ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỒN THỊ DUN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH - KẾ TOÁN QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN LONG
HÀ NỘI - 2012
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã
hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi
ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ
văn hố, kinh tế, v.v… trên quy mơ tồn cầu. Đặc biệt là tồn cầu hóa
về kinh tế. Một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá nhân có năng lực
phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho
cả xã hội. Mặt khác, tồn cầu hóa kinh tế cũng đem đến tác động tiêu
cực trong phát triển ổn định, bền vững nhất là đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế và lợi nhuận
lên trên hết, làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó, góp phần
làm băng hoại nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với
người trở nên lạnh lùng, xa lạ, "không tình, khơng nghĩa" và đây thực
sự là một nguy cơ của sự suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt
Nam hiện nay. Biểu hiện thông qua, lối sống sùng bái vật chất, cá nhân,
vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác
loạn, ưa dùng bạo lực... Lối sống đó đang phần nào tác động đến một
bộ phận tầng lớp thanh niên, sinh viên.
Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Đối với thế hệ
trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển tồn diện về chính
trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trị xung
kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đang là một yêu cầu
cấp bách.
Là một giảng viên của Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốnQuảng
Ngãi, nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo
đức cho sinh viên khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường là lý do để tôi
chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng Tài
chính Kế - toán Quảng Ngãi hiện nay”.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy rằng vấn đề về giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục
đạo đức cho sinh viên nói riêng từ rất lâu đã có sự quan tâm sâu sắc và
chặt chẽ của các nhà nghiên cứu, các học giả, của Đảng, Nhà nước cũng
như của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp khác nhau. Song, xu
thế phát triển của thời đại, của tồn cầu hố đang đặt chúng ta đứng
trước nguy cơ của sự suy thoái, băng hoại về đạo đức, lối sống, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Vì thế, việc nghiên cứu các giá trị đạo đức và
giáo dục đạo đức cho sinh viên, cho thế hệ trẻ cách mạng của nước ta
ngày hôm nay và mai sau không bao giờ là đủ. Vậy nên, thông qua
hàng loạt các bài viết, bài nói, các cơng trình nghiên cứu về đạo đức,
các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức... từ những vấn đề chung nhất đến
những cái riêng, cái cụ thể thì tác giả nhận thấy vẫn chưa có đề tài nào
nghiên cứu, nhấn mạnh về vấn đề “giáo dục đạo đức cho sinh viên Tài
chính - Kế tốn”. Do đó, tác giả đi sâu nghiên cứu đề tài luận văn của
mình là: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT Quảng
Ngãi hiện nay” với mong muốn sẽ làm rõ hơn và nổi bật lên vấn đề về
giáo dục đạo đức, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên tài chính - kế tốn
góp phần vào sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế nước nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm sáng tỏ, vai trị, nội dung, thực trạng của công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT Quảng Ngãi, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên thì luận văn có nhiệm vụ làm rõ: Đạo
đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT
Quảng Ngãi; Thực trạng, nội dung đạo đức và giáo dục đạo đức cho
sinh viên Trường CĐTCKT Quảng Ngãi; Đề xuất các giải pháp nhằm
4
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT
Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng:
Sinh viên đang học tập tại Trường CĐTCKT Quảng Ngãi
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
CĐTCKT Quảng Ngãi hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục và giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp một số
phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống,
so sánh, phỏng vấn, điều tra xã hội học… để trình bày những vấn đề đặt
ra trong luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò, nội dung, tầm quan trọng
của giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT Quảng Ngãi hiện
nay.
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường CĐTCKT
hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu để giáo dục đạo đức cho
sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN
1.1. Đạo đức và chức năng của đạo đức
1.1.1. Đạo đức
Trước C.Mác, các nhà triết học phương Tây, do duy tâm trong quan
niệm về lịch sử, nên mặc dù có những tư tưởng hợp lý nhất định về đạo
đức, nhưng nhìn chung, họ khơng giải quyết được một cách thật sự
khoa học những vấn đề căn bản của đạo đức học.
Với việc phát hiện chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác (1818-1883)
không chỉ tạo ra bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về sự phát
triển xã hội nói chung mà còn đặt cơ sở khoa học cho tất cả các lĩnh
vực khoa học xã hội, trong đó có đạo đức học.
Với tư cách là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm để điều
chỉnh hành vi con người, nhân loại bao giờ cũng cần đến đạo đức. Từ
cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông đến phương Tây, khơng lúc nào
vắng bóng hay thiếu sự hiện diện của đạo đức. Khoa học - kỹ thuật
càng phát triển, xã hội càng tiến bộ... nhân loại càng cần đến đạo đức.
Do vậy, “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã
hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã
hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người và con
người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội.”
1.1.2. Chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội góp phần quan trọng xây
dựng mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Chức
năng của đạo đức là giúp con người nhận thức, giáo dục và điều chỉnh
suy nghĩ, hành động phù hợp với những yêu cầu xã hội. Nhờ vậy con
người tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn mực trong xã hội. Đạo
đức cịn có vai trị to lớn giúp con người sáng tạo hạnh phúc và giữ gìn,
bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội và phẩm giá con người. Những giá
6
trị đạo đức cao cả có sức rung cảm sâu sắc làm thức tỉnh những tình
cảm cao đẹp và lâu bền trong tâm hồn con người. Đạo đức xã hội chủ
nghĩa chẳng những có ý nghĩa nâng cao lịng tin của con người vào
cuộc sống, nâng cao tính tích cực của họ, mà bản thân nó cũng là sự
biểu hiện lịng tin của con người và xã hội. Vì vậy trong quản lý xã hội
cần có sự quan tâm đúng mức của chức năng đạo đức: Chức năng giáo
dục; Chức năng điều chỉnh hành vi; Chức năng nhận thức.
