

2.Kiến nghị đề xuất:
a. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Cung cấp kịp thời việc đổi mới phương pháp hoạt động.
- Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác
dạy học.
b. Đối với nhà trường:
- Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.

c. Đối với địa phương, gia đình:
- Xã phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên nghỉ
học hay bỏ học.
- Xã cũng nên có quỹ khuyến học cho những HS vượt khó, HS có hoàn
cảnh khó khăn.
- Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái
nhiều hơn.
- Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con
em.
- Cần mua sắm sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
Vì điều kiện, thời gian và khả năng có hạn, chắc chắn đề tài có phần
chưa thoả đáng, bản thân tôi mong có sự góp ý bổ sung của quý cấp lãnh
đạo và các bạn đồng nghiệp.
Để hoàn thành đề tài này tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường
cùng các bạn đồng nghiệp trường Tiểu học Xuyên Mộc đã tạo điều kiện
giúp đỡ cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.GD học (Nguyển Sinh Huy-NXBGD- 1997)
2.Tâm lí học (Phạm Minh Hạc -NXBGD- 1996)
4.Dự án GD tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Bộ GDSX năm
2005)
5.Chuyên đề : Một số PP và Hình thức tổ chức dạy học (Nguyễn Đức
Hoành -2006)
Xin chân thành cảm ơn.

×