1.2. Giáo dục đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.2.1. Giáo dục đạo đức
Theo C.Mác, giáo dục đạo đức, nghĩa rộng đó là sự hình thành đạo
đức, không quy giản chỉ về việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc,
những chuẩn mực xã hội, những cách thức ứng xử giữa người và người
theo những yêu cầu nhất định. C.Mác đặc biệt chú ý đến việc tạo ra
“hồn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng đáng nhất, hợp với
bản chất người nhất”, coi đó là cơ sở, đồng thời là một phương diện
hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện tối hậu quyết định sự phát
triển đạo đức con người.
1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức
Thứ nhất, giáo dục đạo đức có vai trị đặc biệt quan trọng trong
hình thành nhân cách của mỗi một con người cụ thể, bởi thông qua giáo
dục đạo đức nó thể hiện tập trung tính chất và phương hướng của “xây
dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.”
Thứ hai, giáo dục đạo đức có vai trị góp phần chuyển các quan
niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không
ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người từ
trình độ nhận thức thơng thường lên trình độ nhận thức khoa học.
Thứ ba, giáo dục đạo đức có vai trị khơng chỉ nâng cao trình độ
nhận thức đạo đức, giữ gìn những giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được
các thế hệ trước tạo nên, nó cịn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức
mới
7
1.2.3. Giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.2.3.1. Sinh viên và đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên
- Khái niệm sinh viên
Sinh viên là những người mang đầy đủ những đặc điểm chung của
con người và xã hội loài người. Nhưng bên cạnh đó, họ cịn mang
những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với
các vấn đề chính trị xã hội, vì thế họ có mối quan hệ sinh hoạt cộng
đồng khá gần gũi với những người cùng và khác thế hệ với họ. Với
những đặc điểm nêu trên họ có khả năng tiếp nhận cái mới nhanh và
linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội
hiện đại, vì thế theo tơi, trong khn khổ luận văn thì Khái niệm sinh
viên là: Sinh viên (chính quy) là những người trong độ tuổi 18 đến 25,
đang theo học tập trung chuyên nghiệp tại các trường Đại học và Cao
Đẳng trong phạm vi cả nước, có sự phát triển hoàn chỉnh về mặt sinh
lý, và sự thành thục mang tính tương đối về mặt tâm lý.
- Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên
Trước tiên là giai đoạn biến đổi sinh lý của sinh viên: Đây là
giai đoạn phát triển đỉnh cao của quá trình sinh trưởng và phát triển của
con người nói chung, giai đoạn này rơi vào khoảng từ 17 đến 20 tuổi.
Đây là giai đoạn hình dạng cơ thể, cơ bắp, xương cốt đều biến đổi
nhanh chóng. Xét từ góc độ phát triển sinh lý, thì đây chính là giai đoạn
phát triển mang tính ổn định của quá trình sinh trưởng từ hình dạng cơ
thể đến các hệ thống các cơ quan nội tạng và cơ năng. Vì thế sự phát
triển sinh lý của sinh viên không chỉ đem lại cho họ tiền đề sinh lý tất
yếu để họ sinh hoạt và học tập độc lập, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến
phát triển tâm lý, khiến họ tăng cường cảm giác đã là người lớn, nên
yêu cầu độc lập tự chủ rất mạnh mẽ, tinh thần hăng hái, muốn biểu thị
năng lực của mình.
Thứ hai là giai đoạn biến đổi tâm lý của sinh viên, trên cơ sở của
sự phát triển sinh lý thì sự biến đổi về mặt tâm lý của sinh viên cũng
diễn ra hết sức nhanh chóng, họ có những nhận thức nhất định về xã hội
8
và cuộc sống, họ đưa ra những nhận định rất “người lớn” về cuộc sống
xung quanh họ và các mối quan hệ khác bên ngồi xã hội thơng qua: Sự
phát triển về trí năng; Sự phát triển về tình cảm; Sự tự ý thức về bản
thân; Ý thức giới tính phát triển.
1.2.3.2. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên
Giáo dục đạo đức cho sinh viên có vai trò tạo dựng sự ổn định trật
tự lâu dài của xã hội. Bảo đảm tính chất và định hướng của nhà trường
xã hội chủ nghĩa. Giáo dục đạo đức cho sinh viên có vị trí hàng đầu và
chủ đạo trong giáo dục ở nhà trường bởi nó giữ vai trị định hướng cuộc
sống, duy trì được các giá trị đạo đức mà những thế hệ trước đã tạo ra
và lựa chọn các giá trị của thế hệ hôm nay. Giáo dục đạo đức cho sinh
viên có vai trị quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách
của mỗi cá nhân.
9
Chương 2
THỰC TRẠNG, NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH
- KẾ TỐN HIỆN NAY
2.1. Vài nét về Quảng Ngãi và Trường Cao đẳng Tài chính - Kế
tốnQuảng Ngãi hiện nay
2.1.1. Vài nét về Quảng Ngãi
Quảng Ngãi nằm ở miền Trung Trung bộ, có nhiều núi đồi cao, gị,
thung lũng và biển cả chia làm các vùng miền riêng biệt. Vùng miền
núi chiếm gần bằng 2/3 diện tích. Vùng miền đồng bằng: đất đai phần
lớn là phù sa nhiều cát, đất xấu. Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′ đến
15°25′ Bắc, từ 108°06′ 109°04′ Đông, tựa vào dãy núi Trường Sơn
hướng ra biển Đông, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp
tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, đến phía Đơng giáp biển
Đơng. Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách Thủ đô Hà
Nội 883 km về phía Bắc và cách thành phố Hồ Chí Minh 838 km về
phía Nam.
2.1.2. Vài nét về Trường và sinh viên Trường Cao đẳng Tài
chính - Kế tốn
Trường CĐTCKT được thành lập ngày 28/6/1976 với tên gọi
Trường Trung học Tài chính - Kế tốn 3 trực thuộc Bộ Tài chính.
Qua hơn 35 năm xây dựng và trưởng thành, Trường đã gặt hái được
nhiều thành tựu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Ngày 29/12/1997
Trường được Thủ tướng Chính phủ nâng cấp thành trường Cao đẳng
Tài chính - Kế tốn. Đến nay, Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn
lại được Thủ tướng chính phủ một lần nữa nâng cấp lên thành Trường
Đại học Tài chính - Kế tốn vào ngày 13/07/2011 đáp ứng nhu cầu mở
rộng đào tạo nguồn nhân lực không chỉ chủ yếu cho khu vực Miền
Trung và Tây Nguyên mà là đào tạo nguồn lực Tài chính - Kế tốn
trong phạm vi tồn quốc. Đây là cơ sở đào tạo Công lập thuộc Bộ Tài
10
chính nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ có trình độ Đại học, Cao đẳng và các trình độ thấp
hơn trong lĩnh vực kinh tế, tài chính - tiền tệ, kế tốn, quản trị kinh
doanh, hệ thống thơng tin quản lý, tiếng Anh; thực hiện nghiên cứu
khoa học trên lĩnh vực kinh tế - tài chính - kế tốn, phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội...
Trường CĐTCKT hiện có 4.542 sinh viên. Sinh viên của Trường
đến từ khắp mọi miền của Tổ quốc nhưng chủ yếu tập trung ở khu vực
Miền Trung và Tây Nguyên. Sinh viên Trường CĐTCKT được tuyển từ
số học sinh đăng ký dự thi đại học có nguyện vọng học tại Trường từ
các khối thi A và D, đa số có độ tuổi từ 18 đến 22, trẻ trung, năng động,
nhiệt tình, chăm ngoan
2.2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra cho việc giáo dục đạo
đức của sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốnhiện nay.
2.2.1. Tình hình đạo đức của sinh viên Trường Cao đẳng Tài
chính - Kế toán
Được sự giúp đỡ của Thầy hướng dẫn và sự cho phép của Ban giám
hiệu Trường CĐTCKT vào tháng 10 năm 2011 tác giả luận văn đã tiến
hành khảo sát 495 sinh viên thuộc khoá học 12 và 13 tại trường với 98
câu hỏi tập trung vào 5 vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến đề tài của
luận văn
2.2.1.1. Vấn đề về động cơ, thái độ học tập của sinh viên.
Động cơ đầu tiên để các em đăng ký tuyển sinh vào trường là “vì
uy tín và chất lượng đầu ra của trường” chiếm 61,14%; Động cơ thứ
hai, đây là loại nghề “dễ kiếm ra tiền” chiếm 36,01%; Động cơ thứ ba,
đây là loại nghề “dễ xin được việc làm” chiếm 55,86%; Động cơ thứ
tư, “chọn theo nguyện vọng và nghề truyền thống của gia đình” chiếm
32,35%; Động cơ thứ năm, “chọn theo sở thích của bản thân” chiếm
65,54%
Tuy nhiên, động cơ và thái độ là hai kết quả khơng tương thích bởi
khi vào Trường sinh viên phải đối mặt với những cái “rất mới” kể cả về
11
không gian, thời gian, con người, nơi chốn và thậm chí là ngay cả tiếng
mẹ đẻ cũng “mới”- do phát âm khác nhau… buộc mỗi sinh viên phải
tìm cách thích nghi; mới và xa lạ đối với các môn học, các khái niệm,
các phạm trù. Môi trường học tập mới là nơi “nhân tài hội tụ” trong
khi một bộ phận sinh viên vẫn còn tận hưởng cảm giác chiến thắng
trong “cái ao sau nhà”; Không chịu thay đổi cái cũ, nắm bắt phương
pháp học tập của giáo dục đại học nên rơi vào tình trạng bị động và thất
bại trong một số mơn học;… Vì thế, khi xác định vào học tại Trường
CĐTCKT thì yêu cầu thái độ học tập của sinh viên cũng phải có một sự
thay đổi mới để phù hợp và theo kịp với chương trình đào tạo theo học
chế tín chỉ của Trường.
2.2.1.2. Vấn đề quan niệm về nghề nghiệp
Tương đồng với “Động cơ và thái độ học tập” của sinh viên thì khi
khảo sát đến “Quan niệm về nghề nghiệp”, sinh viên Trường
CĐTCKT cũng đã có một số quan niệm ban đầu của mình về nghề
nghiệp như sau:
Quan niệm “dễ kiếm ra tiền và dễ xin được việc làm” chiếm đại đa
số 88,91%. Quan niệm về nghề nghiệp của sinh viên thật đơn giản và
cũng chính cái suy nghĩ quá ư là đơn giản của các em trong việc chọn
lựa nghề nghiệp nó cũng đã phản ánh phần nào đời sống thực của xã
hội đương đại, dường như tất cả mọi thành viên trong xã hội đều đang
theo đuổi “đồng tiền” để làm bước đệm cho các mục đích và ước mơ
riêng của từng cá nhân trong xã hội. Ðiều này đã tác động và ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống và sự quyết định con đường đi đến
tương lai của sinh viên. Nhiều sinh viên đã tâm sự “nghề nào học xong
kiếm tiền lo được cho mình và giúp đỡ được bố mẹ thì nên cố gắng
thôi”, ước mơ tưởng chừng như đơn giản nhưng để biến nó thành sự
thật thì cuộc sống sinh viên phải trải qua khơng ít những gian nan.
Ơng cha ta đã từng dạy bảo con cháu “học ăn, học nói, học gói, học
mở”, trong các trường học từ bậc tiểu học đến bậc phổ thơng đều
thường có câu “Tiên học lễ, hậu học văn” ấy vậy mà khi học đến những
12
bậc học cao hơn thì dường như sinh viên và các nhà quản lý giáo dục đã
bỏ mất cái phần “lễ” chỉ quan tâm chú trọng vào phần “văn” - tức phần
kiến thức chuyên ngành - cái mà có thể làm ra được cơm, áo, gạo, tiền
phục vụ trực tiếp cho cuộc sống hiện tại của bản thân mỗi cá nhân, con
người cụ thể.
Do vậy, hơn 50% sinh viên có mong muốn được học về đạo đức và
đạo đức nghề nghiệp, yêu cầu Nhà trường cần phải có sự quan tâm thoả
đáng cho vấn đề về đạo đức và giáo dục đạo đức trong nhà trường, mà
đặc biệt là giáo dục đạo đức nghề nghiệp để sinh viên có cơ hội lĩnh hội
được những điểm đến cao hơn trong sự nghiệp của mình.
2.2.1.3. Vấn đề quan niệm về lối sống.
Xã hội hiện đại với muôn vàn các yêu cầu về sự phát triển đã đòi
hỏi con người sống trong xã hội đó ln ln phải vận động, vận động
và vận động liên tục để phù hợp với xu thế của thời đại, hay nói chính
xác hơn là để phù hợp với chính những yêu cầu, những thay đổi quá ư
là mau chóng của của bản thân cá nhân những con người hợp thành xã
hội đó. Điều ấy buộc mỗi một con người cụ thể phải dốc toàn lực cho
cuộc sống, cho nhu cầu của chính bản thân, gia đình và xã hội. Và kết
quả, mỗi một bước vinh hoa, mỗi một đỉnh vinh quang mà con người
chinh phục được đã để lại phía sau nó khơng ít những tổn thất, đặc biệt
là về các giá trị tinh thần mang đậm tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc
của người Á Đơng. Với sinh viên Trường CĐTCKT trong “Quan
niệm về lối sống” tác giả đi sâu phân tích một số quan niệm sau đây:
Một là, quan niệm của sinh viên về tình yêu, tình dục
Các quan niệm về đạo đức trong tình bạn, tình yêu và tình dục đối
với họ - những thứ thiêng liêng và bí ẩn của ngày xưa - giờ trở nên bình
thường, thơng dụng, phổ biến, hiển nhiên. Chỉ hơn 7% sinh viên cịn
ngại, khơng dám tìm hiểu về “an tồn tình dục” vì sợ bị người khác
hiểu nhầm, một con số quá là khiêm tốn so với cái nền văn hóa đồ sộ,
cổ kính của Phương Đơng vẫn còn đang ngự trị trên cả bề mặt lẫn chiều
sâu của xã hội hiện đại.
13
Hai là quan niệm về cách sống và xu hướng phát triển
Sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba là những người đang bước
vào giai đoạn phát triển một cách toàn diện. Đây là giai đoạn mà sinh
viên biểu hiện một cách rõ nét nhất quan điểm, tư tưởng và chính kiến
của bản thân đối với các vấn đề về nhận thức cũng như là về cuộc sống
quanh họ: Tư tưởng về nghề nghiệp dần ổn định; Mục tiêu phấn đấu
ngày càng rõ ràng; Suy nghĩ về cuộc đời sâu sắc hơn; Ý thức về trách
nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội.
2.2.1.4. Vấn đề quan niệm về thầy cô, bạn bè
Thầy cô và bạn bè là hai mối quan hệ ràng buộc tự nhiên giữa
người với người trong môi trường học đường, giữa những người cung
cấp kiến thức và những người nhận kiến thức, giữa những người tiếp
nhận kiến thức ấy với nhau họ dạy và học, hỏi han, trao đổi và khảo
nghiệm với nhau về tất cả những gì vướng vào cuộc sống của họ… tất
cả những điều ấy để lại trong lòng lớp lớp học trị và thầy cơ những kỷ
niệm, những kỷ niệm không thể nào quên để mai này trên đường đời,
gặp nhau, nhắc lại và cười…!
87,37% sinh viên cho rằng khi đứng trên bục giảng thầy cô là
những người thật uyên bác về kiến thức, bài giảng sinh động, sôi nổi và
gần gũi với sinh viên. 12,63% còn lại do nhiều yếu tố kể cả khách quan
và chủ quan từ phía người dạy lẫn người học có thể là do một số thầy
cô quá nghiêm khắc hoặc do một số sinh viên q lười hoặc khơng may
hơm đó “qn” học bài, hoặc vì thời tiết, hoặc vì chuyện gia đình…mà
bị thầy cơ quở phạt nên khơng có thiện cảm mấy khi đánh giá về thầy
cơ của mình.
54,10% giảng viên đứng lớp ngoài việc giảng bài, cung cấp cho
sinh viên lượng tri thức cần và đủ cho mơn học mình đảm nhận giảng
dạy thì các thầy, các cơ cũng đã thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống và
sinh hoạt của sinh viên thông qua những lời hỏi thăm, những lời động
viên, những lời khuyên, lắng nghe và giải đáp thắc mắc của sinh viên
về nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực “thượng vàng hạ cám” , “đông tây kim
14
cổ” miễn là vấn đề không quá phức tạp để đưa ra câu trả lời tại chỗ, còn
những vấn đề khó và phức tạp ngồi phạm vi có thể giải đáp của mình
thì thầy cơ hẹn sẽ giải đáp lần sau hoặc giới thiệu người có thể giải đáp
được.
Cùng với mối quan hệ giữa Thầy cơ và Học trị thì trong mơi
trường học đường cịn có mối quan hệ khơng thể thiếu đó là quan hệ
giữa những người học trị ấy với nhau mà ta thường gọi đó là mối quan
hệ “bạn bè”.
Sinh viên cho rằng đã là bạn bè thì phải: Biết chia sẽ, lắng nghe;
giúp đỡ, thấu hiểu; gắn bó, bảo bọc; đồng cảm qn mình. Tình bạn là
một tình cảm nảy sinh tất yếu thơng qua nhu cầu kết giao của bản thân
mỗi con người cụ thể với người khác và với cộng đồng. Tình bạn là
biểu hiện tốt đẹp trong quan hệ xã hội giữa người và người. Trong cuộc
sống, tình bạn có ý nghĩa vơ cùng quan trọng nó cổ vũ con người tiến
lên, thúc đẩy con người phát triển tồn diện nhân, trí, thể, mỹ.
2.2.1.5. Vấn đề quan niệm về chính trị, pháp luật
Hiện nay, giáo dục chính trị, pháp luật tại Trường CĐTCKT được
thực hiện bằng nhiều hình thức, nhưng hình thức chủ yếu nhất vẫn là:
giáo dục chính trị, pháp luật thơng qua các chương trình mơn học có
liên quan trực tiếp đến chính trị, pháp luật và thơng qua các hình thức
tuyên truyền như: Hội thi, hội diễn, diễn đàn giao lưu… bằng rất
nhiều thể loại biểu hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban
giám hiệu, các phòng, ban chức năng, khoa, bộ mơn trực thuộc
Trường, Tỉnh Đồn, các đơn vị, cơ sở đào tạo trong Tỉnh với Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên của Nhà trường và đã gặt hái được nhiều
thành công rực rỡ
15
2.2.2. Tình hình giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao
đẳng Tài chính - kế tốn
2.2.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng
Tài chính - Kế toán
Thứ nhất, giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Đạo đức nghề nghiệp là việc áp dụng các nguyên tắc về hành vi
ứng xử trong khi hành nghề. Giống như tư cách đạo đức của một công
ty, hành động đạo đức của một nghề nghiệp là tập hợp tất cả các hành
động của các cá nhân trong nghề đó. Là thành viên của nghề kế tốn,
các kế tốn viên có trách nhiệm không chỉ đối với chủ và khách hàng
mà cịn đối với xã hội là phải duy trì các tiêu chuẩn đạo đức cao quý
nhất.
Sự tiến bộ của xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực
nào cũng phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cơ bản. Những người hành
nghề đều dựa vào đặc thù và những nguyên tắc chuẩn mực cơ bản có
ảnh hưởng quan trọng đến nghề nghiệp để làm nền tảng xây dựng đạo
đức nhằm đảm bảo cho nghề nghiệp và sản phẩm của ngành nghề được
xã hội trọng dụng, tôn vinh.
Thứ hai, giáo dục lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng do
Đảng cộng sản lãnh đạo.
Giáo dục lòng yêu nước và sự trung thành với sự nghiệp cách mạng
của Đảng giúp sinh viên có nhận thức đúng và từ đó có những hành
động thiết thực trong lao động, trong học tập và trong cống hiến. Bởi
“thanh niên có những đặc điểm của tuổi trẻ mà các lứa tuổi khác khơng
có. Đó là lớp người đang lớn lên về thể chất, đang phát triển về trí tuệ,
rất giàu tinh thần xung phong, hăng hái, ham tiến bộ, thiết tha với lý
tưởng tốt đẹp của Đảng và khơng sợ khó khăn, nguy hiểm, sẵn sàng hi
sinh phấn đấu vì lý tưởng đó. Với những đức tính ấy, Đảng tin tưởng
rằng thanh niên sẽ kiên quyết phấn đấu đến cùng dưới lá cờ của Đảng”.
16
2.2.2.2. Hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trường CĐTCKT
Thứ nhất, giáo dục đạo đức qua các môn học. Thực trạng giáo
dục đạo đức cho sinh viên của Trường CĐTCKT hiện nay theo kết quả
khảo sát của tác giả có thể nêu ra được một số vấn đề có tính chất nổi
cộm như sau: Sinh viên khơng mấy mặn mà nếu khơng muốn nói theo
khuynh hướng tiêu cực đó là các em “ghét” học các mơn: Những
nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin; Đường lối cách mạng
của Đảng cộng sản Việt Nam; Các mơn học về Luật vì một số lý do
sau: “Khơng ăn nhập gì với chuyên ngành mà sinh viên học; Khơng
phục vụ được gì cho sinh viên sau khi ra trường; Kiến thức và ngơn ngữ
hàn lâm rất khó hiểu; Thầy cô giảng bài rất chán, thiếu sinh động và xa
rời thực tiễn”. Trong sinh viên xuất hiện, tồn tại tư tưởng coi thường
một số môn học chủ yếu là các môn học cơ sở và cơ sở ngành, họ cho
rằng: “Đó là mơn học khơng quan trọng; Để dành sự quan tâm, ưu tiên
cho các môn học ứng dụng; Nên bỏ bớt một số môn”.
Thứ hai, giáo dục đạo đức qua các môn cơ sở ngành và chuyên
ngành.
Giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp trong môi trường giáo
dục chuyên nghiệp chỉ là bộ phận nhỏ trong tổng quan tri thức của con
người và quan hệ của họ với cộng đồng, môi trường, xã hội nơi mà họ
đang sống. Tuy nhiên, sự tác động và ảnh hưởng của giáo dục đạo đức
nghề nghiệp đến sự phát triển, trưởng thành của bản thân cá nhân con
người cụ thể đối với xã hội là vơ cùng to lớn. Vì, sự tinh thông nghiệp
vụ, thành thạo về chuyên môn là biểu hiện đạo đức cao đẹp của từng cá
nhân, họ ý thức về trách nhiệm, bổn phận về một công việc cụ thể là
điều kiện để tạo nên ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ trước người thân,
gia đình, quê hương và cao hơn là dân tộc và Tổ quốc. Do vậy, các
Khoa đào tạo chun mơn cũng có trách nhiệm tham gia theo cách
riêng của mình, để xây dựng nền đạo đức cho sinh viên .
17
Và một thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục đạo đức qua các
mơn học nêu trên vẫn chưa thốt ra khỏi phương pháp truyền thống
mặc dù đã có áp dụng một số phương tiện kỹ thuật hiện đại vào việc
truyền tải nội dung chương trình mơn học đến với sinh viên ví dụ như
ngày xưa áp dụng phương pháp “thầy giảng trị ghi” là phương pháp
chủ đạo thì ngày nay, với kỹ thuật hiện đại xuất hiện phổ biến hình thức
“thầy chiếu, trị chép”.
Thứ ba, giáo dục đạo đức qua các hoạt động của Nhà trường,
các đoàn thể: Giáo dục đạo đức thơng qua giáo dục chính trị tư tưởng;
Giáo dục đạo đức thơng qua giáo dục chính trị pháp luật; Giáo dục đạo
đức thông qua giáo dục đạo đức, lối sống.
18
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
TÀI CHÍNH KẾ TỐN QUẢNG NGÃI HIỆN NAY
3.1. Nâng cao hiệu quả cơng tác, phương pháp giảng dạy các
môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc giáo dục đạo đức thơng qua giảng dạy học tập các môn học:
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam… đặt ra yêu
cầu rất nặng nề cho những người làm công tác giảng dạy các mơn học
này, nó địi hỏi, một mặt phải có kiến thức sâu, rộng ở nhiều lĩnh vực,
mặt khác, phải có khả năng truyền tải hệ thống thông tin đến cho người
học một cách thiện cảm nhất, khoa học nhất, tạo dựng niềm tin cho
người học để đào tạo nên một thế hệ tiếp nối truyền thống bằng “lửa”
đã v9à đang cháy trong tim, bằng tình yêu đối với chế độ và con người
đang xây dựng chế độ - chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa. Song hiện thực của cuộc sống, của cơ chế thị trường, của tồn
cầu hóa, của sự suy đồi, băng hoại về đạo đức lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, sinh viên… đã đặt lên vai những người làm công tác
tuyên truyền, giáo dục về chế độ, về lý tưởng về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ngày càng khó khăn hơn, khó thuyết
phục hơn. Địi hỏi những người làm cơng tác giảng dạy phải có nghệ
thuật truyền đạt, khả năng sư phạm phù hợp cho từng đối tượng bởi, nội
dung giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
phải tuỳ theo đối tượng, tuỳ theo cấp học, mà áp dụng cho thích hợp,
nhưng cấp học nào cũng phải coi việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là cơ sở của việc giáo dục tư tưởng và
chính trị. Chính vì thế, u cầu đổi mới phương pháp và nâng cao chất
lượng giảng dạy các môn học này không chỉ là một yêu cầu bắt buộc
19
mà trên hết nó phải là một nghệ thuật đỉnh cao trong công tác tuyên
truyền.
3.2. Xây dựng nội dung chương trình đảm bảo các yếu tố của
giáo dục đạo đức
3.2.1. Xây dựng nội dung giáo dục đạo đức phù hợp, bảo đảm sự
kết hợp giữa giáo dục đạo đức truyền thống với giáo dục đạo đức
chuyên môn nghiệp vụ, quản lý doanh nghiệp
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Nên trong cuộc sống hiện đại dù con người có đạt được
trình độ phát triển đến như thế nào đi nữa thì cũng khơng thể tách rời,
thốt ly tồn bộ với cái truyền thống. Nói như thế khơng có nghĩa là ta
cứ sống và ta cứ tiếp tục duy trì cuộc sống từ thế hệ này sang thế hệ
khác mà khơng cần phải giáo dục thì những giá trị mà dân tộc ta đã
từng có ln ngự trị và đi theo trong hành động và việc làm của ta. Để
cho đến ngày nay chúng ta sáng tạo được nhiều giá trị hơn nữa bên
cạnh những cái truyền thống là do sự lao động miệt mài trong cuộc
sống đã tôn tạo nên các giá trị ấy và công tác giáo dục nói chung, giáo
dục đạo đức nói riêng cũng đã tạo ra được những thành tựu đáng trân
trọng.
Với những giá trị mà chúng ta có được ấy, khơng hề đơn giản, dễ
dàng mà phải trả và xây bằng máu và nước mắt của biết bao thế hệ cha
anh từ thuở dựng nước. Vì thế, ngày nay, trong điều kiện của hịa bình,
để tiếp nối tư tưởng yêu nước của truyền thống, để xứng đáng và tự hào
là một dân tộc anh hùng thì thanh niên, sinh viên phải là những con
người được giáo dục, được rèn luyện, được trau dồi, được củng cố,
được bổ sung những khuyết thiếu trong tư tưởng từ sự giáo dục trong
chính nội dung chương trình đào tạo của Nhà trường và sự uốn nắn,
nhắc nhở những hành vi lệch lạc từ phía gia đình và xã hội mới mong
tạo nên được một thế hệ có sự nối tiếp giữa giáo dục đạo đức truyền
thống với giáo dục đạo đức chuyên môn nghiệp vụ.
20
3.2.2. Gắn chặt hơn nữa việc giáo dục đạo đức với thực hành đạo
đức trong công tác hướng dẫn sinh viên thực tập, thực tế
Trong thời đại ngày nay khi mà mọi thứ dường như đã được “bình
thường hóa” thì “giặc” lại ngày đêm chống phá, “giặc” đó chính là “xu
hướng thực dụng, lối sống hưởng thụ có chiều hướng gia tăng”. Do đó,
chúng ta khơng được phép lơ là nhiệm vụ “tiếp lửa truyền thống” dù là
ở bất kỳ tình huống nào, lĩnh vực nào, cơng việc gì và Hồ Chí Minh là
tấm gương sáng ngời trong giáo dục đạo đức và thực hành đạo đức.
Người nói: “Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không
hành thì học vơ ích. Hành mà khơng học thì hành không trôi chảy”. Do
vậy, công tác hướng dẫn sinh viên thực tập, thực tế là một trong những
môi trường thuận lợi để thực hiện hành vi giáo dục đạo đức cho sinh
viên một cách hiệu quả nhất. Bởi, trong thực tập, sinh viên được các
Thầy cô giáo không chỉ hướng dẫn tận tình về chun mơn mà cịn,
hoặc nêu ra các tình huống giả định hoặc dựa trên một số tình huống cụ
thể yêu cầu sinh viên phải giải quyết vấn đề nhằm vừa bảo đảm được
lợi ích của chủ thể kinh tế vừa bảo đảm được chuẩn mực đạo đức
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp... và trên hết là không vi phạm pháp
luật.
3.3. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, trường
học thân thiện - học sinh tích cực.
3.3.1. Xây dựng mơi trường kinh tế - xã hội lành mạnh
Thực trạng các loại tệ nạn xã hội hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi cũng như trong phạm vi cả nước cho chúng ta thấy nổi lên vấn đề
đặc biệt nghiêm trọng trong đạo đức lối sống của một bộ phận thanh
niên, sinh viên đó là các đối tượng phạm tội đang ngày một trẻ hóa,
động cơ và tính chất vụ án mỗi ngày một nghiêm trọng hơn mà các lý
do chủ yếu xoay quanh về “TIỀN” nhằm thỏa mãn các nhu cầu “bức
bách” của hung thủ như: Cần tiền để chơi game, cần tiền để mua sắm,
cần tiền để hút chích, cần tiền để đánh bạc, cần tiền để uống rượu…
cũng có khơng ít các trường hợp sinh viên , thanh niên phạm tội là do
sự lạm dụng quyền lực của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý… Riêng
đối với Trường CĐTCKT mặc dù chưa có trường hợp phạm tội
21
nghiêm trọng nào nhưng nhiều hình thức xử lý kỷ luật đã được ban
hành với lý do sinh viên nghỉ học dài ngày không lý do, sinh viên uống
rượu, đánh lộn… Do vậy cách giải quyết vấn đề trên để đạt được hiệu
quả giáo dục cao nhất đó là tạo môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh
bằng cách:
Thứ nhất, Phát động các phong trào văn hoá xã hội do Đoàn Thanh
niên và Hội sinh viên tổ chức rộng rãi trong Nhà trường.
Thứ hai, nêu gương người tốt, việc tốt.
Thứ ba, thực hiện nghiêm khắc các chế tài nếu sinh viên vi phạm
quy chế.
3.3.2. Xây dựng Trường học thân thiện - học sinh tích cực
Vừa qua, Bộ Giáo dục - Đào tạo có Cơng văn số: 307/KH-BGDĐT
ngày 22 tháng 7 năm 2008 về "Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thơng năm học 2008 - 2009 và giai
đoạn 2008-2013.
Nhận thấy đây là một mơ hình mới, tích cực và cũng là một trong
những yếu tố đóng góp to lớn trong q trình giáo dục đạo đức nhân
cách của học sinh. Vậy nên tác giả cũng mạnh dạn đề cập kiểu mơ hình
này áp dụng đối với sinh viên Trường CĐTCKT bởi, theo ý kiến chủ
quan của tác giả thì phần lớn là do chúng ta vẫn chưa tạo ra được môi
trường thật sự thân thiện cho sinh viên hoạt động.
Do vậy, Nhà trường cần tạo điều kiện cho sinh viên có được sân
chơi lành mạnh để thư giản và giải trí sau những giờ học căn thẳng bao
gồm: sân bóng đá, bóng chuyền, sân cầu lông, bể bơi, nhà tập đa năng,
bản tin bao gồm tin phát thanh và bảng tin giấy trong đó có các trang
tin về tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội nhưng
đặt biệt quan tâm và đăng tải những trang tin liên quan đến cuộc sống,
sinh hoạt và học tập của sinh viên… qua đó cũng đẩy lùi được các thói
hư tật xấu, giảm thiểu được các tệ nạn xã hội và đồng thời bảo đảm
được chất lượng nguồn lực cho xã hội sau khi sinh viên tốt ngiệp ra
trường. Đẩy mạnh các hình thức kết giao trong sinh viên với nhau và
với cộng đồng, doanh nghiệp - nơi các em đang hoạt động lao động và
học tập nhằm tạo ra sự quen biết, học hỏi, trao đổi, khảo nghiệm, tư vấn
22
chuyên môn, tư vấn tâm lý, cơ hội việc làm, cơ hội nghề nghiệp cho
sinh viên.
3.4. Đổi mới công tác quản lý giáo dục đạo đức
Quản lí là q trình điều hành, phối hợp sắp xếp và bố trí nhân lực
thực hiện các nhiệm vụ đã cho trước. Là hoạt động phối hợp và sử dụng
tối ưu các nguồn lực (con người, tài chính). Đối với cơng tác quản lý
giáo dục cần phải có sự đổi mới để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn
khách quan đồng thời phù hợp với nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo của Nhà
trường và xã hội. Do vậy, Trường Đại học Tài chính Kế tốn trong
cơng tác quản lý giáo dục đạo đức cần: Yêu cầu tuyển chuẩn và bồi
dưỡng chuẩn chuyên nghiệp đối với người làm công tác quản lý; Làm
tốt công tác tổ chức ngay từ buổi đầu tiên sinh viên còn bỡ ngỡ bước
vào trường ở tất cả các khâu: ăn, ở, đi lại, lớp học, phòng học, lịch học,
lịch làm việc, thời gian lên lớp, giảng viên phụ trách lớp, Văn phịng
đồn, Hội sinh viên , phịng đào tạo, phịng cơng tác học sinh - sinh
viên…; Tổ chức và quản lý lớp học vừa theo lớp sinh hoạt vừa theo lớp
học phần, trong đó việc tổ chức và quản lý theo các lớp học phần là khá
phức tạp do số lượng các lớp học phần rất nhiều nhưng chỉ tồn tại trong
một học kỳ. Vì vậy cần phải bố trí các cán bộ quản lý lớp học phần có
đầy đủ sự nhiệt tình, năng động, trẻ trung, mẫn cán, tâm huyết vào vai
trò vừa là giáo viên chủ nhiệm vừa là giáo viên cố vấn học tập, vừa là
người giám sát chuyên môn để đánh giá nhiệm vụ học tập của sinh
viên; Đoàn Thanh niên - Hội sinh viên cần coi việc tổ chức và quản lý
học tập của sinh viên làm nhiệm vụ chính cho các hoạt động của mình,
chứ khơng chỉ là hoạt động vui chơi, giải trí; Quan tâm sâu sát đến cơng
tác tun truyền bởi nó có sức mạnh cực kỳ to lớn, thơng qua tuyên
truyền nó tác động đến sự thay đổi của cái “khó dời - bản tính” của sinh
viên.
23
KẾT LUẬN
Đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên trong xã hội hiện thực
của thời đại ngày nay là một yêu cầu hết sức cấp bách đối với Việt
Nam. Vì đất nước ta là một đất nước đã và đang được xây dựng, phát
triển trên cơ sở của học thuyết Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
và cũng trên cơ sở ấy, Đảng Cộng sản cũng như nhân dân Việt Nam
khơng có lý do gì để cho những thói hư, tật xấu chiễm lĩnh và ngự trị
trên con đường mà lớp lớp cha ông của chúng ta đã xây nên bằng máu
và nước mắt.
Do vậy, khi mà một bộ phận trong chúng ta sống bằng mánh khóe
và thủ đoạn thì đó là lúc cán cân đạo lý phải được chìa ra để lặp lại cái
trật tự vốn có của cuộc sống. Đối tượng được quan tâm hàng đầu là
thanh niên và sinh viên bởi đây là lực lượng “kế thừa quá khứ, mở ra
tương lai”, nhiệm vụ của chúng ta là phải giáo dục và đào tạo họ kế
thừa những tinh hoa, cao quý, tốt đẹp nhất của quá khứ và theo đó,
những điều tốt đẹp, nhân hậu, đạo đức, tinh túy và giá trị ấy (cả về giá
trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) sẽ xây dựng một tương lai tươi sáng cho
hôm nay và mai sau.
24
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN TỚI LUẬN VĂN
1. Đoàn Thị Duyên (2011), “Quan niệm về Thầy Cơ của sinh viên
Trường Đại học Tài chính - Kế toán”, Nội san nghiên cứu khoa học,
Trường Đại học Tài chính - Kế tốn, (62).
2. Đồn Thị Dun (2012), “Thực trạng giáo dục đạo đức - đạo đức
nghề nghiệp qua các mơn học tại Trường Đại học Tài chính - Kế toán”,
Nội san nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Tài chính - Kế tốn,
(63).
3. Đồn Thị Dun (2012), “Quan niệm về lối sống của sinh viên
Trường Đại học Tài chính - Kế tốn”, Nội san nghiên cứu khoa học,
Trường Đại học Tài chính - Kế tốn, (64).
25